Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại vườn quốc gia xuân sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.27 KB, 20 trang )

Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
tại vườn quốc gia Xuân Sơn


Phạm Thị Phương Loan


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn ThS. Du lịch: Chương trình đào tạo thí điểm
Người hướng dẫn : PGS.TS. Nguyễn Thị Hải
Năm bảo vệ: 2014
104 tr .

Abstract. Hệ thống hoá những vấn đề lí luận về du lịch sinh thái, du lịch sinh thái dựa
vào cộng đồng như các khái niệm, nguyên tắc, điều kiện phát triển …Trình bày thực
trạng hoạt động du lịch sinh thái tại Vườn Quốc gia Xuân Sơn, năng lực và sự sẵn sàng
của các cộng đồng sống trong vùng đệm và trong Vườn Quốc gia Xuân Sơn như các
cộng đồng làng Du, làng Lập và làng Côi.Đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch
sinh thái dựa vào cộng đồng bền vững trong khu vực nghiên cứu
Keywords.Du lịch; Du lịch sinh thái; Vườn Quốc gia Xuân Sơn; Phú Thọ
Content.
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch sinh thái (DLST) là một hiện tượng và xu thế phát triển trong những
năm gần đây của du lịch thế giới. Nó không đơn thuần chỉ là hoạt động du lịch thông
thường mà đồng thời là hoạt động giáo dục, hỗ trợ các mục tiêu bảo tồn môi trường tự
nhiên, các giá trị văn hóa bản địa. Và phát triển cộng đồng góp phần phát triển ngành
du lịch nói riêng, nền kinh tế - xã hội nói chung. Chính bởi tầm quan trọng đó năm
2002 được tổ chức du lịch thế giới lấy là năm quốc tế về DLST với chủ đề “Du lịch
sinh thái – chìa khóa để phát triển bền vững”.
Tuy du lịch không phải là một nhu cầu thiết yếu của con người song dần trở
thành một hiện tượng xã hội phổ biến hiện nay. Trên phương diện kinh tế, du lịch trở


thành nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội một khu vực, một quốc gia. Du
lịch đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn và trọng điểm, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống, đẩy mạnh hoạt động xóa đói giảm nghèo – đặc biệt là đối với thực
trạng đời sống còn nhiều khó khăn của cộng đồng dân cư vùng đệm tại VQG Xuân
Sơn - dựa trên cơ sở khai thác những lợi thế và điều kiện tự nhiên cũng như các giá trị
văn hóa truyền thống, lịch sử đáp ứng những nhu cầu của khách du lịch trong và ngoài
nước. Đồng thời trên phương diện phát triển bền vững, hoạt động DLST là hoạt động
thúc đẩy ý thức bảo vệ môi trường, gìn giữ các nguồn tài nguyên tự nhiên từ chính
cộng đồng dân cư địa phương và du khách.
Phú Thọ là một địa phương có nguồn tài nguyên du lịch phong phú với những
lễ hội lâu đời, các điểm di tích lịch sử, truyền thống văn hóa dân gian lâu đời, các
phong tục tập quán… Bên cạnh đó là vị trí địa lý, địa hình thuận lợi phát triển giao lưu
kinh tế - văn hóa - xã hội với các vùng phụ cận.
Tài nguyên du lịch tự nhiên của Phú Thọ chứa đựng các giá trị đặc biệt, đặc thù
của vùng địa hình địa chất trung du miền núi phía bắc: đồi núi thấp, hệ động thực vật
phong phú đa dạng (Các loài thực vật như: chò chỉ, kim giao, sắng…. Các loài động
vật: Voọc xám, vượn chó, cày bạc má, sơn dương…) biểu hiện rõ nét qua hệ sinh thái
tại Vườn quốc gia (VQG) Xuân Sơn. Kết hợp với điều kiện khí hậu khi đưa vào khai
thác phát triển kinh tế lâm nghiệp và dịch vụ du lịch tạo thành yếu tố phát triển kinh tế
dựa trên lợi thế cạnh tranh sẵn có hiệu quả; là nguồn tài nguyên tiềm năng lớn phát
triển DLST.
Tuy nhiên, hoạt động kinh tế dựa trên những nguồn tài nguyên này thật sự chưa
được phát triển, phát huy hiệu quả những giá trị sẵn có. Hoạt động du lịch hiện tại
đang dừng ở khía cạnh dựa vào nguồn tài nguyên tự nhiên, mang tính chất nhỏ lẻ. Đối
với hoạt động DLST các sản phẩm cung cấp đến khách du lịch còn hạn chế tại một vài
điểm nhỏ lẻ quen thuộc, chưa tạo ra được những điểm nhấn thu hút khách tham quan,
tìm hiểu và khám phá. Bên cạnh đó là các hoạt động phục vụ phụ trội còn nghèo nàn
lạc hậu.
Với những vấn đề như vậy, việc định hướng phát triển DLST dựa vào cộng
đồng tại VQG Xuân Sơn trở thành thế mạnh trong khai thác, đưa vào cung cấp tới

