Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

các nguồn và thương phẩm ở đàng trong thế kỷ xvi – xviii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.22 KB, 20 trang )

Các nguồn và thương phẩm ở Đàng Trong thế
kỷ XVI – XVIII


Vũ Thị Xuyến


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn ThS. Lịch sử: 60 22 03 11
Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Mạnh Dũng
Năm bảo vệ: 2014
132 tr.


Abstract. Luận văn đã làm rõ được chức năng của Nguồn trong thương mại của Đàng
Trong. Các mặt hàng chủ yếu trong thương mại xứ Quảng, cách thức thu mua và buôn
bán chúng cũng được luận văn tập trung khảo cứu.

Keywords.Lịch sử Việt Nam; Đàng Trong; Thương phẩm; Thương mại
Content.
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với quá trình Nam tiến, mở rộng lãnh thổ,
tầm ảnh hưởng văn hóa về phương Nam. Ngay từ khi giành được độc lập vào thế kỷ X,
các chính thể phong kiến Việt Nam luôn có ý thức sâu sắc mở rộng không gian lãnh
thổ trên cả đất liền và trên biển [45, tr. 31-59], [139]. Tuy nhiên, quá trình Nam tiến
chỉ thực sự nổi bật, thu được kết quả to lớn và để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình
phát triển của dân tộc khi có sự ra đi của Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa
1
.
Khởi nghiệp trên một vùng đất vốn được coi là nơi “Ô châu ác địa”, chốn dung chứa
muôn vàn khó khăn. Tuy nhiên, với tầm nhìn vượt thời đại, chính sách phát triển đúng


đắn, Nguyễn Hoàng (CQ:1558-1613) đã mang đến sự hồi sinh, một diện mạo mới cho
vùng đất cực Nam của tổ quốc thời bấy giờ.


Sự hưng thịnh của hoạt động kinh tế ngoại thương, sự xuất hiện tấp nập của
những đoàn thuyền buôn ngoại quốc đã mang lại cho vương quốc của chúa Nguyễn
một mô hình phát triển hoàn toàn khác so với vùng đất Đàng Ngoài của họ Trịnh.
Được thiết lập trên mảnh đất của người Chăm trước đây, với cái nhìn cởi mở với biển,
người Chăm đã xây dựng và phát triển vương quốc của mình trên nền tảng kinh tế hải
thương và trở thành một đế chế biển phát triển trong nhiều thế kỷ, có tầm ảnh hưởng
mạnh mẽ trong khu vực và thế giới. Để có được các nguồn thương phẩm phục vụ cho
hoạt động buôn bán và bang giao khu vực, người Chăm đã triệt để khai thác sản vật ở
phía Tây lãnh thổ đặc biệt là nguồn gỗ quý và các sản vật từ rừng [50, 180], biến
những nguồn hàng này trở thành thương phẩm buôn bán mang giá trị to lớn
2
. Những
thành tựu rực rỡ ấy của người Chăm dường như đã được những người đến sau là các
chúa Nguyễn kế thừa và phát triển. Thực hiện chính sách trọng thương, triệt để khai
thác nguồn lực của đất nước, chúa Nguyễn cũng đặt vương quốc của mình trên nền
tảng kinh tế ngoại thương, phát triển Đàng Trong trở thành một thể chế biển, triệt để
phát huy truyền thống khai thác, phát triển giao thương và giao lưu văn hóa trên biển
[41, tr. 22]. Sự phát triển rực rỡ của kinh tế thương mại, chúa Nguyễn đang mang đến
sự phục hưng, một diện mạo mới cho các cảng thị của miền Trung Việt Nam [99, tr.
31]. Không thể phủ nhận rằng sự bùng nổ của những hoạt động thương mại tại xứ
Thuận – Quảng là sự tích hợp của yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Chúa Nguyễn đã triệt
để khai thác các sản vật để biến chúng thành thương phẩm mang giá trị kinh tế cao.
Các sản vật từ rừng, sản phẩm của ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp….thông qua
nhiều chặng khác nhau sẽ được chuyển đến các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong để
cung cấp cho thuyền buôn ngoại quốc. Xuất phát từ mục đích làm rõ những mặt hàng
được buôn bán trong nền thương mại của họ Nguyễn, cũng như những địa điểm Nguồn

– nơi gặp gỡ, buôn bán, trao đổi của thương nhân với cư dân bản địa, tôi đã chọn đề tài
“Các nguồn và thương phẩm ở Đàng Trong thế kỷ XVI – XVIII” làm đề tài luận văn
Thạc sĩ của mình.


