Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

yếu tố vô thức trong thơ hoàng cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.11 KB, 24 trang )

Yếu tố vô thức trong thơ Hoàng Cầm


Lê Công Phương Anh


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn ThS. Văn học: 60 22 01 20
Người hướng dẫn : PGS.TS. Trần Khánh Thành
Năm bảo vệ: 2014
105 tr .

Abstract. Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng tới những mục tiêu
sau: Một là khảo sát sự có mặt của yếu tố vô thức trong quá trình sáng tác thi ca của
Hoàng Cầm để thấy được cá tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Hai là phân tích, cắt
nghĩa các biểu tượng được tạo ra nhờ yếu tố vô thức, qua đó đóng góp một cách đọc và
hiểu thơ Hoàng Cầm. Đạt được những mục tiêu kể trên, đề tài cũng có những đóng
góp nhất định, đó là luận văn vừa kế thừa những nhận định, đánh giá của các nhà
nghiên cứu đi trước vừa lựa chọn, khám phá để từ đó khẳng định giá trị của yếu tố vô
thức trong thơ Hoàng Cầm. Kết quả của Luận văn ít nhiều góp phần gợi mở một
hướng tiếp cận đối với thơ của Hoàng Cầm nói riêng, tác phẩm văn chương của một số
tác giả Việt Nam nói chung trên phương diện phân tâm học. Thêm nữa, những điểm
hạn chế của đề tài, thiết nghĩ, cũng có thể tạo hứng thú cho những ai cùng có mối quan
tâm đến vấn đề này.
Keywords.Văn học Việt Nam; Lý luận văn học; Thơ
Content.
1. Lí do chọn đề tài
1.1.Phân tâm học đã, đang và sẽ là chiếc chìa khóa để đi vào phần khuất lấp
nhất trong quá trình sáng tạo và thế giới nghệ thuật của các nhà thơ. Phê bình phân tâm
học ở Việt Nam xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX nhưng sau đó bị cấm kị
trong một khoảng thời gian dài cho đến khi đất nước đổi mới thì được phục hồi và phát


triển. Trênmọi chặng trong con đường chìm nổi ấy, phê bình phân tâm học đều ít nhiều
đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đem lại sự đa dạng trong nghiên cứu
phê bình văn học. Một trong những con đường rộng mở mà chiếc chìa khóa phân tâm
học đưa giới lý luận văn học đến đó là nghiên cứu yếu tố vô thức trong tác phẩm của
các thi nhân.
1.2.Trong văn học hiện đại của Bắc Ninh - Kinh Bắc, có thể nói Hoàng Cầm là
nhà thơ lớn nhất. Cùng với dân ca quan họ, với những hội hè đình đám… thì thơ
Hoàng Cầm là đặc sản tuyệt vời của vùng quê phên dậu kinh thành. Nói như nhà văn
Đỗ Chu thì Hoàng Cầm “là ngọn gió lành, là hồn cốt của xứ Kinh Bắc, là sự hoành
tráng sang trọng, là âm vang của miền đất ngàn năm văn vật” [4, 18]. Có lẽ mỗi người
học trò Bắc Ninh đều biết tên thi nhân như biết tên quê hương, đều đọc và thuộcthơ
của thi sĩ như đã từng đi và thuộc các con đường, dòng sông trên xứ sở của họ.
1.3.Trong nền văn chương nước nhà, sự nghiệp của Hoàng Cầm chưa hẳn là đồ
sộ. Nhưng ông luôn có cho riêng mình một chỗ ngồi độc đáo. Phong cách thơ ông là sự
kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Người đọc có thể tìm được trong thơ
Hoàng Cầm nỗi day dứt của ca dao dân ca, sự ngọt ngào của thơ tình đôi lứa và cả cái
ám ảnh phù sinh trong thơ tượng trưng, siêu thực. Không tuyên ngôn, không lý luận và
cả không tự giác nữa, Hoàng Cầm đã gợi ý cho những nhà thơ cùng thời và hậu thế đôi
điều về sáng tạo. Đóng góp nổi bật của Hoàng Cầm với thi ca dân tộc là ở chỗ đó.
Được lấy thơ Hoàng Cầm để nghiên cứu trong luận văn, người viết coi đó là
một vinh dự và cả niềm tự hào về quê hương Bắc Ninh - Kinh Bắc của mình. Trước
người viết đã có những cuốn sách, luận án, luận văn, báo cáo khoa học viết về thơ
Hoàng Cầm nhưng chưa có một công trình nào hoàn toàn nghiên cứu yếu tố vô thức
dưới góc nhìn phân tâm học. Đó là những lí do để người viết thực hiện đề tài: “Yếu tố
vô thức trong thơ Hoàng Cầm”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề vô thức trong sáng tạo văn học
2.1.1. Trên thế giới
Thuật ngữ phân tâm học (psychoanalysis) do Sigmund Freud đặt ra vào năm
1896. Thời gian đầu, phân tâm học chỉ là một khoa học chữa bệnh tâm lí. Sau đó,