khách du lịch các sản phẩm du lịch đặc trưng là nhân tố quan trọng. Góp phần phát
triển ý thức bảo vệ nguồn tài sản tự nhiên, nâng cao đời sống cộng đồng dân cư sở tại.
Chính vì những lý do đó “Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại
VQG Xuân Sơn” là việc làm cấp bách vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa
về mặt thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là góp phần khai thác giá trị đa dạng sinh học phục
vụ việc cải thiện đời sống của cộng đồng, vừa góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ đa
dạng sinh học tại VQG Xuân Sơn.
Để đạt được các mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ:
- Tổng quan cơ sở lý luận về du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng: khái niệm, nguyên
tắc, các điều kiện hình thành và phát triển…
- Nghiên cứu các điều kiện phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng của VQG
Xuân Sơn.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động du lịch ở VQG Xuân Sơn.
- Đề xuất giải pháp nhằm phát triển hoạt động du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại
khu vực nghiên cứu.
3. Phạm vi
 Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu các điều kiện cơ bản cho phát triển du lịch sinh thái
dựa vào cộng đồng: điều kiện tài nguyên du lịch sinh thái, sự tham gia của cộng đồng
và nhu cầu sở thích của khách du lịch khi đến VQG Xuân Sơn.
 Phạm vi về không gian
Đề tài giới hạn trong việc khảo sát khách du lịch đã đến VQG, khảo sát cộng
đồng cư dân xã Xuân Sơn với địa bàn vùng lõi: bản Lấp, bản Cỏi, bản Dù và BQL
vườn quốc gia Xuân Sơn.
 Phạm vi về thời gian
Các số liệu điều tra trong 6 tháng đầu năm 2013, các số liệu thu thập từ VQG và
các cơ quan khác từ năm 2010 đến nay.
4. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn làm rõ các điều kiện phát triển hoạt động DLST dựa vào cộng đồng
tại VQG Xuân Sơn; các hoạt động du lịch, sự tham gia của cộng đồng dân cư vào hoạt
động du lịch.
5. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
- Tài liệu, số liệu về du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng.
- Dữ liệu về sự đa dạng sinh học VQG Xuân Sơn.
- Dữ liệu về hoạt động du lịch tại VQG từ trước 2013.
 Phương pháp tổng hợp, phân tích các thông tin
Phương pháp này được thực hiện trong luận văn thông qua việc tổng hợp các
nguồn tư liệu, số liệu, các kết quả đánh giá, điều tra xã hội cũng như các khảo sát thực
tế. Phân tích để thấy được mức độ, chiều sâu của vấn đề được đề cập. Cũng như thấy
được sự ảnh hưởng qua lại giữa phát triển du lịch với công tác bảo tồn và phát triển tài
nguyên rừng, văn hóa xã hội cộng đồng địa phương.
 Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp không thể thiếu trong ngành du lịch. Kết hợp với việc
nghiên cứu thông qua các biểu đồ, bản đồ, tài liệu liên quan, phương pháp thực địa
được coi là phương pháp chủ đạo của đề tài vì không gian lãnh thổ nhỏ; đòi hỏi có
những khảo sát thực tế tại cơ sở nhằm nắm được các đặc điểm đặc trưng của lãnh thổ
một cách thực tế. Phương pháp này được kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học
với các đối tượng là khách du lịch và cư dân địa phương. Do đó, thông tin thu được từ
phương pháp này khá phong phú và cho kết quả nghiên cứu chân thực.
 Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là một phương pháp phỏng vấn viết, được
thực hiện cùng một lúc với nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi trả
lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng theo một quy ước mặc
định với các câu hỏi được xếp đặt trên cơ sở các nguyên tắc: tâm lý, logic và theo nội
dung nhất định.
Phương pháp này với các bước như sau:
Khảo sát, xác định đối tượng và nội dung cần điều tra: để thực hiện mục tiêu

của luận án, việc điều tra được tiến hành khách du lịch đã đến với VQG.
- Thiết kế bảng hỏi: Phiếu điều tra được thiết kế với hệ thống câu hỏi phù hợp về
cả cấu trúc, thời gian với các đối tượng là khách du lịch (số lượng phiếu là 150 phiếu
phát ra và thu về 110 phiếu). Nội dung các câu hỏi đề cập sở thích, đối tượng, thời
gian, nhận xét… của du khách nhằm đáp ứng cho yêu cầu và mục tiêu của luận văn.
- Điều tra thử: nhằm khảo sát địa bàn, điều tra mẫu, phân tích kết quả về cấu trúc
và nội dung bảng hỏi. Trên cơ sở đó điều chỉnh lại bảng hỏi cho phù hợp, thu được
thông tin hiệu quả.
- Lựa chọn địa bàn điều tra và mẫu điều tra: Khu vực VQG Xuân Sơn và các cụm
dân cư được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu (bản Lấp, bản Cỏi, bản Dù). Mẫu điều
tra đối với khách là ngẫu nhiên (dựa trên cơ sở các đối tượng khách du lịch khác nhau:
học sinh, sinh viên, cán bộ
- Chọn thời gian điều tra: việc điều tra được tiến hành vào 2 đợt khác nhau. Được
thực hiện vào các ngày trong tuần (từ 25 đến 27/6) và ngày nghỉ (từ 12 đến 14/7) nhằm
thu thập kết quả điều tra các nguồn thông tin đa dạng khác nhau.
 Phương pháp điều tra phỏng vấn
Là phương pháp thu thập thông tin dựa trên cơ sở giao tiếp bằng lời có tính đến
mục đích đặt ra. Đối tượng thực hiện phỏng vấn: cư dân bản Dù, bản Lấp, bản Cỏi và
BQL Vườn.
Nội dung phỏng vấn đề cập các khía cạnh về hoạt động du lịch hiện nay diễn ra
tại Vườn; mức độ hiểu biết và sự sẵn sàng của người dân khi tham gia vào hoạt động
du lịch. Thái độ và cách nhìn nhận đánh giá chất lượng, mức độ hoạt động từ các nhà
quản lý và nghiên cứu.
Trong luận văn này tác giả thực hiện quá trình phỏng vấn thông qua trò chuyện
với cộng đồng dân cư khi đến thực hiện quan sát thực địa. Lấy ý kiến của người dân
qua các câu hỏi liên quan. Từ đó tổng hợp thông tin đưa vào quá trình phân tích và
đánh giá.
6. Lịch sử nghiên cứu
 Trên thế giới
Hoạt động DLST là hoạt động thu hút được sự quan tâm chú ý không chỉ các