Mảnh đất Đàng Trong nói riêng và thương mại của xứ Thuận – Quảng nói
chung đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Những kết quả
nghiên cứu từ các công trình này đã góp phần rất lớn phác dựng, làm rõ và gợi mở
nhiều vấn đề của lịch sử xứ Quảng. Kế thừa kết quả nghiên cứu của những nhà khoa
học đi trước, thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, khi khảo cứu về thương mại của họ Nguyễn, các nhà nghiên cứu
thường nhắc nhiều đến vai trò của Nguồn, vốn được biết đến là nơi thương nhân có thể
thu mua nguồn hàng và thương phẩm từ thị trường bản địa. Mặc dù luôn khẳng định
rằng chức năng kinh tế là vô cùng quan trọng, nhưng hầu như chưa có một công trình
nào nghiên cứu về Đàng Trong làm rõ thuật ngữ này cũng như khảo cứu và luận giải
chi tiết về chức năng kinh tế của Nguồn. Trong công trình nghiên cứu của mình, chúng
tôi cố gắng làm rõ những chức năng của Nguồn, hẳn là cùng với chức năng kinh tế thì
nguồn còn giữ nhiều vai trò khác nữa như chức năng hành chính, quân sự và chức
năng thu thuế.
Thứ hai, trong những nhân tố nội sinh góp phần tạo nên nội lực của thương mại
Đàng Trong thì nguồn thương phẩm đóng vai trò then chốt. Những mặt hàng mang giá
trị kinh tế cao như nguồn lâm, thổ sản, khoáng sản, mặt hàng thủ công nghiệp…không
chỉ là cơ sở để chúa Nguyễn thiết lập các mối giao thương, mời gọi thuyền buôn các
nước đến xứ Quảng buôn bán mà còn là điều kiện để chính quyền Thuận Hóa mở rộng,
tăng cường các mối bang giao trong khu vực và quốc tế. Trong ý nghĩa đó, luận văn cố
gắng làm rõ những mặt hàng được buôn bán, trao đổi trong nền thương mại của chúa
Nguyễn cũng như cách thức để thương nhân có được nguồn hàng mang giá trị kinh tế
cao từ thị trường bản địa.
Cuối cùng, thông qua việc phân tích những mối liên hệ thương mại giữa miền
ngược, miền xuôi, giữa những tộc người, thành phần cư dân trong nền thương mại xứ

Quảng, luận văn cũng đi sâu vào khảo cứu những liên kết thương mại mật thiết giữa
thượng nguồn và hạ nguồn, giữa biển và lục địa. Trong sự bùng nổ của các mối giao
thương và các hoạt động chuyên chở, thương mại đã mang đến cho Đàng Trong một
diện mạo mới, một mô thức phát triển đặc biệt trong lịch sử Việt Nam
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn tư liệu
Là một bộ phận tự nhiên của lãnh thổ Việt Nam, biển từ rất sớm đã đóng vai trò
vô cùng quan trọng đối với sự hình thành, phát triển của dân tộc Việt. Biển khơi nơi
hàm chứa nhiều rủi ro, nguy hiểm nhưng đồng thời cũng là mạch nguồn để cố kết
không gian lãnh thổ của người Việt. Biển không chỉ đóng vai trò tự nhiên là cân bằng
hệ sinh thái mà còn mang lại nguồn lợi lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội cho các cộng
đồng cư dân sống gần biển và dựa vào biển. Nếu như nhiều thập kỷ trước, lịch sử Việt
Nam chỉ được biết đến với hằng số nông dân/ nông nghiệp/ nông thôn thì hiện nay với
những thành tựu nghiên cứu liên ngành, đa ngành chúng ta ngày càng chứng minh
được truyền thống chinh phục và khai thác biển của người Việt. Trong ý nghĩa đó, hải
sử và hải thương ngày càng thu hút được sự quan tâm, khảo cứu của nhiều học giả
trong nước và quốc tế.
Để góp phần phác dựng lại diện mạo tự nhiên, kinh tế, xã hội của xứ Đàng
Trong, nguồn thư tịch cổ là nguồn tài liệu rất quan trọng được luận văn triệt để khai
thác và sử dụng. Những bộ sử được biên soạn dưới thời kỳ cầm quyền của vương triều
Nguyễn như: Đại Nam thực lục tập 1, 2, 3, 4, 5 (Nxb Giáo dục, 2007); Khâm định Việt
sử thông giám cương mục (Nxb Giáo Dục, 2007)….đã cung cấp cho luận văn cái nhìn
khái quát về bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của xứ Thuận Hóa dưới thời chúa
Nguyễn. Cùng với nguồn tư liệu thư tịch cổ thì các công trình như Ô châu cận lục của
tác giả Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là những nguồn tư liệu vô
cùng quý giá được chúng tôi triệt để khai thác. Không chỉ sử dụng thông tin từ các bộ
sử biên niên, trong luận văn chúng tôi cũng tập trung khảo cứu tỉ mỉ những biên chép
từ các bộ địa chí như: Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Gia
định thành thông chí… Những bộ địa chí biên chép về các tỉnh như Quảng Trị, Quảng
Bình, Quảng Nam… cũng được luận văn sử dụng làm tư liệu.
Thế kỷ XVII – XVIII, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều là những địa điểm lui