những phát hiện về tính dục và mặc cảm Oedipe của Freud đã thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu nhân văn lúc bấy giờ. Tiếp nhận ảnh hưởng từ Freud, nhà
tâm lí học phân tích Thụy Sỹ C.Jung, đã là người kéo phân tâm học tách khỏi bệnh lí
học và hòa đồng lí thuyết này vào trong môi trường khoa học xã hội - nhân văn. Lí
thuyết về siêu mẫu (archétype) như là cốt yếu của tâm lí học các chiều sâu, yếu tố nền
tảng của vô thức tập thể thực sự đã tạo nên một cú huých đáng kể trong nghiên cứu
phê bình văn học. Tuy nhiên phải khẳng định rằng Freud và Jung là hai nhà bác học
tâm lý chứ không phải là hai nhà nghiên cứu văn học.
Từ nền tảng lí thuyết về vô thức của Freud và Jung, phân tâm học thế giới đã
phát triển thành rất nhiều hướng nghiên cứu, trong đó có văn học. Trong số những nhà
phân tâm học văn học, nổi bật hơn cả là Charles Baudoin với tác phẩm Phân tâm học
nghệ thuật (1929). Charles Baudoin cho rằng phân tâm học trong văn học gồm ba
phần: một dành cho sự sáng tạo của nhà văn, hai cho sự đọc của độc giả và ba cho các
chức năng của nghệ thuật. Bên cạnh đó, Charles Baudoin còn phân biệt, trong cái vô
thức sản sinh ra trong tác phẩm văn học, cái gì thuộc về vô thức tập thể và cái gì thuộc
về vô thức cá nhân. Đây là thao tác mà người viết tiếp thu được từ tác giả này.
Có những tác giả nghiên cứu vô thức trong văn học ở vấn đề tác giả và tác
phẩm như: Marie Bonapart, J. Delay, Jeal Bellemin-Noel. Trong chuyên luận Phân
tâm học và văn học (1978), J.Bellemin-Noel đã đi tìm dấu ấn của vô thức ở một loạt
vấn đề trong tác phẩm: nhân vật (mục Con người và biểu trưng); thể loại văn học (mục
Huyền thoại, cổ tích và truyền thuyết); típ và môtíp. Không chỉ vậy, ông còn đi phân
tích quá trình tâm lý tác giả gắn với tiểu sử của họ. Cuối chuyên luận ông kết luận:
“Cái Vô thức, đó là cái sự chúng ta bị cưỡng chế phải nhắc lại một quá khứ mà chúng
ta không nhớ và phải xem như là ký ức cái sẽ không bao giờ còn được lặp lại dưới
dạng ban đầu của nó. Nền Văn học, đó là tổng thể các bài viết được xếp đặt một cách
rõ ràng dưới dấu hiệu của sự hư cấu… Đọc tác phẩm hư cấu với cái nhìn của phân tâm
học cho phép đồng thời vừa tặng cho văn bản một chiều kích khác, vừa quan sát được
cách viết trong sự sinh thành và trong sự vận hành của nó”[25, 195 - 196]
(Psychanalyse et litérature PUF, Paris, 1978 - Đỗ Lai Thúy và Phan Ngọc Hà dịch).
Như vậy, một điều dễ nhận thấy là J.Bellemin-Noel và những tác giả theo hướng này

gần với Freud.
Ở một chiều kích khác lại có những nhà nghiên cứu về vô thức trong văn học có
tư tưởng gần với Jung. Đó là các tác giả nghiên cứu theo chủ đề mà đại diện tiêu biểu
nhất là Gaston Bachelard với chuyên luận Phân tâm học về lửa (1938). G.Baschelard
tìm thấy sự tác động của những giá trị vô thức trên cơ sở những hiểu biết của kinh
nghiệm và của khoa học. Từ chủ đề tính chất của lửa, Bachelard xác định các mặc
cảm: Prométhée, Empédocle, Novalis, Hoffmann… Những mặc cảm này khác hẳn với
mặc cảm tính dục của Freud. Chúng như những ám ảnh đối với tác giả văn học. Với
G.Baschelard, vô thức như ngọn lửa lúc nào cũng âm ỉ trong nhà văn và quá trình sáng
tạo được miêu tả như sau: “Ngay khi một tình cảm dâng lên tới sắc độ của lửa, ngay
khi nó bộc lộ ra, với sức mạnh của nó trong những siêu hình của lửa, người ta có thể
tin chắc là nó sắp thu gom một tổng số những mâu thuẫn. Lúc đó người đang yêu
muốn mình được thanh khiết và nhiệt tình, độc đáo và toàn năng, bi kịch và chung
thủy, thoảng qua và bền vững”.[25, 348 - 349](La psychanalyse du feu, Paris, 1938,
Ngô Bình Lâm dịch).
Bên cạnh đó là hướng nghiên cứu vô thức trong văn học theo hướng gắn phân
tâm học với folklore. Đại diện của hướng này là V.Dundes với chuyên luận Folklore -
Nhìn từ phân tâm học. Có thể nói V.Dundes vừa gần Freud vừa gần Jung. Chẳng hạn,
ông sử dụng khái niệm phóng chiếu mặc cảm Oedipe (khái niệm của Freud) khi cắt
nghĩa sự ra đời của Chúa Jêsu trong huyền thoại Châu Âu dưới con mắt phân tâm học:
“Chúa được sinh ra bởi Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Nếu vậy thì đó cũng chính là việc
chối từ người cha là người không liên quan gì đến sự thụ thai của người con” [25,
453]. Mặt khác, ông cho rằng “Các cổ mẫu trong thần thoại, theo Jung, gợi nhớ lại đến
thế giới tiền sử với các định kiến đặc trưng mà chúng ta ngày nay còn thấy ở những
người nguyên thủy hiện đại”[25, 421] (Đỗ Đức Thịnh, dịch từ bản tiếng Anh).
Sẽ là thiếu sót nếu như không kể đến hướng nghiên cứu vô thức trong văn học
theo trường phái phân tâm học văn bản. Trường phái này ra đời trên cơ sở của sự phối
hợp chủ nghĩa cấu trúc - kí hiệu Pháp và phân tâm học. Người có công đầu khai sinh ra
nó là Jacques Lacan với luận điểm nổi tiếng: “Vô thức được cấu trúc hóa như một
ngôn ngữ”. Theo đó, trong tác phẩm, vô thức như là một tiền giả định, nhưng tìm kiếm