nhà kinh tế - xã hội và chính trị đồng thời thu hút mọi tổ chức, thành phần kinh tế tham
gia. Với các hoạt động liên quan trực tiếp và gián tiếp đến DLST đang ngày càng được
quan tâm, chú ý.
Những năm nửa cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ 20 du lịch sinh
thái đã dần dần được định hình. Trên các diễn đàn, các cuộc bàn luận của thế giới về
hình thức du lịch gắn liền với các hệ sinh thái tự nhiên bắt đầu được đề cập và chú ý.
Định nghĩa DLST chưa rõ ràng, nó thường được đề cập đến như: du lịch trách nhiệm,
bền vững, bảo tồn… và thường được xếp vào nhóm du lịch mạo hiểm hoặc du lịch
thiên nhiên.
Tác giả Phạm Trung Lương trong cuốn Du lịch sinh thái đã đề cập cho chúng ta
có thể thấy buổi ban đầu này các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đi đầu và điển hình về
lĩnh vực này là Ceballos -Lascurain, Buckley… Cùng rất nhiều các nghiên cứu lí luận
và thực tiễn về DLST của các nhà khoa học, các tổ chức quan tâm đến lĩnh vực này
như: Cater, Chalker, Dowling, Western, Linberg - Hawkis, Whelan, Wight, Weating,
Duff, Cochrane Hiệp hội DLST, Quỹ bảo vệ động vật hoang dã (WWF), Tổ chức
bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN)… đã có nhiều công trình nghiên cứu và công bố
những quan điểm, khái niệm về DLST, các bài học thực tiễn cũng như những hướng
dẫn cho các nhà quản lí, tham gia hoạt động DLST như: Hiệp hội DLST đã xuất bản
cuốn “DLST: Hướng dẫn cho các nhà lập kế hoạch - Chẩn đoán DLST và hướng dẫn
quy hoạch”; Kreg Lindbeg: Các vấn đề trong quản lí DLST (1999); David Ardersen:
Thiết kế các phương tiện phục vụ DLST (2000); Karrtrina Brandon: Những bước cơ
bản ban đầu định hướng mục tiêu khuyến khích sự tham gia của dân địa phương vào
dự án DLST (1998).
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra những ấn phẩm hướng dẫn quy
hoạch, quản lý du lịch và môi trường trong DLST của nhiều tác giả: Foster, Buckley,
Dowling, Gunn… Các tổ chức quốc tế như IUCN, WWF … là những tài liệu bổ ích
trong nghiên cứu về DLST và vận dụng vào thực tiễn đối với từng lãnh thổ, từng quốc
gia, từng khu vực…
Chúng ta có thể thấy định nghĩa tương đối hoàn chỉnh đầu tiên về DLST do
Hector Ceballas Lascurain đưa ra năm 1987: “ Du lịch sinh thái là du lịch đến những

khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi, với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu tham
quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá”
[13, tr8]. Từ định nghĩa này mở đầu cho những định nghĩa của thế giới về DLST, và có
một cái nhìn toàn diện hơn, khái quát hơn về loại hình du lịch.
Hiệp hội du lịch sinh thái quốc tế (TIES) định nghĩa DLST như sau: "Du lịch có
trách nhiệm đến các khu vực tự nhiên bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi của
người dân địa phương” [23, tr10].
“Du lịch sinh thái là hoạt động du lịch tiến vào những khu vực tự nhiên hầu như
không bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với mục tiêu đặc biệt: Nghiên cứu, thưởng ngoạn,
trân trọng khung cảnh và muông thú hoang dã. Và các biểu thị văn hóa được khám phá
trong các khu vực này” L.Hens (1998).
Với hiệp hội du lịch sinh thái của Mỹ có định nghĩa: “Du lịch sinh thái là du
lịch có mục đích với các khu vực tự nhiên, hiểu biết về lịch sử, văn hóa và lịch sử tự
nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có
cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích cho cộng
đồng địa phương.”
Những khái niệm, những nghiên cứu trên là cái nhìn tổng quan của thế giới về
DLST. Là những gì bản thân con người đang cố gắng hướng đến trong tương lai nhằm
bảo vệ, phát triển các nguồn tài nguyên tự nhiên và giá trị văn hóa bản địa. Quản lý
bền vững về môi trường sinh thái; Có những diễn giải và giáo dục về môi trường;
Đóng góp, nỗ lực trong việc bảo tồn và phát triển cộng đồng.
Bên cạnh đó, xem xét định nghĩa về cộng đồng chúng ta thấy đây là một định
nghĩa mang tính chất lý thuyết và thực hành xuất hiện từ khá lâu. Điểm mốc thời gian
rõ nét nhất của khái niệm này vào những năm 40 của thế kỷ 20 tại các thuộc địa của
Anh. Đến nay khái niệm cộng đồng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế - Xã hội
và khoa học kỹ thuật.
Một cộng đồng được đề cập nó có nhiều điểm chung của một nhóm người sống
tại một khu vực, một vùng địa lý. Trong khu vực đó, nhóm người có những mối quan
hệ với nhau về mặt huyết thống, tôn giáo, cơ sở sinh sống… đó là những điểm chung
gắn kết từng cá thể lại với nhau. Bao quát những điều này, Leith W.Sproule và Ary