đến thường xuyên của những thương nhân, những nhà truyền giáo. Những biên chép
khách quan của thương nhân người Hoa, người Nhật, người châu Âu đã trở thành
nguồn tư liệu mang giá trị cao khi phác dựng lại lịch sử xứ Quảng. Các công trình như
Hải ngoại kỷ sự, (Viện đại học Huế, 1963) của nhà sư Thích Đại Sán đến Đàng Trong
năm 1695; Xứ Đàng Trong năm 1621, (Nxb TPHCM) của nhà truyền giáo Cristophoro
Borri; Một chuyến du hành tới xứ Nam Hà (1792 – 1793) của J.Barrow, cùng các công
trình của Alexadre Dhode, Hành trình và truyền giáo (Tủ sách đại kết Thành phố Hồ
Chí Minh, 1994), Những người châu Âu ở nước An Nam (Nxb Thế giới, 2006) của tác
giả Chales Maybon… là một trong những nguồn tư liệu tham khảo chính yếu phục vụ
cho luận văn.
Bên cạnh nguồn thông tin từ các bộ sử biên niên, ghi chép của những nhà
truyền giáo, luận văn cũng khai thác, kế thừa nhiều thành tựu của các học giả trong
nước và quốc tế về vị trí của Đại Việt nói chung, Đàng Trong nói riêng trong mạng
lưới thương mại khu vực giai đoạn này. Các công trình như, Thử phác dựng cấu trúc
lịch sử của khu vực Đông Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa) (Tạp
chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/1994) của học giả Sakurai Yumio , Vai trò của các
cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á từ thế kỷ 2 TCN đến đầu thế kỷ 19, (trong Đô thị
cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, 1991) của tác giả Shigeru Ikuta…. Các bài nghiên
cứu về thương mại của người Việt thời cổ trung đại như: Truyền thống và hoạt động
thương mại của người Việt thực tế lịch sử và nhận thức của tác giả Nguyễn Văn Kim
và Nguyễn Mạnh Dũng, chuyên luận Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại
biển Đông thời Cổ Trung đại, của tác giả Hoàng Anh Tuấn (tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử số 9+10 (389 + 390), 2008), Một cách nhìn từ biển: Bối cảnh vùng duyên hải miền
Bắc và Trung Việt Nam của Li Tana

(Nguyễn Tiến Dũng dịch, tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử, số 7&8, 2009)…
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những bài nghiên cứu được đăng trên các tạp
chí chuyên ngành như tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,
tạp chí Xưa và Nay, những bài nghiên cứu đã cung cấp nhiều thông tin thiết yếu cho

luận văn. Trong đó phải kể đến bài viết của tác giả Nguyễn Phước Tương (2000),
Nguồn hàng xứ Quảng dưới thời chúa Nguyễn (Tạp chí Huế xưa và nay, số 39 & 40),
đây được coi là một trong những công trình sớm nhất đề cập đến các mặt hàng của xứ
Quảng được buôn bán, trao đổi trong nền thương mại của họ Nguyễn. Cũng tập trung
khảo cứu về chủng loại nguồn hàng mang lại giá trị thương mại cao cho chính quyền
Thuận Hóa, bài viết Các nguồn hàng và thương phẩm của Đàng Trong của tác giả
Nguyễn Văn Kim trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4 năm 2011 cũng tập trung khảo
cứu chi tiết về nguồn hàng của Đàng Trong. Những kết quả nghiên cứu từ các công
trình này đều được luận văn tham khảo và kế thừa. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tham
khảo nhiều công trình như: Xứ Đàng Trong và các mối tương tác quyền lực khu vực,
(Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.2006), bài viết Ứng đối của chính quyền Đàng Trong
với các thế lực phương Tây, (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân
Văn, số 26 (2010) của tác giả Nguyễn Văn Kim; cùng các bài nghiên cứu Chính sách
hướng biển của chính quyền Đàng Trong (thế kỷ XVI – XVIII), (Tạp chí nghiên cứu
Đông Nam Á, số 8/2007) của Dương Văn Huy, hay bài viết Miền trung Việt Nam và
văn hóa Champa (một cái nhìn địa – văn hóa), (Tạp chí Nghiên cứ Đông Nam Á, số
4/1995) của tác giả Trần Quốc Vượng; Nguyễn Hoàng và bước khởi đầu cuộc Nam
tiến (tạp chí Xưa và Nay, số 104, (11/2002) của học giả Keith W.Taylor,… cũng là
những nguồn tài liệu phục vụ cho luận văn. Ngoài ra, chúng tôi còn khai thác các bài
nghiên cứu, những chuyên khảo tại các Hội thảo khoa học về Đàng Trong của các học
giả trong nước và quốc tế như: Kỷ yếu hội thảo khoa học Hội thảo Cù lao Chàm; Hội
thảo về Đô thị cổ Hội An; Hội thảo chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam;Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á (thế kỷ XVI-XVII),…
Ngoài những nguồn tư liệu trên, thừa hưởng kết quả từ những nghiên cứu liên
ngành, luận văn cũng triệt để khai thác nguồn tư liệu dân tộc học, nhân học về Đàng
Trong, những công trình như: Rừng người Thượng của tác giả Henri Maitre (2008),
Những kẻ săn máu của tác giả Le Pichon (2011), Dam Bo với công trình Miền đất
huyền ảo, các công trình do tác giả Nguyễn Hữu Thông chủ biên như: Ka Tu kẻ sống
đầu nguồn ngọn nước, Văn hóa làng miền múi Trung Bộ giá trị truyền thống và những
bước chuyển lịch sử (Dẫn liệu từ miền núi Quảng Nam)…