nó không phải là nhiệm vụ duy nhất của nhà phân tâm học. Bởi vô thức được cấu trúc
như một ngôn ngữ, nên với tư cách người đọc, nhà phê bình văn học theo phương pháp
phân tâm phải làm được hai thao tác cơ bản trên văn bản tác phẩm: một, tìm ra cấu trúc
bề mặt của văn bản ngôn từ mang dấu ấn vô thức; hai, tìm ra cấu trúc của văn bản vô
thức như là cấu trúc bề sâu của văn bản ngôn từ. Rõ ràng, ở cấp độ này, từ gốc gác
giấc mơ tỉnh thức của Freud qua tâm lí học các chiều sâu của Jung đến phân tâm học
văn bản của Lacan, phê bình phân tâm học đã mở ra những trang mới trong việc
nghiên cứu tâm lí học sáng tạo và sự hiểu tác phẩm nghệ thuật.
Tóm lại, trước khi vào Việt Nam, phê bình phân tâm học trên thế giới, với nhiều
hướng nghiên cứu khác nhau, đã coi vô thức trong văn học là vấn đề quan trọng nhất.
Đây sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu vấn đề ấy ở Việt Nam mà người viết
trình bày ở mục sau.
2.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề vô thức và phê bình phân tâm học được biết đến khá sớm,
ngay từ những năm 30 của thế kỷ trước trong phê bình của Trương Tửu với bài nghiên
cứu Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương trên tờ Tiến hóa số 1 và Nguyễn Văn Hanh với
chuyên luận Hồ Xuân Hương: tác phẩm, thân thế và văn tài (Aspar, Sài Gòn). Phương
pháp này hầu như vắng mặt sau năm 1945 ở miền Bắc bởi sự thống ngự của phê bình
xã hội học marxit. Ở miền Nam, cũng có một số tác giả quan tâm đến phê bình phân
tâm học, dịch, giới thiệu, ứng dụng như Vũ Đình Lưu, Nguyễn Văn Trung, Đàm
Quang Thiện, Thanh Lãng. Khi đất nước thống nhất, dưới định hướng lí luận marxit,
phân tâm học lại trở nên vắng bóng trong đời sống văn học cả hai miền.
Chỉ sau Đổi mới (1986), cùng với xu thế dân chủ hóa văn học, phê bình phân
tâm học mới nảy nở trở lại. Và Đỗ Lai Thúy là người tiếp tục sau những đứt đoạn ấy,
trong đó vô thức là vấn đề được ông quan tâm nhiều nhất. Cùng với chuyên luận Hồ
Xuân Hương hoài niệm phồn thực, tập tiểu luận chuyên đề Bút pháp của ham muốn là
những thám sát đáng kể của Đỗ Lai Thúy trong lĩnh vực này. Nghiên cứu vô thức của
Đỗ Lai Thúy có một bước đột mở quan trọng. Không còn áp dụng phân tâm một cách
cứng nhắc như Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, đơn giản kiểu sơ đồ “dồn nén - ẩn ức
- thăng hoa” như Nguyễn Văn Hanh, bắt buộc phải rõ tiểu sử tác giả như Nguyễn Văn

Trung, bắt mạch các bệnh nhiễu tâm của nhân vật như Thanh Lãng,… Đỗ Lai Thúy
thao tác ngay với văn bản, tìm kiếm những kí hiệu mang bản chất phân tâm học của
nó. Hướng vào bút pháp của nhà văn, được sự gợi dẫn củaJ.Lacan và bộ công cụ thao
tác ngôn ngữ từ các nhà hình thức luận Nga, trường phái ngôn ngữ Praha và phê bình
mới Anh - Mỹ, Đỗ Lai Thúy đã trực diện vào phương thức tồn tại của văn học, đi tìm
và giải mã cấu trúc vô thức trên/trong/qua văn bản, để chỉ ra “bút pháp của ham muốn”
của các nhà văn có dấu ấn phân tâm tiêu biểu như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan, Nguyễn Gia Thiều, Chế Lan Viên, Xuân Diệu,
Trên Tạp chí Văn học nghệ thuật số 327(tháng 09 năm 2011), tác giả Hoàng Thị
Huệ đã đăng nghiên cứu của mình về Yếu tố vô thức trong tác phẩm Nguyễn Bình
Phương. Trong bài nghiên cứu của mình, Hoàng Thị Huệ đã tìm tòi và lí giải vai trò
của vô thức ở sáu tiểu thuyết Vào cõi(1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi
vắng(1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kỳ thủy (2003) và Ngồi(2006). Tác giả kết
luận: “Khám phá tầng sâu vô thức, giải mã những bí ẩn tâm linh, tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương mang đến cho người đọc những cảm quan nghệ thuật độc đáo, cho thấy
niềm đam mê của cây bút này trên con đường làm mới mình và làm mới thể loại. Tìm
hiểu yếu tố vô thức sẽ mở ra được cánh cửa dẫn vào thế giới nghệ thuật tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương. Với vô thức, giấc mơ, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã làm
cho bức tranh tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới thêm ảo huyền,
nhiều màu sắc”[39].
Gần đây nhất, trên tạp chí sông Hương số 289 (tháng 03 năm 2013), tác giả
Nguyễn Hữu Tấn đã công bố bài nghiên cứu Vô thức trong văn học. Ở đó, sau khi soi
chiếu khái niệm vô thức dưới góc nhìn của tâm lí học và văn học, Nguyễn Hữu Tấn đã
khảo sát và có những nhận định về mối quan hệ giữa cảm hứng và vô thức trong sáng
tác của các tác giả Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử, Thạch Lam. Ông kết luận: “Nhà
văn phải là những kẻ mang ẩn ức sáng tạo mãnh liệt, dự phóng nghệ thuật đầy tâm
huyết. Họ là một số ít người biết vượt lên và sử dụng chính đời sống đầy nội tâm, ẩn
ức và ám thị đó nhằm sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ… các nhà văn ấy đã vượt
qua chính nỗi đau và ẩn ức của đời mình, hoặc ít ra, các nhà văn biết làm sao biến nỗi
đau thậm chí là bi kịch của đời mình thăng hoa cho đời mà không để hoài phí. Nghệ sĩ