S.Suhand cho rằng: “ Cộng đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng khu
vực địa lý, tự xác định mình thuộc về cùng một nhóm. Những người trong cùng một
cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân và có thể thuộc cùng một
nhóm tôn giáo, một tầng lớp chính trị” [23, tr11].
Tác giả Schmirk lại đưa ra định nghĩa về cộng đồng: “Cộng đồng là một tập hợp
nhóm người chung địa bàn cư trú và có quyền sử dụng các tài nguyên tự nhiên ở địa
phương”.
Chủ nghĩa Mác-Lenin cũng đề cập: Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các
cá nhân, được quyết định bởi sự giống nhau về lợi ích, mục đích, các điều kiện tồn tại
của các thành viên và hoạt động của những con người hợp thành cộng đồng đó, bao
gồm các hoạt động sản xuất vật chất… sự gần gũi về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và
chuẩn mực, nền sản xuất và sự tương đồng về điều kiện sống cũng như các quan niệm
chủ quan của họ về mục tiêu và các phương tiện hoạt động.
Xuất phát từ loại hình du lịch làng bản từ những năm 70 của thế kỷ XX, từ các
quốc gia có hoạt động du lịch phát triển tại Châu Mỹ, châu Âu, châu Úc. Hoạt động du
lịch dựa vào cộng đồng được tổ chức dựa trên chuyến đi của khách du lịch tham quan
các làng bản. Đồng thời, tham gia tìm hiểu các nét văn hóa, môi trường hoạt động
sống, phong tục tập quán của cư dân địa phương. Các hoạt động tham quan các vùng,
địa điểm mang tính chất khám phá với những điều kiện hỗ trợ còn thiếu, vì vậy khách
du lịch cần sự giúp đỡ của cư dân bản địa trong việc hỗ trợ các điều kiện ăn, ở… đây
có thể nói là những hình thức sơ khai của việc hình thành nên hoạt động du lịch dựa
vào cộng đồng.
Một số tên gọi thường dùng khi nói đến du lịch dựa vào cộng đồng:
Du lịch dựa vào cộng đồng (Community based tourism)
Phát triển cộng đồng dựa vào du lịch (Community development tourism)
Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng (Community based ecotourism)
Phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng (Community participation in
tourism)
Du lịch miền núi dựa vào cộng đồng (Community based mountain tourism)
Mỗi tên có sự khác nhau nhưng cơ bản dựa trên những cơ sở giống hoặc tương

đồng về phương pháp tổ chức, địa điểm, mục tiêu vị trí tổ chức phát triển du lịch và
cộng đồng. Đồng thời cho ta thấy tầm quan trọng và đối tượng ưu tiên hàng đầu hướng
tới trong mục tiêu hoạt động, định hướng phát triển tại mỗi địa điểm.
Hoạt động du lịch dựa vào cộng đồng hiện nay nhận được nhiều mối quan tâm từ
các tổ chức phi chính phủ, các nhà hoạt động kinh tế, xã hội của các nước. Hoạt động
du lịch dựa vào cộng đồng tạo điều kiện giúp đỡ các hoạt động bảo tồn, duy trì các bản
sắc văn hóa, phong tục tập quán của các cộng đồng dân cư bản địa; trở thành một lĩnh
vực mới trong ngành công nghiệp du lịch.
Du lịch cộng đồng (DLCĐ) dựa trên sự tò mò, mong muốn của du khách để tìm
hiểu thêm về cuộc sống thường ngày của người dân từ các nền văn hóa khác nhau.
Liên kết người dân thành thị đến với các vùng nông thôn để thay đổi không gian sống
trong một khoảng thời gian nhất định.
Các dịch vụ, sản phẩm của DLCĐ được cung cấp tới khách du lịch bởi những cư
dân trong địa bàn diễn ra hoạt động du lịch. Do đó chất lượng dịch vụ từ DLCĐ phụ
thuộc hoàn toàn vào người cung cấp. Sản phẩm dịch vụ tốt luôn là kỳ vọng của du
khách, đặc biệt là những sản phẩm độc đáo - điểm tạo ra sự khác biệt thu hút khách đối
với các địa điểm du lịch khác.
Hoạt động DLCĐ là mối liên kết duy trì và phát huy vốn giá trị truyền thống của
cư dân bản địa với những bản sắc riêng biệt, không bị hòa trộn những yếu tố của văn
hóa phổ biến hiện đại. Nó là duy nhất, là riêng biệt và đơn sắc. Thông qua những hoạt
động của mình, góp phần xây dựng và giáo dục ý thức bảo vệ những giá trị truyền
thống tốt đẹp vốn có tại địa phương, giới thiệu những giá trị đó đến với thế giới bên
ngoài. Nhưng đồng thời là quá trình phát triển các giá trị về kinh tế xã hội, đảm bảo sự
tồn tại bền vững của địa phương nơi có hoạt động diễn ra.
Trong hoạt động DLST ngày nay được hiểu trên cơ sở sự quan tâm tới thiên
nhiên và trách nhiệm xã hội. "Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu
thiên nhiên, là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương"
(Hiệp hội DLST thế giới - Ecotourism society). Chính vì vậy để đảm bảo sự phát triển
lâu dài và bền vững, hoạt động DLST đã được tiếp cận trên một khía cạnh mới đó là
phát triển DLST dựa vào cộng đồng. Cách tiếp cận này cũng có nhiều cách hiểu và đưa