Cùng với nguồn tư liệu tiếng Việt, luận văn cũng tham khảo nhiều công trình
bằng tiếng anh của các học giả quốc tế viết về Đàng Trong nói riêng và Đông Nam Á
thế kỷ XVI – XVIII nói chung. Một trong những cuốn sách đó là, Southern Vietnam
under the Nguyen, Documents on the Economic History of Cochinchina (Đàng Trong)
1602 – 1777, (Institute of Southeast Asia Studies, 1993), của Li Tana và Anthony
Reid; cuốn Viet Nam Boderless Histories, (the University of Wisconsin press) của tác
giả Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid; hay cuốn, Water Frontier Commerce and the
Chinese in the Lower Mekong Region, 1750 – 1880, (Rowman and Littlefield,
Singapore, 2004) của tác giả NoLa Cooke và Li Tana. Học giả Alastair Lamb (1970)
với The Mandarin to Road to Old Hue Narratives of Anglo – Vietnamese Diplomacy
from the 17th century to the eve of the French Conquest. Gerald Cannon Hickey với
Sons of the Moutains Enthnohistory of the Vietnamese Central Highlands to
1954……Những tập du ký của các nhà du hành như: John Crawfurd (1830), Journal of
an embassy from the Governor – General of India to the courts of Siam and
Cochinchina; Olga Dror – K.W. Taylor (2006), Views of Seventeenth – Century
Vietnam Christoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin, Cornell
University Ithaca, New York,….Các công trình về bối cảnh của Đại Việt như: Victor
Lieberman (2003) với Strange Parallels Southeast Asia in Global Context, c. 800 –
1830, Nicholas Tarling (1992) với The Cambridge History of Southeast Asia,
Cambridge University Press, C.R. Boxer (2004) với South China in the Sixteenh
Century, Orchid Press Bangkok…
Các bài nghiên cứu khác như, Re-thinking the Sea in Vietnamese History:
Littoral Society in the Integration of Thuận – Quảng Seventeenth – Eighteenth
centuries, (Journal of Southeast Asian Studies, 37) của tác giả Charles wheeler; hay,
An alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the Seventeenth and Eighteenth
centuries, Journal of Southeast Asian Studies của học giả Li Tana; công trình A view
from the mountain: A Critical History of Lowland - Highlander Relations in Vietnam
(2010 International Conference on VietNamese and Taiwanese Studies, National
ChenKung University) của tác giả Oscar Salemink, Bennet Bronson (1977) với
Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes toward a Functional Model

of the Coastal State in Southeast Asia, Jams Kong Chin (2004), The Junk trade
between South China and Nguyen Vietnam in the later Eighteenth and Early
nineteenth centuries, Dr. Gutzlaff (1849), Geography of the Cochi – Chinese Empire,
cũng là những nguồn tư liệu quan trọng được luận văn sử dụng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc
của khoa học lịch sử. Cùng với cái nhìn lịch đại chúng tôi cũng đặt Đàng Trong dưới
dòng chảy đồng đại để đưa ra những nhận định sâu sắc và khách quan. Đồng thời,
chúng tôi cũng áp dụng triệt để phương pháp khu vực học nhằm có cái nhìn hệ thống,
các mối quan hệ thương mại của Đàng Trong với thị trường Đông Nam Á. Bên cạnh
đó, phương pháp nghiên cứu Hệ thống cấu trúc cũng được áp dụng trong luận văn,
nhằm đặt các nhân tố cấu thành nên nền hải thương Đàng Trong trong sự tác động, qua
lại lẫn nhau, cũng như sự tương tác của thị trường Đàng Trong với thị trường thương
mại khu vực và quốc tế. Ngoài ra, Phương pháp so sánh, Phương pháp phân tích, cũng
được chúng tôi sử dụng để nghiên cứu ngoại thương Đàng Trong. Nhằm đi đến những
nhận định, đánh giá về kết quả trong hoạt động thương mại Đàng Trong, chúng tôi
cũng triệt để áp dụng Phương pháp nghiên cứu liên ngành, như những kết quả nghiên
cứu về Đàng Trong từ quan điểm khảo cổ học, dân tộc học, nhân học và văn hóa
học…
4. Giải thích khái niệm
4.1. Cochinchina và Đàng Trong
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Cochin china, từ giữa thế kỷ XIX trở về trước,
chỉ miền Trung của Việt Nam hiện nay, và từ giữa thế kỷ XIX trở về sau, để nói đến
miền Nam Việt Nam. Lần đầu tiên chúng ta bắt gặp tên gọi Cochinchina này có lẽ là
trong tác phẩm The Suma Oriental của Tom Pires năm 1515. Đất nước ông muốn ám
chỉ chính là Việt Nam [67, 19]. Trong tiến trình lịch sử có thể thấy sau gần nửa thế kỷ
giao tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn (1627 – 1672), cục diện phân
cắt Đàng Ngoài (Tonkin) và Đàng Trong (Cochinchina) đã được xác lập với sông Gianh
làm giới tuyến. Trong luận văn, chúng tôi sử dụng thuật ngữ Đàng Trong hay
Cochinchina là để chỉ vương quốc của chúa Nguyễn tồn tại khi có sự ra đi của Nguyễn