thật sự mà nói là một “nghiệp” hơn là một “nghề” khi số phận của mình là cả chuỗi dài
bi kịch, và sáng tạo gần như là một món nợ tiền kiếp phải trả hơn là sự thăng hoa trong
hạnh phúc. Cho nên đời sống vô thức của nhà văn, nhất là những chấn thương tinh
thần của nhà văn luôn ảnh hưởng và chi phối đến nội dung tác phẩm văn học với vai
trò tích cực… Xét tài năng của nhà văn dưới góc độ vô thức sáng tạo văn học là một
công việc dễ sa vào vô hình, “duy tâm hóa”, đưa văn học đến chỗ bất khả tri bế tắc, và
cũng thu hẹp đối tượng sáng tác. Ở đây phải xét phạm trù “vô thức” như một tầng cơ
chế tâm lý của con người, nằm tách rời ý thức và ý thức không thể tự giải mã được.
Tuy nhiên cả ý thức và vô thức luôn có mối quan hệ chặt chẽ và thường xuyên tương
tác lẫn nhau”[88].
Như vậy, kế thừa những thành tựu của thế giới, dựa vào đặc điểm riêng biệt của
các tác giả, tác phẩm Việt Nam, giới nghiên cứu phê bình văn học nước ta đã đạt được
những thành tựu nhất định trong việc xem xét, tìm tòi sự ảnh hưởng của vô thức đến
sáng tạo văn học.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ Hoàng Cầm
Dựa vào sự đánh giá của giới nghiên cứu, có thể chia lịch sử nghiên cứu thơ
Hoàng Cầm làm ba giai đoạn: giai đoạn 1948 - 1954, dư luận cơ bản nghiêng về phía
khẳng định, ngợi ca. Từ 1954 - 1985, thơ Hoàng Cầm ít được đề cập do hệ lụy sau vụ
Nhân văn - Giai phẩm, Hoàng Cầm bị xem là có “vấn đề” về chính trị. Việc nghiên cứu
thơ ông trong giai đoạn này có hơi thiên về mặt xã hội học dung tục. Kể từ sau Đổi mới
(1986) đến nay, thơ Hoàng Cầm được nhìn nhận khá cởi mở, được tìm hiểu kĩ càng,
sâu sắc, và có nhiều nhận định thấu đáo hơn.
Trước luận văn này đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thơ Hoàng
Cầm xuất phát từ các hướng tiếp cận khác nhau. Người viết tạm phân chia làm bốn
hướng tiếp cận: dựng chân dung văn học, văn hóa học, thi pháp học, phân tâm học.
2.2.1. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm theo kiểu dựng chân dung văn học
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh với bài viếtMấy ý nghĩ về thơ Hoàng Cầm (Đọc
Mưa Thuận Thành của Hoàng Cầm) trong công trình Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn rất xúc động khi mình mang mối “lương duyên” với thơ Hoàng Cầm.
Theo Nguyễn Đăng Mạnh, những bài thơ hay như Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông

là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, dễ làm người đọc xúc động đến “chảy nước
mắt”. Trong dòng chảy thời gian, dòng chảy của một phong cách thơ, ở hai lần gặp thơ
Hoàng Cầm là “Hai lối thơ khác nhau lắm. Nhưng cả hai đều có một cái gì đó rất Hoàng
Cầm. Hình như có một không gian Kinh Bắc, một thời gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính
trong thơ anh. Và trên cái nền thời gian, không gian ấy, cứ thấp thoáng một cô gái quê
Kinh Bắc của một thuở nào, có vẻ đẹp duyên dáng, tình tứ “cười như mùa thu tỏa
nắng”. Tất cả được vờn vẽ bằng một ngọn bút tài hoa, đệm theo một điệu nhạc buồn ”
[56, 219].
Nhà nghiên cứu Hoài Việt với bài viết Đến với Hoàng Cầm trong cuốn Những
khuôn mặt văn nghệ sĩ cho rằng:“Hoàng Cầm mang trong mình kiểu “gene” kẻ sĩ, bác
học của người cha và kiểu “gene” dân giã đẫm “chất huê tình” của người mẹ. Văn
chương Hoàng Cầm “đằm mình” trong truyền thống văn hiến xứ Kinh Bắc và “vục
uống từ suối nguồn đó, có lúc say sưa đến chuệnh choạng”. Ba tác phẩm Lên đường,
Bên kia sông Đuống, Đêm liên hoan là “ba đứa con tinh thần cháy bỏng một tình yêu
da diết đối với quê hương” ” [115, 103 -104]. Qua việc phân tích những đặc sắc về mặt
nghệ thuật trong các tập thơ Về Kinh Bắc, Mưa Thuận Thành, Hoài Việt thấy hình hài
thơ này có một cái bóng đứng chân trong hiện thực cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng
phát lên tiếng nói chung “Còn một cái bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ, điềm tĩnh
hơn, trầm lắng hơn, sâu sắc hơn nhưng lại là tiếng lòng riêng để giải toả những ẩn ức
kiểu “Men đá vàng”” [115, 111].
Tác giả của tập thơ Bóng chữ - nhà thơ Lê Đạt trong bài viết 75 tuổi Hoàng
Cầm có một nhận xét thú vị rằng, Hoàng Cầm và Nguyễn Bính là hai tài năng thơ bẩm
sinh, đặc sản của hai vùng đất nước, một vùng chiêm khê mùa thối cơ cực đất Sơn Nam
và một vùng tài hoa thanh lịch đất Kinh Bắc. Lê Đạt kể, sau “hoạ Kinh Bắc”, tinh thần
Hoàng Cầm suy sụp hẳn, nhưng với bản lĩnh và “tư cách một người chữ can đảm”, “con
chim hoạ mi Kinh Bắc lại vươn cổ bắt đầu hót”[114, 40].
Cũng cần kể tới các bài viết tự giới thiệu về “bức chân dung tinh thần tự hoạ” của
Hoàng Cầm. Tiêu biểu là các bài viết Cuộc đời và thơ[114, 384], Đôi dòng tâm tưởng
về thơ, Tôi đã viết Về Kinh Bắc trong tâm trạng nào, Sông Đuống bắt nguồn từ đâu
[114, 149; 213; 183], Mở lối về cõi xưa Kinh Bắc [10]. Ngưởi viết nhận thấy, một trong