ra nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau. Tác giả Võ Quế trong cuốn “Du lịch cộng
đồng - lý thuyết và vận dụng” đã giới thiệu những góc nhìn diễn giải một số nhà
nghiên cứu, tác giả: Keith W.Sproule và Ary S.Suhand, Nicole Hausle và Wolffgang
Strasdas, Viện nghiên cứu miền núi, quỹ bảo vệ thiên nhiên quốc tế về du lịch sinh
thái:
Theo Keith W.Sproule và Ary S.Suhand: "Du lịch dựa vào cộng đồng là nói tới
các tổ chức kinh doanh du lịch sinh thái do cộng đồng sở hữu và quản lý. Hơn nữa, du
lịch sinh thái bao hàm ý một cộng đồng đang chăm lo đến tài nguyên thiên nhiên của
mình để có thu nhập nhờ du lịch và đang sử dụng thu nhập đó để làm cho đời sống của
cộng đồng mình được tốt lên. Nó thu hút công việc bảo tồn, công việc kinh doanh và
sự phát triển cộng đồng" [23, tr13] .
Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) định nghĩa: “ Du lịch dựa vào cộng đồng
là một hình thức du lịch mà cộng đồng địa phương làm chủ, tham gia vào quá trình
phát triển và quản lý, phần lớn lợi ích sẽ thuộc về cộng đồng”.
Viện nghiên cứu phát triển miền núi (Mountain Institues) nói rằng: “ Du lịch dựa
vào cộng đồng là hoạt động du lịch nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm du lịch
đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. DLCĐ khuyến khích sự tham gia
của người dân địa phương trong du lịch và có cơ chế tạo các cơ hội cho cộng đồng”.
“Du lịch cộng đồng là một quá trình tương tác giữa cộng đồng (chủ) và khách du
lịch mà sự tham gia có ý nghĩa của cả hai phía mang lại các lợi ích kinh tế, bảo tồn cho
cộng đồng và môi trường địa phương”.
Nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wolffgang Strasdas đưa ra khái niệm: “Du
lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng
ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa
phương”.
Học viện Du lịch Thái Lan đưa ra khái niệm: “ Du lịch dựa vào cộng đồng là du
lịch quan tâm đến các vấn đề môi trường, xã hội và bền vững văn hóa. Nó được quản
lý và sở hữu bởi cộng đồng, với mục đích giúp khách du lịch tăng thêm nhận thức về
cộng đồng và lối sống của địa phương” [49, pg14].
DLST dựa vào cộng đồng được đặt trong mối quan tâm và chú trọng trong các

loại hình phát triển bền vững của ngành du lịch. Trong nghiên cứu thị trường khách
DLST dựa vào cộng đồng quy mô lớn của Hiệp hội du lịch sinh thái thế giới trong 3
năm 2002 -2004 chỉ ra khách du lịch ngày càng quan tâm, có nhu cầu tìm hiểu và học
hỏi khi đi du lịch về các vấn đề văn hóa xã hội: văn hóa bản địa, sự kiện, nghệ thuật,
tiếp xúc với người dân địa phương, ẩm thực bản địa hay nghỉ tại các cơ sở lưu trú quy
mô nhỏ của cư dân. Bên cạnh đó là các tác động môi trường, trách nhiệm với môi
trường của chính người cung cấp dịch vụ du lịch. Chính vì vậy khách du lịch có cơ hội
được đi du lịch tại những địa điểm không bị ô nhiễm môi trường, không khí trong lành
và tham quan các giá trị nguyên sơ, độc đáo về mặt tự nhiên, xã hội.
Sự phát triển của DLST dựa vào cộng đồng mang lại lợi ích về nhiều mặt cho
đời sống kinh tế, xã hội. Thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị tài nguyên
tự nhiên, xã hội trên nền tảng phát triển bền vững.
 Tại Việt Nam
Hoạt động DLST tại Việt Nam đã xuất hiện trong những năm 90 của thế kỷ XX
trở lại đây. Tuy mới xuất hiện nhưng ngày càng được quan tâm và chú ý bởi các nhà
hoạt động du lịch, môi trường. DLST được xác định là một trong những tiềm năng, thế
mạnh đặc thù của du lịch Việt Nam, được định hướng trong chiến lược phát triển ưu
tiên của nền kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua các hội nghị, hội thảo tổ chức
chuyên đề nghiên cứu về hoạt động DLST: “Hội nghị Quốc tế về du lịch bền vững ở
Việt Nam” do Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seidel (CHLB Đức)
được tổ chức tại Huế, tháng 5/1997; Hội thảo “DLST với phát triển du lịch bền vững ở
Việt Nam” diễn ra tại Hà Nội, tháng 4/1998; Hội thảo “Xây dựng chiến lược Quốc gia
về phát triển DLST tại Việt Nam” được tổ chức vào tháng 9/1999, tại Hà Nội do Tổng
cục du lịch phối hợp với Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) và Ủy ban Kinh
tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP). Tại đó các vấn đề về hoạt động
DLST được phân tích và đánh giá chi tiết đưa ra những phương hướng hoạt động, phát
triển trong tương lai.
Với một số các khái niệm du lịch sinh thái được đưa ra: “Du lịch sinh thái là
hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham
gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.” [13]