Hoàng đến khi quân Tây Sơn chiếm được Thăng Long (1786), chấm dứt sự chia cắt hai
miền. Như vậy, khung niên đại mà luận văn quan tâm đó là vùng đất Đàng Trong trong
các thế kỷ XVI, XVII, XVIII.
4.2. Người Thượng, người Man
Trong nghiên cứu về vùng đất Đàng Trong, các nhà nghiên cứu thường bắt gặp
những thuật ngữ như “người Thượng”, “người Man” hay “người Mọi”. Theo ghi chép
của nhiều thương nhân ngoại quốc, nhiều nhà du hành khi có mặt ở Đàng Trong thế kỷ
XVII – XVIIII thì tên gọi này dùng để nói về những cư dân sinh sống ở vùng núi phía
Tây xứ Thuận Hóa, thuộc dãy núi Trường Sơn. Theo miêu tả của một vị nữ tu người
Pháp có mặt ở Đàng Trong năm 1686 thì: Xứ Đàng Trong, ở phía đông của nó là biển,
phía bắc là Đàng Ngoài, phía tây là những người man di Ké-moi, và phía nam là
vương quốc Chiampa [ ]. Xứ Đàng Trong dài một trăm dặm kể từ phía bắc xuống
phía nam, và mười, hai mươi hay hai mươi lăm dặm bề rộng. Cách những người man
di Ké-moi mười hay mười hai dặm, những người này vẫn dâng cống vật cho nhà Vua
Đàng Trong [11, 31] Chia sẻ với nhận định này, tác giả Phan Khoang cũng cho rằng,
“Những giống người ở miền cao nguyên, dọc theo dãy núi Trường Sơn Trung Việt và
ở cao nguyên Nam Việt, trước kia người ta thường gọi chung là Mọi [36, 399]. Trong
khuôn khổ nghiên cứu của mình, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “người Thượng”, “người
Man” cũng để chỉ những cư dân sống ở vùng núi thuộc dãy Trường sơn ở phía tây xứ
Thuận – Quảng. Để tôn trọng tính nguyên bản của tư liệu nên trong các dẫn chứng
chúng tôi vẫn giữ nguyên cách gọi “người Mọi”, hay “người Man”. Tuy nhiên, những
thuật ngữ này đều mang ý nghĩa chung là người Thượng.
4.3. Những khái niệm khác
Ngoài ra, trong luận văn, chúng tôi còn sử dụng một số khái niệm liên quan đến
cấu trúc thương mại như: Trung tâm liên thế giới, Trung tâm liên vùng…. Những khái
niệm này, chúng tôi sử dụng theo định nghĩa của GS. Sakurai Yumio.
- Trung tâm liên thế giới: là nơi giao thương giữa hai thế giới phương Đông và
phương Tây, đồng thời là nơi gặp gỡ của những trung tâm liên vùng với thị trường thế
giới.
- Trung tâm liên vùng: là trung tâm thu gom và phân phối hàng hóa với chức

năng trung chuyển giữa trung tâm liên thế giới và các vùng.
- Trung tâm vùng: là trung tâm thu gom và phân phối hàng hóa với chức năng
trung chuyển giữa các vùng với các địa phương.
-Trung tâm địa phương: là cầu nối thu gom và phân phối phục vụ địa phương
5. Các phần của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1: Vai trò, vị thế và tiềm năng của Đàng Trong
Chương 2: Nguồn trong kinh tế thương mại Đàng Trong.
Chương 3: Thương phẩm tại Đàng Trong
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Dương Văn An (2009), Ô châu cận lục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Đỗ Bang (1996), Phố Quảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII – XVIII, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
3. Đỗ Bang (2002), Ngoại thương Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên
(1614 – 1635), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (325).
4. J. Barrow (2008), Một chuyến du hành tới xứ Nam Hà (1792 – 1793), Nxb. Thế
giới, Hà Nội.
5. Borri, Cristophoro (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
6. Xuân Chiêm (1998), Người Anh với Cù Lao Chàm và Đà Nẵng, Tạp chí Xưa và
Nay, số 49B.
7. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
8. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
9. Coedès G (2008), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, (bản dịch của
PGS.TS Nguyễn Thừa Hỷ), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
10. Dam Bo (2003), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương)
(Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội Nhà Văn.
11. Jacques Dournes (2013), Potao một lý thuyết về quyền lực của người Jorai

Đông Dương (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Tri Thức.
12. Nguyễn Phước Bảo Đàn, Lê Thị Như Khuê, Đà Rằng: Dòng sông lịch sử và lối
mở của những luồng giao lưu, bài viết đăng trên Website:

13. Nguyễn Đình Đầu (1998), Đà Nẵng qua các thời đại, Tạp chí Xưa và Nay, số
54B.
14. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, Huế.
15. Phan Đại Doãn (1991), Hội An và Đàng Trong, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
16. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
17. Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại (Quyền thượng), Cổ học tùng
thư.
18. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
19. Nguyễn Mạnh Dũng (2006), Về hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn
Pháp với Đại Việt (nửa cuối thế kỷ XVII – giữa thế kỷ XVIII), Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, số 9.
20. Nguyễn Mạnh Dũng (2009), Vùng Đông Bắc Việt Nam trong tuyến hải trình
Đông Á thế kỷ VIII-XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9 (114).
21. Cửu Long Giang – Toan Ánh (1974), Việt Nam chí lược Miền thượng cao
nguyên.
22. Đỗ Trường Giang (2008), Sự chuyển hóa từ thương cảng Chăm sang Việt
(trường hợp Thị Nại – Nước Mặn), Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 8.
23. Vũ Minh Giang (1991), Người Nhật, Phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An,
trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
24. Andrew Hardy (2008), “Nguồn” trong kinh tế hàng hóa Đàng Trong, trong
Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XIX , Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Thanh Hóa 18-19/10/2008, Nxb. Thế
Giới.
25. Hasebe Gakuji (1991), Tìm hiểu mối quan hệ Việt – Nhật qua đồ gốm, sứ trong
Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội

26. Hội khoa học Lịch sử Việt Nam (2001), Những vấn đề lịch sử Việt Nam,
Nguyệt san Xưa & Nay - Nxb. Trẻ.
27. Nguyễn Hồng (1999), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam , Tập I, Nxb. Từ điển
bách khoa.
28. Dương Văn Huy (2007), Quản lý ngoại thương của chính quyền Đàng Trong
thế kỷ XVII – XVIII, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 12.
29. Dương Văn Huy (2007), Nhìn lại chính sách “Hải cấm” của nhà Minh – Trung
Quốc, trong Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVII – XVIII,
Nxb. Thế giới.
30. Dương Văn Huy (2009), Giao thương giữa vùng Đông Bắc Việt Nam với các
cảng miền Nam Trung Hoa thế kỷ X-XIV, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số
3(108).
31. Dương Văn Huy (2010), Hoạt động kinh tế của người Hoa ở Hội An thời kỳ các
chúa Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4.
32. Nguyễn Thừa Hỷ- Đỗ Bang – Nguyễn Văn Đăng (2000), Đô thị Việt Nam dưới
triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.
33. Shigenru Ikuta (1991), Vai trò của các cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á từ
thế kỷ 2 TCN đến đầu thế kỷ 19, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
34. Kawamoto Kuniye (1991), Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam,
trong Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH&NV (2000), Một chặng đường Nghiên cứu
lịch sử (1995-2000), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong (1558-1777) cuộc Nam tiến của
dân tộc Việt, Nxb. Văn Học, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Kim (2000), Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa
nguyên nhân và hệ quả, Nxb Thế giới, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Kim (2002), Hệ thống buôn bán ở Biển Đông thế kỷ XVI-XVII và
vị trí của một số thương cảng Việt Nam (Một cái nhìn từ điều kiện địa – nhân
văn), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1.

39. Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Kim, Nhật Bản với châu Á - Những mối liên hệ lịch sử và chuyển
biến kinh tế - xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Kim (2006), Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác
quyền lực khu vực, Tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử, số 6/2006.
42. Nguyễn Văn Kim, Mạng lưới giao thương Đông Á trước thời đại mở cửa và
những hệ quả phát triển - Trường hợp Hội An, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc
Á, số 3 (97).
43. Nguyễn Văn Kim (2010), Ứng đối của chính quyền Đàng Trong với các thế lực
phương Tây, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 26.
44. Nguyễn Văn Kim (2011): Nguồn hàng và thương phẩm Đàng Trong, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 4 (420).
45. Nguyễn Văn Kim (cb) (2011): Người Việt với biển, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
46. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Quảng Trị - đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn
Hoàng (1558 – 2013), Triệu Phong tháng 9/2013.
47. Kỷ yếu hội thảo khoa học (2002), Vai trò lịch sử Dinh trấn Quảng Nam, 8 – 2002
48. Phan Huy Lê (2006), Tưởng nhớ công lao của vua Trần Nhân Tông và công
chúa Huyền Trân, tạp chí Xưa và Nay, số 263 (7/2006).
49. Nguyễn Nhật Linh (2007), Thương nhân Hồi giáo và quan hệ thương mại giữa
Đông Nam Á và Tây Á thế kỷ XV – XVII, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số
6.
50. Henri Maitre (2008), Rừng người Thượng, Nxb Tri thức, H.
51. Charles B. Maybon (2006), Những người Châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
52. Shiro, Momoki (1999), Chămpa chỉ là một thể chế biển, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Nam Á, số 4.
53. Shiro, Momoki (2004), Đại Việt và thương mại Biển Đông từ thế kỷ X đến thế
kỷ XV, trong Đông Á – Đông Nam Á: Những vấn đề lịch sử và hiện tại, Nxb
Thế giới, Hà Nội.

54. Nguyễn Đức Nghinh (1998), Hai tài liệu Hà Lan nói đến người Nhật Bản ở Việt
Nam vào nửa đầu thế kỷ XVII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4.
55. Lại Bích Ngọc (2003), Về hoạt động của công ty Đông Ấn Hà Lan ở châu Á thế
kỷ XVII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (327).
56. Nguyễn Quang Ngọc (cb) (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
57. Vũ Dương Ninh (Cb) (2007), Đông Nam Á - Truyền thống và hiện tại, Nxb. Thế
Giới, Hà Nội.
58. Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế (2009), Nhận thức về miền
Trung Việt Nam hành trình 10 năm tiếp cận, Nxb Thuận Hóa, Huế.
59. Lê Đình Phụng (2007), Thương cảng Nước Mặn (Quy Nhơn) – xứ Đàng Trong,
trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Việt Nam trong hệ thống thương mại Biển
Đông, Nxb Thế giới, Hà Nội.
60. Trần Kỳ Phương, Thung lũng sông Thu Bồn: Một mẫu hình của phương thức
trao đổi ven sông nối kết thương đạo Đông – Tây ở miền Trung Việt Nam, bài
viết đăng trên website: vanhoamientrung.org
61. Le Pichon (2011), Những kẻ săn máu, bản dịch của Tạ Đức, Nxb Thế Giới, Hà
Nội.
62. Rhodes, Alexandre de (1994), Hành trình và truyền giáo, Tủ sách đại kết Thành
phố Hồ Chí Minh.
63. Sakurai, Yumio (1996), Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam
Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam
Á, số 4.
64. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Viện đại học Huế.
65. Vĩnh Sính (2001), Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa, Nxb Văn Nghệ và
Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
66. Sở văn hóa Thông tin - Thể thao Hải Hưng (1994), Phố Hiến kỷ yếu hội thảo
khoa học,
67. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và
18, Nxb Trẻ.