những điều kiện quan trọng góp phần kiến tạo nên hồn thơ Hoàng Cầm đó là chất văn
hoá dân gian xứ Kinh Bắc. Qua những trang viết tự bạch về cuộc đời và sự nghiệp văn
chương, dường như có một hình tượng ám ảnh, thường trở đi trở lại và được tác giả nói
đến nhiều nhất, đó là vẻ đẹp chân chất của những liền chị quan họ thôn quê.
Trong bài Tôi đã viết Về Kinh Bắc trong tâm trạng nào, Hoàng Cầm cho biết,
vào cuối năm Kỷ Hợi 1959, sau vụ Nhân văn - Giai phẩm “Tôi chìm vào một quê hương
xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng
và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh màu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận,
chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê, não nùng, của thương cảm
không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy
suyễn đến một sợi mi cong ” [114, 201].
2.2.2. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm trên bình diện văn hóa học
Bên cạnh kiểu tiếp cận theo hướng dựng chân dung văn học cũng cần nói đến kiểu
tiếp cận trên bình diện văn hoá học. Trên Tạp chí Văn học số 5 năm 1998, với bài viết
Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và , nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý khẳng định, văn hoá làng
xã Việt cổ truyền đã góp phần chi phối đến dòng thơ của Nguyễn Bính và Hoàng Cầm.
Sự giống nhau của hai nhà thơ viết về đề tài thôn quê là sự cảm nhận và nhìn nó “từ bên
trong”. Đây là kiểu sáng tác tuỳ thuộc vào “tạng người, tạng văn hoá của nhà thơ” [97].
Năm 2003, với Luận văn thạc sĩ Ngữ văn Văn hoá Kinh Bắc trong thơ Hoàng
Cầm (Trường ĐHSP Hà Nội), Nguyễn Thị Minh Bắc đã tiếp tục cụ thể hướng nghiên
của các học giả Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Trần Quốc Vượng, Vũ Ngọc
Khánh Đến năm 2007, tác giả đã phát triển từ luận văn này thành cuốn sách nghiên
cứu Thơ Hoàng Cầm với văn hóa Kinh Bắc (NXB Hội Nhà văn). Trong những công
trình này, từ việc tìm hiểu những điều kiện tự nhiên, vị thế lịch sử - xã hội, phong tục,
tập quán, ngôn ngữ quan họ, Nguyễn Thị Minh Bắc đã đi đến kết luận, các yếu tố trên là
những nét rất riêng hun đúc nên một bản lĩnh văn hoá vùng hết sức độc đáo. Tác giả đã
khảo sát, phân tích vẻ đẹp của các dòng sông, núi đồi gắn liền với những biến cố, thăng
trầm của lịch sử. Đây là không gian văn hoá cho những trai tài, gái quê duyên dáng, tình
tứ; họ là những con người Kinh Bắc bất tử trong thơ Hoàng Cầm. Đánh giá những đóng
góp của nhà thơ, Nguyễn Thị Minh Bắc nhấn mạnh“đỉnh cao sáng tạo của Hoàng Cầm

là bài thơ Bên kia sông Đuống vì nó đã hội tụ được những đặc trưng tiêu biểu nhất của
văn hoá Kinh Bắc” [7, 70].
TS. Nguyễn Xuân Lạc viết vềcảm hứng thơHoàng Cầm: “Người thơmang tên vị
thuốc đắng ấy lại sinh ra và lớn lên trong một vùng đất thơngọt ngào. Đó là xứ Kinh
Bắc - một trong ba cái nôi lớn của dân tộc Việt Nam Xứ Kinh Bắc thơmộng hữu
tình Vùng đất thơ ấy đã bồi đắp cho thơHoàng Cầm từnhiều phía, nhiều nguồn”, ra đi
kháng chiến, Hoàng Cầm “đem theo cảmột hành trang Kinh Bắc trong hồn thơ Thanh
niên của mình” ” [46, 14-15].
Cũng theo hướng tiếp cận này, PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp chú ý đến yếu
tốvăn hoá bao bọc từthuở ấu thơ“Cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng sương
khói văn hoá dân gian đã ăn quá sâu vào tuổi thơHoàng Cầm Nằm sau trong câu
chữHoàng Cầm là sựngân vọng của những lớp trầm tích văn hoá được thẩm thấu qua
bộlọc tinh tếcủa thi nhân Cái yếu tốsâu xa nhất tạo nên ma lực thơHoàng Cầm là
ởchỗông biết đánh thức hồn quê Kinh Bắc trong cõi vô thức, tiềm thức” [20, 195; 206].
Nhưvậy, có thểnói các bài viết trên chủyếu đềcập đến vấn đềcảm hứng thơ
Hoàng Cầm - và đã khẳng định những cảm hứng đó đều được bắt nguồn từvùng văn
hoá truyền thốngKinh Bắc. Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ đặc biệt đểHoàng Cầm
dệt lên hồn thơ đẫm chất trữtình của mình.
Với bài viết Chị đừng đi (1997),nhà nghiên cứu Ngô Thảo lại đềcập đến yếu
tốtâm linh trong thơHoàng Cầm. Đó chính là tâm thếsáng tạo của nhà thơ: “hầu suốt
hành trình đi tới vềvới thời gian, thếgiới tinh thần, tâm linh ông luôn đi ngược, lặn sâu
vào quá khứ. Quá khứ không chỉhiện ra qua lớp từcổ, những địa danh cổ, nếp sống cổ,
phong tục tập quán cổ ông đã tạo ra được một không gian cổtrọn vẹn, đặc biệt kỳdiệu
trong tập thơ VềKinh Bắc. Bao nhiêu từthô lậu của đời thường, nào váy, giải yếm, đặt
trong thếgiới này bỗng mang một màu sắc gợi tảkhác xa ý nghĩa cụthể” [4, 54].
Khẳng định bản lĩnh và tài năng thơHoàng Cầm, Nguyễn Việt Chiến viết: “Tài
năng ông là ởchỗtìm tòi đổi mới thơmà bản ngã truyền thống vẫn không suy chuyển,
nâng cao tưduy thơmà giọng điệu vẫn không xa lạvới mọi người” [13, 57] và chỉrõ:
“Hoàng Cầm là ông Hoàng của thơtrữtình Thơtrữtình của Hoàng Cầm có một phong
thái rất đặc biệt và đặc thù, tên tuổi của ông đã làm rạng danh cảmột vùng Kinh Bắc -