Trong hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển du lịch Việt Nam” đã đưa ra
định nghĩa về DLST: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn
hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển
bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng.”
Ngoài ra là các công trình nghiên cứu thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà học
giả, nghiên cứu: Nguyễn Thị Hải, Phạm Trung Lương, Lê Văn Lanh, Võ Quế, Nguyễn
Đình Hòe… Các bài báo, các hoạt động truyền thông về DLST, môi trường, các hoạt
động nghiên cứu, thảo luận: Luận chứng kinh tế kĩ thuật khu bảo tồn thiên nhiên Xuân
Sơn (1992), nghiên cứu của Viện Điều tra Quy hoạch rừng phối hợp với trường Lâm
nghiệp và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Giá trị hệ động thực vật khu bảo tồn
thiên nhiên Xuân Sơn (1998), nghiên cứu của trường Đại học Sư phạm Hà Nội phối
hợp với phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Đông Bắc - Báo cáo nghiên cứu khả thi:
Dự án đầu tư xây dựng VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ (2002), nghiên cứu của Viện
Điều tra quy hoạch rừng…. Về tài nguyên hệ sinh thái, tài nguyên du lịch được tiến
hành. Các chuyên luận nghiên cứu khoa học: Bùi thị Nhiệm: “Xác lập cơ sở khoa học
cho việc phát triển du lịch sinh thái ở vườn quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ” (luận án
thạc sĩ địa lý)… Các bài báo, các báo cáo khoa học về hệ sinh thái và tiềm năng du lịch
tại VQG Xuân Sơn: Nguyễn Lân Hùng Sơn (2007): “Nghiên cứu khu hệ và một số đặc
điểm sinh thái, sinh học của loài chim đặc trưng ở vườn Quốc gia Xuân Sơn”; các luận
án về thực vật đặc trưng của các tác giả Đào Duy Trinh, Nguyễn Hữu Thảo… Các bài
báo: Nguyễn Đức - “ Xuân Sơn điểm du lịch trên đất tổ”; Phạm Bá Khiêm - “Du lịch
cộng đồng tại bản Cỏi, Xuân Sơn”… Các nghiên cứu tổng thể, đi sâu vào VQG thực sự
chưa có nhiều, vẫn còn nhiều khoảng trống trong hoạt động nghiên cứu, khai phá.
Trong tương lai, rất hi vọng rằng hệ sinh thái và các nguồn tài nguyên sẽ được nghiên
cứu, đánh giá và đưa vào sử dụng nhiều hơn. Phát huy những giá trị to lớn trong đời
sống kinh tế - xã hội của địa phương và khu vực. Như vậy có thể nói các hoạt động
nghiên cứu sâu về hoạt động DLST tại VQG Xuân Sơn chưa thực sự nhiều và đáp ứng
nhu cầu của thực tiễn.
Ở Việt Nam, khái niệm cộng đồng luôn gắn kết và đi liền với “làng xã”, tạo nên
một chỉnh thể mô tả cụ thể nhất mối quan hệ gắn kết của xã hội Việt Nam.

Cộng đồng có thể nói là tập hợp các thực thể trong một xã hội, bao gồm nhiều
mối quan hệ cộng sinh liên quan ràng buộc lẫn nhau giữa các thành phần trong xã hội.
Nó là xã hội có tổ chức kết cấu chặt chẽ đến các tổ chức kết cấu thiếu chặt chẽ được
liên kết với nhau bởi các phong trào, mối quan tâm lợi ích chung và riêng trong cùng
một nhóm trong một không gian tạm thời hay lâu dài. Sự tự nguyện hi sinh đối với các
giá trị được tập thể coi là cao cả. Sự đoàn kết mọi thành viên trong tập thể đó.
Ngoài ra chúng ta có những cách nhìn nhận về một cộng đồng dựa trên các nền
văn hóa, văn minh con người. Ở đó những lợi ích chung gắn kết các thể loại với nhau
tạo thành một cố kết tập thể tạo nên cộng đồng.
Du lịch dựa vào cộng đồng là một khía cạnh mới trong ngành kinh tế du lịch.
Lần đầu tiên du lịch dựa vào cộng đồng được đưa ra tại Hội thảo chia sẻ bài học kinh
nghiệm phát triển du lịch cộng đồng Việt Nam – 2003. Các chuyên gia đã khái quát
những đặc trưng của du lịch dựa vào cộng đồng của Việt Nam: Đảm bảo văn hóa và
thiên nhiên bền vững; Nâng cao nhận thức cho lao động; Tăng cường quyền lực cho
cộng đồng; Tăng cường hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và cơ quan quản lý nhà
nước. Có thể thấy rằng du lịch dựa vào cộng đồng là một phương thức du lịch mà ở đó
cộng đồng địa phương vừa là chủ thể, vừa là khách thể của hoạt động du lịch. Nó bảo
đảm sự bền vững của tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Nhưng đồng thời cũng là
sự đảm bảo phát triển hoạt động kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư bản địa nơi diễn
ra hoạt động du lịch.
Các chuyên khảo và bàn luận về du lịch dựa vào cộng đồng tại Việt Nam đã thu
hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhà quy hoạch du lịch, hãng lữ
hành. Bùi Thị Hải Yến và nhóm tác giả (2012), cho rằng DLCĐ là phương thức phát
triển bền vững mà ở đó cộng đồng địa phương có sự tham gia trực tiếp và chủ yếu
trong các giai đoạn phát triển và mọi hoạt động du lịch cộng đồng nhận được sự hợp
tác, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế; của chính quyền địa phương
cũng như chính phủ. Và nhận được phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch
nhằm phát triển cộng đồng, bảo tồn, khai thác tài nguyên du lịch bền vững, để mọi
tầng lớp dân cư đều có thể sử dụng, tiêu dùng sản phẩm du lịch. Nguyễn Thanh Bình
trong bài “Để du lịch cộng đồng trở thành hiện thực” - tạp chí Du lịch số 3, năm 2006:

“Du lịch cộng đồng là một mô hình du lịch nơi cộng đồng dân cư có thể trực tiếp tham
gia vào tổ chức phát triển từ giai đoạn khởi đầu đến quản lý giám sát cả quá trình phát
triển sau này và quan trọng hơn là được hưởng lợi từ sự phát triển đó. Hay nói ngắn
gọn là hình thức du lịch do dân và vì dân”. Bên cạnh đó là các bài báo khác của các tác
giả như: Đào Thế Tuấn với “Từ du lịch sinh thái, văn hóa đến du lịch cộng đồng” tạp
chí Xưa và Nay số 247 năm 2005 nhấn mạnh mối liên kết trong quan hệ DLST, văn
hóa đối với cộng đồng nơi tồn tại trong quan hệ DLST; văn hóa đối với cộng đồng nơi
tồn tại hoạt động du lịch, đồng thời nhấn mạnh vai trò gìn giữ văn hóa bản sắc dân tộc.
Viện nghiên cứu và phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam đưa ra khái
niệm: “Du lịch cộng đồng là một loại hình du lịch do chính cộng đồng người dân phối
hợp tổ chức, quản lý và làm chủ để đem lại lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường chung
quanh thông qua việc giới thiệu với du khách các nét đặc trưng của địa phương: phong
cảnh, văn hóa…” [43, tr3].
Các khái niệm DLCĐ và du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng hiện nay còn nhiều
tranh cãi với nhiều quan điểm trái chiều về việc thống nhất cách gọi cũng như nội dung
hoạch định.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu; nội dung; kết luận; phụ lục; tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Chương 2. Các điều kiện phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại VQG Xuân
Sơn
Chương 3. Một số định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng
đồng tại VQG Xuân Sơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Lê Huy Bá (ch,b), Thái Lê Nguyên (2009), Du lịch sinh thái, NXB Khoa học Kỹ
thuật.
2. Nguyễn Thanh Bình (2006), Để du lịch cộng đồng trở thành hiện thực, Tạp chí Du
lịch số 3, năm 2006.

3. Cục kiểm lâm (2004). Cẩm nang quản lý và phát triển du lịch sinh thái ở các khu
bảo tồn thiên nhiên phía Bắc Việt Nam.
4. Thế Đạt (2003). Du lịch và du lịch sinh thái. NXB Lao động.
5. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa, Trương Tử Nhân (2006). Giáo trình kinh
tế du lịch. NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Đức (2005), Xuân Sơn điểm du lịch trên đất tổ. Du lịch Việt Nam, số 3,
tr38.
7. Giáo trình triết học Mác Lenin (2009), NXB Giáo dục.
8. Nguyễn Thị Hải, Trần Đức Thanh (2002), “Hệ thống lãnh thổ du lịch trong qui
hoạch du lịch”, Tạp chí Địa lý nhân văn, TT KHXH&NVQG, số 3, tr1-6.
9. Nguyễn Đình Hoà (2006). Du lịch sinh thái - thực trạng và giải pháp để phát triển
ở Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 103, tr11-13, 17.
10. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
11. Phạm Bá Khiêm (2012), Du lịch cộng đồng tại bản Cỏi, Xuân Sơn. Tạp chí Du lịch
Việt Nam.
12. Luật du lịch (2005). NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
13. Phạm Trung Lương (2002). Du lịch sinh thái - Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam. NXB Giáo dục.
14. Phạm Trung Lương (2004). Thực trạng và những vấn đề đặt ra để phát triển du
lịch bền vững. Du lịch Việt Nam, số 12, tr24-25.
15. Phạm Trung Lương (2005). Thực trạng và những vấn đề đặt ra để phát triển du
lịch bền vững. Du lịch Việt Nam, số 1+2.
16. Nguyễn Minh Mẫn( 2004). Du lịch sinh thái-Từ góc nhìn văn hoá. Dân tộc và thời
đại, số 69, tr2-3, 7.
17. Nguyễn Văn Mạnh, Lê Trung Kiên (2005), Đặc điểm của du lịch sinh thái và khả
năng kinh doanh loại hình du lịch này tại các VQG và khu bảo tồn ở Việt Nam. Tạp
chí Kinh tế & phát triển, số 95, tr13 – 16.
18. Trương Tử Nham (2005). Khai thác tuyến tham quan du lịch sinh thái và vấn đề
bảo tồn. Du lịch Việt Nam, số 1, tr34-35.