68. Li Tana (Nguyễn Tiến Dũng dịch) (2009), Một cách nhìn từ biển: Bối cảnh
vùng duyên hải miền Bắc và Trung Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số
7&8.
69. Tạp chí Xưa và Nay (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Nxb Văn hóa
Sài Gòn.
70. Keith W. Taylor (2002), Nguyễn Hoàng và bước khởi đầu cuộc Nam tiến, tạp
chí Xưa và Nay, số 104, (11/2002)
71. Nguyễn Q. Thắng (2007), Hoàng Sa, Trường Sa Lãnh thổ Việt Nam nhìn từ
công pháp quốc tế, Nxb Tri Thức.
72. Nguyễn Hữu Thông (cb) (2004), Ka Tu kẻ sống đầu nguồn ngọn nước, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
73. Nguyễn Hữu Thông (cb) (2005), Văn hóa làng miền múi Trung Bộ giá trị
truyền thống và những bước chuyển lịch sử (Dẫn liệu từ miền núi Quảng Nam),
Nxb Thuận Hóa, Huế.
74. Trung tâm nghiên cứu Huế (1999), Nghiên cứu Huế, tập I.
75. Trung tâm nghiên cứu Huế (2001), Nghiên cứu Huế,Tập II.
76. Trung tâm nghiên cứu Huế (2002), Nghiên cứu Huế, Tập III.
77. Trung tâm nghiên cứu Huế (2002), Nghiên cứu Huế, Tập IV.
78. Trung tâm nghiên cứu Huế (2003), Nghiên cứu Huế, Tập V
79. Trung tâm nghiên cứu Huế (2008), Nghiên cứu Huế, Tập VI.
80. Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam 1771 – 1802, Nxb.
Văn Sử học, Sài Gòn.
81. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG HN (2007), Việt Nam
trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
82. Yashiharu Tsuboi (1999), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb
Trẻ.
83. Hoàng Anh Tuấn (2000), Cù Lao Chàm và hoạt động thương mại ở Biển Đông
thời vương quốc Champa, trong: Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995 –
2005), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
84. Hoàng Anh Tuấn (2004), Mậu dịch gốm sứ của Công ty Đông Ấn Hà Lan với

Đàng Ngoài nửa sau thế kỷ XVII, trong: Đông Á – Đông Nam Á: Những vấn đề
lịch sử và hiện tại, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.
85. Hoàng Anh Tuấn (2005), kế hoạch Đông Á của công ty Đông Ấn Anh tại Đàng
Ngoài thập niên 70 của thế kỷ XVII, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9.
86. Hoàng Anh Tuấn (2006), Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại
Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua các nguồn tư liệu phương Tây, trong: Một chặng
đường Nghiên cứu lịch sử (2001 – 2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
87. Hoàng Anh Tuấn (2008), Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại biển
Đông thời Cổ Trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 9+10 (389 + 390).
88. Nguyễn Phước Tương (2000), Nguồn hàng xứ Quảng dưới thời chúa Nguyễn,
Tạp chí Huế xưa và nay, số 39 & 40.
89. Nguyễn Phước Tương (2004), Hội An di sản thế giới, Nxb Văn nghệ thành phố
Hồ Chí Minh.
90. Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
91. Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
92. Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 3, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
93. Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 4, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
94. Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 5, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
95. Viện sử học (2004), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
96. Viện sử học (2004), Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
97. Viện sử học (2004), Đại Nam thưc lục, Tập 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
98. Viện sử học (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
99. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (1996), Biển với người Việt cổ, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
100. Viện Sử học (1991), Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, H.1991, Hà Nội
101. Viện sử học (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
102. Trần Quốc Vượng (2008): Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của người
Chàm và người Việt, trong: Kỷ yếu hộ thảo khoa học về khu phố cổ Hội An 23-