cái nôi của nền văn hoá Sông Hồng” [13, 56].
Năm 2012, luận án Tiến sĩcủa Lương Minh Chung với đềtài ThơHoàng Cầm
từgóc nhìn văn hóa đã xác định điểm nhìn văn hóa trong việc nghiên cứu thơ Hoàng
Cầm. Tác giả luận án đã đi sâu vào các vấn đềlý thuyết, lý luận chung vềmối quan
hệgiữa môi trường văn hóa và con người, và dưới góc nhìn văn học nhưmột công cụ
đểkhai thác. Đồng thời tác giả cũng đềcập đến việc phản ánh các biểu tượng trong
thơHoàng Cầm dưới góc nhìn văn hóa trong mối quan hệtổng thểcủa văn hóa Việt
Nam.
Tháng 07 năm 2013, Trần Đức Hoàn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài
Văn hóa Kinh Bắc - vùng thẩm mĩ trong thơ Hoàng Cầm. Luận án đã nghiên cứu thơ
Hoàng Cầm trong mối quan hệ giữa vùng văn hóa, vùng thẩm mĩ Kinh Bắc dưới các
góc độ biểu tượng văn hóa và hệ thống ngôn ngữ. Trần Đức Hoàn khẳng định: “Thi sĩ
Hoàng Cầm đã có được những đóng góp lớn rất đáng trân trọng vào nền văn học Việt
Nam hiện đại. Những thi phẩm của ông đã làm vẻ vang cho vùng đất Kinh Bắc, vẻ
vang cho nền thơ ca dân tộc, đặc biệt là ở giá trị các biểu tượng văn hóa và hệ thống
ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật. Hoàng Cầm có một vịtrí xứng đáng, một địa vị vững
chắc và trở thành một trong những tên tuổi thơ ca lớn trong lịch sử văn học dân tộc.
Không có vùng đất địa linh nhân kiệt, không có vùng văn hoá - vùng thẩm mĩ Kinh
Bắc hào hoa và ngồn ngộn sự sống thì không có người con của Sông Đuống trôi đi/
Một dòng lấp lánh và ngược lại, chính Hoàng Cầm cũng là người bảo tồn, làm sống
dậy nền văn hoá trong lành đậm đà phong vị quê hương không thể trộn lẫn ấy.” [37,
149]
2.2.3. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm trên bình diện thi pháp học
Dưới góc nhìn thi pháp học, GS. Đỗ Đức Hiểu trong bài viết Thơ mới - cuộc nổi
loạn của ngôn từ thơ đã nhận thấy, Hoàng Cầm của Men Đá vàng, Mưa Thuận Thành
“là người kế tục (xa, rất xa) Thơ mới”. Đi từ những đặc điểm cơ bản của thơ lãng mạn,
thơ tượng trưng, siêu thực và qua cái nhìn so sánh, Đỗ Đức Hiểu đã có những nhận xét
rất tinh tế về hai hiện tượng thơ Vũ Hoàng Chương và Hoàng Cầm trong dòng chảy
của Thơ mới. Theo ông “tính hiện đại của thơ Hoàng Cầm không phải như thơ Vũ
Hoàng Chương (nhà thơ đô thị với phố xá đô thị, sàn nhảy đô thị, tiệm hút đô thị ) mà

một vùng cỏ cây, sông hồ nhẹ bay của thôn quê Kinh Bắc, được siêu thực thành cỏ
Bồng Thi, cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa, và Lá Diêu Bông, hay những người con gái ảo
mờ, những mối tình hư ảo xứ Kinh Bắc, xoá nhoà trong mưa bụi bay” [31, 115]. Từ
việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật Mưa Thuận Thành, Đỗ Đức Hiểu đã rút ra cho chúng
ta nhiều nhận xét độc đáo về thi pháp thơ Hoàng Cầm. Đó là một loại hình thơ có
nhiều “cái lặng”, “nhiều xót xa, nhiều bi kịch, không nói”, nó “âm u, loé sáng, rồi mịt
mù, xa tắp, như những huyền thoại thuở hoang sơ” [31, 116].
Đọc thơ Hoàng Cầm, nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê có một số cảm nhận riêng trên
phương diện thi pháp học lịch sử. Chị gọi thế giới thơ Hoàng Cầm bằng một cách gọi
tên ước lệ, đó là “sa mạc Hoàng Cầm”, “sa mạc trần gian”. Sợi chỉ kết cấu “trải dài
trong sa mạc trần gian” của thế giới đó là “lấy về làm khởi bút” - Về Kinh Bắc. Từ
điểm tựa này, không gian Kinh Bắc “đất xưa, quê cũ”, “tổ tiên”, “thánh hiền” trở thành
nơi chốn bình an để Hoàng Cầm làm nơi nương tựa đặng “ôm trọn lòng mình” (chữ
dùng của Phạm Minh Tuấn) cho thơ sau vụ Nhân văn - Giai phẩm (1959 -1960). Thời
gian là “về viếng dĩ vãng”, “hỏi tuổi thơ”, “về lại cuộc tình”, “thăm lịch sử”, để “tìm
lại thời xa, một thời siêu hiện tại, thời Kinh Bắc”. Điều độc đáo là, trong khi tiếp cận
tập thơ Về Kinh Bắc và tập kịch thơ Kiều Loan, Thuỵ Khuê đã lí giải thế giới thơ
Hoàng Cầm mang nhiều dấu ấn của thi pháp huyền thoại. Đó là một cõi “lung linh
giữa mơ và thực, là cõi lên đồng âm thanh, là phường bát âm chữ nghĩa, là cơn cuồng
phong lịch sử loạn mầu trong từ trường đồng thiếp, những dân ca, phong tục, truyền
thuyết… Hiện tại nhập hồn quá khứ gọi nhau trong những vũ điệu bất thường hoang
dại” [4, 365].
Năm 1998, PGS.TS. Lê Lưu Oanh trong công trình Thơ trữ tình Việt Nam 1975 -
1990,đã đề cập đến khá nhiều gương mặt thơ Việt Nam thời hậu chiến. Trong đó,
Hoàng Cầm được xem như một nhà thơ “tạo được một thế giới ảo, siêu thực, vời vợi,
đầy thực và hư với một màn mưa kì lạ”, một “thế giới Kinh Bắc cổ kính pha đầy
huyền thoại”, “một không gian thời gian không xác định, mờ ảo, xa vời, tít tắp, đan cài
giữa mộng và thực” [67, 116]. Lê Lưu Oanh cho rằng, rất nhiều bài thơ của Hoàng
Cầm mang phong cách tôn giáo hoá. Đó là một không gian “linh thiêng và cao cả với
tinh thần vươn tới cõi vĩnh hằng, chạm tới các giá trị vĩnh cửu, để nghiền ngẫm, khắc