19. Nguyễn Hữu Nhàn, Người Dao ở Phú Thọ. Tạp chí Hồn Việt.
20. Bùi Thị Nhiệm (2011), Xác lập cơ sở khoa học cho việc phát triển du lịch sinh thái
ở VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
21. NTKU (2005). Vườn quốc gia Xuân Sơn tiềm năng du lịch sinh thái. Dân tộc và
thời đại, số 78, tr33, 36.
22. Hoàng Hoa Quân, Ngô Hải Dương (2005), Hoạt động du lịch sinh thái tại Việt
Nam thực trạng và định hướng phát triển, Du lịch Việt Nam, số 10, tr20, 46.
23. Võ Quế (2006). Du lịch cộng đồng-Lý thuyết và vận dụng, Tập 1, NXB Khoa học
và kỹ thuật Hà Nội.
24. Võ Quế (2008). Nghiên cứu xây dựng phát triển mô hình du lịch dựa vào cộng
đồng tại chùa Hương.
25. Cầm Sơn (2012), Lễ lập tỉnh của người Dao Quần Chẹt. Báo Phú Thọ, số Xuân.
26. Nguyễn Lân Hùng Sơn (2007), Nghiên cứu khu hệ và một số đặc điểm sinh thái,
sinh học của loài chim đặc trưng ở VQG Xuân Sơn.
27. Nguyễn Thị Sơn (2007). Bài giảng du lịch sinh thái (tài liệu giảng dạy khóa tập
huấn về du lịch sinh thái cho các VQG và KBT năm 2007).
28. Nguyễn Quyết Thắng (2004), Quy hoạch du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng. Du
lịch Việt Nam, số 11, tr20.
29. Nguyễn Quyết Thắng (2004). Kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái, bảo vệ môi
trường. Du lịch Việt Nam, số 9, tr26.
30. Nguyễn Quyết Thắng (2005), Giáo dục môi trường và phát triển du lịch sinh thái,
Du lịch Việt Nam, số 2, tr43, 63.
31. Phạm Ngọc Thắng (2009). Vai trò du lịch cộng đồng trong xóa đói giảm nghèo. Du
lịch Việt Nam, số 6, tr18-19.
32. Trần Đức Thanh (2005). Nhập môn khoa học du lịch, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
33. Trần Đức Thanh (ch,b) (2009). Những vấn đề an sinh xã hội và phát triển du lịch
sinh thái dựa vào cộng đồng tại vùng đệm VQG Cúc Phương.
34. Trần Đức Thanh, Nguyễn Thị Hải (2008). Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng
đồng ở VQG Cúc Phương (đồng tác giả). Tạp chí Khoa học Thương mại, số 23/4-

2008.
35. Đinh Thị Thi (2012), Khai thác tiềm năng du lịch sinh thái vùng du lịch Bắc Trung
Bộ Việt Nam. LATS Kinh tế.
36. Stephanie Thullen (2006). Du lịch sinh thái không đơn thuần là du lịch thiên nhiên.
Du lịch Việt Nam, số 3, tr34-37.
37. Tổng cục lâm nghiệp (2013). Tài liệu đào tạo về phát triển du lịch sinh thái.
38. Nguyễn Thị Tú (2006), Những giải pháp phát triển du lịch sinh thái Việt Nam
trong xu thế hội nhập, LATS Kinh tế.
39. Đào Thế Tuấn (2005). Từ du lịch sinh thái, văn hóa đến du lịch cộng đồng. Tạp chí
Xưa và Nay, số 247, tr11-13.
40. Nguyễn Minh Tuệ, Lê Thông (2002). Quy hoạch du lịch quốc gia và vùng. Khoa
du lịch - Viện Đại học Mở Hà Nội.
41. Viện điều tra quy hoạch rừng (1992), Luận chứng kinh tế kĩ thuật bảo tồn thiên
nhiên Xuân Sơn.
42. Viện điều tra quy hoạch rừng (2002), Báo cáo nghiên cứu khả thi: Dự án đầu tư xây
dựng VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
43. Viện nghiên cứu và phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam (2002). Tài liệu
hướng dẫn phát triển du lịch cộng đồng.
44. Bùi Thị Hải Yến (2012), Du lịch cộng đồng, NXB Giáo dục, Hà Nội.
45. Bùi Thị Hải Yến, Phạm Hồng Long (2007), Tài nguyên du lịch, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
46. Bùi Thị Hải Yến (2005), Tuyến điểm du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
47. Bùi Thị Hải Yến (2011), Du lịch sinh thái, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
48. A Manual for Convervation planners and managers (2002). Ecotourism
Development.
49. Community based tourism handbook (2002). Community based tourism: principles
and meaning. No1, Pg.9-23.
50. Etsuko Okazaki (2008). Community based tourism model: Conception and use.
Taylor & Francis, Vol 16, No5, 2008. Pg.511-527.

51. Jenni puustinen, Eija Pouta, Marjo Neuvonen & Tuija Sievanen (2009). Visits to
national parks and the provision of natural and man-made recreation and tourism
resources. Journal of ecotourism, Vol.8, No1, March 2009, pg.18-31.
52. Jessica Cosia, Enrique Calfacura (2011). Ecotourism and the development of
indigenous comunities : the good, the bad, and the urgly. Ecological Economics 73,
pg.47-55.
53. IUCN (1998), Proceeding : Workshop on ecotourism with sustainable tourism
development in Vietnam.
54. Sproule.K (1996), Community-Based ecotourism – the sinificant of social capital,
Annimal of Tourism Research, Vol.32, No.2, pg303-324.
Trang báo điện tử tham khảo thêm
55.
56.
57.
58.
59.
60.
61.

×