24/7/1985, Hội An (tháng 3/2008).
103. Trần Quốc Vượng (1991), Vị thế địa – lịch sử và bản sắc địa – văn hóa của Hội
An, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hgội, Hà Nội.
104. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, Thần và Tâm
thức người Việt, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội.
105. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb. Văn hoá Dân
tộc, Hà Nội.
106. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam trung bộ: một cái nhìn địa sinh thái văn
hóa nhân văn, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4.
107. Trần Quốc Vượng (1998), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn
hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
108. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và
đầu XIX, Nxb. Sử học.
109. Vũ Thị Xuyến (2011), Các nguồn hàng và thương phẩm của Đàng Trong thế kỷ
XVI - XVIII, Khóa luận cử nhân, Khoa Lịch sử
110. Vũ Thị Xuyến (2013): Tư duy và chính sách hướng biển của Nguyễn Hoàng, Kỷ yếu
Hội thảo 45 năm thành lập khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, tháng 10/2013
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
111. C.R. Boxer (2004), South China in the Sixteenth Century, Orchid Press
Bangkok
112. Bennet Bronson (1977), Exchange at the Upstream and Downstream Ends:
Notes toward a Functional Model of the Coastal State in Southeast Asia, in
Karl Hutterer: Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia:
Perspectives from Prehistory, History, and Ethnography, Center for South and
Southeast Asian Studies The University of Michigan.
113. Jams Kong Chin (2004), The Junk trade between South China and Nguyen
Vietnam in the later Eighteenth and early nineteenth centuries, in Nola Cooke
And Li Tana, Water Frontier Commerce and the chinese in the lower Mekong
region 1750 – 1880, Rowman and Littlefield, Singapore.
114. John Crawfurd (1830), Journal of an embassy from the Governor – General of

India to the courts of Siam and Cochinchina.
115. David K. Wyatt (1994), Studies in Thai History, Silkworm Books.
116. Olga Dror – K.W. Taylor (2006), Views of Seventeenth – Century Vietnam
Christoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin, Cornell
University Ithaca, New York.
117. George Dutton (2006), The Tay Sơn Upprising Society and Rebellion in
Eighteenth – century, University of Hawai’I Press Honolulu.
118. Wang Gungwu – Ng Chin – Keong (2004), Maritime China in Transition 1750
– 1850, Harrassowits Verlag.
119. Dr. Gutzlaff (1849), Geography of the Cochi – Chinese Empire, ở Jounal of the
Royal Geographical Society of London, Vol 19 (1849).
120. Andrew Hardy, Mauro Cucarzi and Patrizia Zolese (2008), Champa and the
Archaeology of My Son (Vietnam), NUS Press Singapore.
121. Gerald Cannon Hickey (1982), Sons of the moutains Enthnohistory of the
Vietnamese Central Highlands to 1954, Yale University Press.
122. Alastair Lamb (1970), The Mandarin to Road to Old Hue Narratives of Anglo –
Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest,
Chatto and Windus London.
123. Victor Lieberman (2003), Strange Parallels Southeast Asia in Global Context,
c. 800 – 1830, Volume Integration on the Mainland, Cambridge University
Press.
124. Pierre Poirve (1993), Voyage de Pierre Poirve en Cochinchine, in Li Tana –
Anthony Reid, Southern Vietnam under the Nguyen, Documents on the
economic History of Cochinchina (Đàng Trong) 1602 – 1777, Institute of
Southeast Asia Studies.
125. Anthony Reid, Southeast Asia in the Early Modern Era Trade, Power, and
Belief, Cornell University Press.
126. Anthony Reid (1993), Southeast Asia in the Age of commerce, Volume 2:
expansion and crisis, Yale University press new Haven and LonDon.
127. Oscar Salemink (2010), A view from the mountain: A Critical history of

lowland – highlander relations in Vietnam, in 2010 International Conference on
VietNamese and Taiwanese Studies, National ChenKung University.
128. Li Tana (1998), Nguyễn Cochinchina Southern Vietnam in the Seventeenth and
Eighteenth Centuries, Southeast Asia Program Publications Cornell University
Ithaca, Newyork.
129. Li Tana (1998), An alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the
seventeenth and eighteenth centuries, Journal of Southeast Asian Studies 29, 1
(March 1998).
130. Li Tana (2004), Ships and Shipbuilding on the Mekong Delta, 1750-1840, in
Nola Cooke And Li Tana, Water Frontier “Commerce and the chinese in the
lower Mekong region, 1750 – 1880, Rowman and Littlefield, Singapore.
131. Li Tana (2006), The Eighteenth – century Mekong Delta and Its World of
Water Frontier, in Nhung Tuyet Tran and Anthony Reid, Viet Nam Boderless
Histories, the University of Wisconsin press.
132. Nicholas Tarling (1992), The Cambridge History of Southeast Asia, Volume I,
From Early Times to c. 1800, Cambridge University Press.
133. K.W. Taylor and John. Whitmore (1995), Essays into Vietnamese Pasts, Cornell
University, Ithaca, New York.
134. B.J. Terwiel (1984), A History of Modern Thailand 1767 – 1942, University of
Queensland Press.
135. Geoff Wade (2009), An Early Age of Commerce in Southeast Asia, 900 – 1300
CE, Journal of Southeast Asian Studies, 40 (2), June.
136. Charles J. Wheeler (2001), Cross – Culture Trade and Trans- Regional
Networks in the Port of Hoi An Maritime Vietnam in the Early Modren Era, A
Dissertation Presented to the Faculty of the Graduate School of Yale University
in Candidacy for the Degree of Doctor of Philosophy.
137. Charles Wheeler (2006), One region, two histories: Cham precedents in the
history of the Hoi An Region, in Nhung Tuyet Tran and Anthony Reid, Vietnam
Borderless Histories, The University of Wisconsin Press.
138. Charles wheeler, Re-thinking the Sea in Vietnamese History: Littoral society in

the integration of Thuận – Quảng Seventeenth – eighteenth centuries, Journal of
southeast Asian Studies, 37.

TÀI LIỆU INTERNET
139.
140.
141.
142.

×