khoải về sự tồn tại của con người trong quy luật của tạo hoá” [67, 116].
Đáng chú ý là ở tập tiểu luận phê bình Vọng từ con chữ,PGS.TS. Nguyễn Đăng
Điệp có bài Hoàng Cầm: người dệt thơ từ những giấc mơ Từ việc tìm hiểu sự xuất
hiện phổ biến của tín hiệu thẩm mĩ “về”, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng “về” tạo nên
nhịp điệu thơ Hoàng Cầm và là một ứng xử nghệ thuật. Cái nguyên uỷ làm nên “vũ trụ
thơ Hoàng Cầm” thực chất là “hồn quê Kinh Bắc rung lên qua những sợi thần kinh thi
ca nhạy cảm được ươm mầm từ thuở ấu thơ” [20, 197]. Cõi thơ Hoàng Cầm là một
giấc mơ, mơ về tuổi thơ, nhớ lại ký ức. Trong các ngôi mẹ - chị - em đều có sự đan xen
nhập nhoè nhưng thống nhất trong một thể, và “vẻ đẹp của đất, của người, của văn hoá
Kinh Bắc dường như đều hội tụ vào em và toả sáng” [20, 201]. Bởi em là “cái đẹp kiêu
sa”, là “nét duyên mặn mòi”, là “sự thanh tú mà quyến rũ kiểu hương quê”, và “biểu
tượng cho vẻ đẹp khát vọng”. Theo Nguyễn Đăng Điệp, tinh hoa thơ Hoàng Cầm là
“thứ thơ lấy sức mạnh của nhịp là nền tảng. Một thứ thơ hút người đọc vào vòng xoáy
của nó bằng nhạc”, giai điệu thơ Hoàng Cầm ảnh hưởng khá rõ của từ, khúc trong văn
chương cổ điển phương Đông hoà quyện chặt chẽ với cái mượt mà của những làn điệu
dân ca quan họ tạo nên những màu sắc riêng, sang trọng, đằm thắm nhưng bay bổng,
hào hoa.
Năm 2001, Trần Thị Huyền Phương trong Luận văn thạc sĩ Ngữ văn có tên Sự
kết hợp giữa yếu tố thực và hư trong thơ Hoàng Cầm (Trường ĐHSP Hà Nội), đã lí
giải hai phạm trù đối lập “thực” - “hư” và xem đó là bản chất của cấu trúc hình tượng
và tư duy nghệ thuật. Trần Thị Huyền Phương xem sự kết hợp giữa yếu tố thực và hư
là nét đặc sắc trong việc xây dựng hình tượng và thể hiện được một số nét tiêu biểu của
phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Cầm. Điều này được thể hiện trên ba luận điểm cơ
bản. Một là, sự huyền thoại hoá lịch sử - văn hoá quê hương Kinh Bắc. Hai là, tâm linh
hoá thế giới tinh thần con người. Ba là, không gian - thời gian tâm linh. Trong luận
điểm thứ ba, tác giả luận văn đã có một lí giải thú vị đó là“không gian tâm linh siêu
hình - một cõi miền rất sâu, rất xa xôi và bí ẩn nhằm khám phá đời sống nội tâm, thế
giới tinh thần của con người” [72, 52].
Năm 2003, Nguyễn Thuý Hạnh trong Báo cáo khoa học và Khoá luận tốt nghiệp
đề tài Không gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm (Khoa Ngữ Văn Trường ĐHSP Hà

Nội), đã tiếp cận không gian nghệ thuật trên hai hướng chính đó là không gian vật chất
và không gian tinh thần. Không gian vật chất được tác giả khoá luận tiếp cận qua
những di tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh và không gian dòng sông Đuống.
Không gian vật chất làm thành đặc trưng tiêu biểu trong thơ Hoàng Cầm “tạo nên một
màu sắc, một diện mạo riêng của cái hồn quê xứ Bắc” [28, 16]. Không gian tinh thần
được Nguyễn Thuý Hạnh tìm hiểu qua những sinh hoạt lễ hội văn hóa dân gian cổ
truyền. Đây là không gian hiện hữu của những nhân vật lịch sử mà qua đó nhà thơ đã
đối thoại, bàn luận, lý giải về các nhân vật ấy và nâng hình tượng thơ lên một tầm cao
mới.
Cũng cần kể tới Lê Thị Hồng với Khoá luận tốt nghiệp có tên Thế giới Kinh Bắc
trong thơ Hoàng Cầm (Khoa Ngữ văn Trường Đại học Vinh) có nói đến thế giới Kinh
Bắc như một nét độc đáo trong thế giới nghệ thuật thơ, và “Làng quê Kinh Bắc man
mác cả hành trình thơ Hoàng Cầm, là cái nền, là không gian cho những hình tượng thơ,
cảm xúc thơ nảy nở” [38, 23].
2.2.4. Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm trên bình diện phân tâm học
Năm 2003, PGS.TS. Đỗ Lai Thuý biên soạn, giới thiệu cuốn sách Phân tâm học
và tình yêu. Ông đã lấy bài viết Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm để thay lời bạt cho
cuốn sách này. Đỗ Lai Thuý cho rằng “Về Kinh Bắc là một giấc mơ”, và là “một galerie
những bức ảnh ấu thời, ảnh hội hè đình đám xứ Bắc, ảnh con người của đời thường và
của huyền thoại, ảnh động vật, cây cối ” [24, 479]. Chúng đứng ngẫu nhiên bên cạnh
nhau, vừa chồng chất vừa rời rạc. Trong giấc mơ, bao giờ cũng “ẩn chứa những ham
muốn vô thức”, những “khát khao bản năng” của tuổi ấu thơ bị đẩy vào tiềm thức và bị
nhốt vào quên lãng. Những dồn nén đó chờ những lúc “có vấn đề”, sự kiểm soát bị lơi
lỏng sẽ “bung ra” thăng hoa thành những giấc mơ, thành sáng tạo nghệ thuật. Nói cách
khác đây là “một tình yêu kiểu Oedipe”, và “Hoàng Cầm đã sáng tác để giải toả mặc
cảm Oedipe” [24, 489].
Có thể nói, những nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy đem lại rất nhiều gợi ý cho người
viết trong ý tưởng và cả cách thức tiếp cận thơ Hoàng Cầm theo hướng phân tâm học.
Dụng ý của người viết là tập trung nghiên cứu thơ Hoàng Cầm qua yếu tố quan trọng
bậc nhất của phân tâm học: yếu tố vô thức.

3.Mục đích nghiên cứu
Người viết thực hiện luận văn với hai mục đích chính. Một là khảo sát sự có
mặt của yếu tố vô thức trong quá trình sáng tác thi ca của Hoàng Cầm để thấy được cá
tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Hai là phân tích, cắt nghĩa các biểu tượng được tạo
ra nhờ yếu tố vô thức, qua đó đóng góp một cách đọc và hiểu thơ Hoàng Cầm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thế giới nghệ thuật, đặc biệt là yếu tố vô thức
và sự thể hiện của yếu tố vô thức trong thơ Hoàng Cầm.
- Phạm vi nghiên cứu: người viết tập trung khảo sát toàn bộ các tập thơ và những hồi
ức của Hoàng Cầm chủ yếu được in trong cuốn Hoàng Cầm - tác phẩm: Thơ do Nhà
xuất bản Hội nhà văn & Trung tâm văn hóa Đông Tây xuất bản năm 2002.Ngoài ra,
luận văn còn mở rộng, so sánh đối chiếu với sáng tác của những tác giả khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Người viết chủ yếu vận dụng bốn phương pháp sau đây để thực hiện luận văn:
- Phương pháp tiếp cận tâm lí học sáng tạo văn học: nhằm nghiên cứu quá trình
tâm lí của thi sĩ Hoàng Cầm khi sáng tác thơ ca.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: dùng để vận dụng những tri thức về văn
hóa Kinh Bắc nói riêng, vùng văn hóa Bắc Bộ nói chung nhằm nhận diện và giải mã
các hình tượng siêu mẫu trong thơ Hoàng Cầm.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: dùng để để tiếp cận hệ thống các biểu
tượng trong thơ Hoàng Cầm và nghệ thuật thơ Hoàng Cầm.
- Phương pháp thống kê: nhằm để thu thập số lần xuất hiện của các siêu mẫu
trong thơ Hoàng Cầm và lí giải sự xuất hiện nhiều lần của các siêu mẫu ấy.
Ngoài ra, luận văn còn vận dụng thêm các thao tác khoa học: phân tích, tổng
hợp, bình giảng…
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương:
Chương 1: Hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm từ yếu tố vô thức
Chương 2: Vô thức cá nhân trong thơ Hoàng Cầm

Chương 3: Vô thức tập thể trong thơ Hoàng Cầm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristot - Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca và Văn tâm điêu long, Lê Đăng Bảng,
Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Báy, Phan Ngọc dịch, Đoàn
Tử Huyến hiệu đính, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. M.Arnauđốp (1978), Tâm lí học sáng tạo văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Thuý Anh (2001), Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm, Luận văn thạc sĩ Ngữ
văn, Trường Đại học Vinh.
4. Lại Nguyên Ân (chủ biên) (2011), Hoàng Cầm - hồn thơ độc đáo, Nxb Hội Nhà văn
& Trung tâm văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
5. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển dịch và
giới thiệu, Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, Hà Nội.
6. André Breton, Tuyên ngôn thứ nhất của chủ nghĩa siêu thực, Phùng Kiên dịch từ
nguyên bản tiếng Pháp, Phương Ngọc hiệu đính, website: http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn.
7. Nguyễn Thị Minh Bắc (2003), Văn hoá Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm, Luận văn
thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lí học nhân cách - Một số vấn đề lí luận, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Phan Cảnh (2001) Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
10. Hoàng Cầm (2000), “Mở lối về cõi xưa Kinh Bắc”, Nhà văn, số 5.
11. Hoàng Cầm (2002), Hoàng Cầm: tác phẩm - thơ, Nxb Hội Nhà văn & Trung tâm
văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
12. Hoàng Cầm (2004), Tôi đã làm đúng thiên chức thi sĩ của mình, Hoàng Hưng thực
hiện (Nguồn báo Lao động ngày 23. 2. 2002), .
13. Nguyễn Việt Chiến (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Thơ Việt Nam tìm tòi và
cách tân, 1975 - 2005, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
14. Lương Minh Chung (2012). Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa (luận án Tiến sĩ),
Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
15. Nam Dao (1999), Một vị thuốc đắng, một vị thơ, website


16. Nguyễn Văn Dân (2000), Lí luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
18. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
19. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
22. Hà Minh Đức (chủ biên) (2000), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Hà Minh Đức biên soạn và sưu tầm (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
24. S. Freud, A. Schopenhauer, V.Soloviev, Đỗ Lai Thuý (2003), Phân tâm học và tình
yêu, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
25. S. Freud, C.G.Jung, Jean Bellemin, Noel G. Bachelard, G.Tucci, V.Dundes,
V.Vysheslatsev, Đỗ Lai Thuý (2004), Phân tâm học và văn học nghệ thuật, Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
26. Nguyễn Thị Bích Hải (2005), Bình giảng thơ Đường (Theo sách giáo khoa Ngữ
văn mới), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (1997), Từ điển thuật
ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Thuý Hạnh (2003), Không gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm,
Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
29. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Văn học gần & xa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Những ngã đường vào văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
32. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (2003), Từ
điển Văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

33. Diêu Trị Hoa (2004), Edmund Husserl, Trịnh Cư dịch, Dương Vũ hiệu đính, Nxb
Thuận Hoá, Trung tâm Văn hoá - Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Hoa tuyển chọn (1996), Mưa trong thơ Việt, Nxb Văn học, Hà Nội.
35. Đông Hoài, Quỳnh Thư Nhiên (1994) Chủ nghĩa siêu thực trong thơ Pháp thế kỷ
XX, Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Phạm Thị Hoài (2003), Mưa Thuận Thành (nguồn Tạp chí Thơ, số mùa đông
1997), .
37. Trần Đức Hoàn (2013), Văn hóa Kinh Bắc - vùng thẩm mĩ trong thơ Hoàng Cầm
(luận án Tiến sĩ), Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
38. Lê Thị Hồng (2004), Thế giới Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm, Khoá luận tốt
nghiệp, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
39. Hoàng Thị Huệ (2011), Yếu tố vô thức trong tác phẩm Nguyễn Bình Phương, Tạp
chí Văn học Nghệ thuật, số 327.
40. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hoá thông tin, Hà
Nội.
41. Đào Hùng (2004), Nói chuyện với nhà thơ Hoàng Cầm,website
.
42. Cao Xuân Huy (2003) Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh , Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn minh Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
44. Trần Đình Hượu (2001) Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Lại Nguyên Ân
biên soạn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
45. Vũ Khiêu, Nguyễn Vinh Phúc chủ biên (2000), Văn hiến Thăng Long,Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
46. Nguyễn Xuân Lạc (biên soạn) (2003), Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, Nxb
Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
47. Nguyễn Ngọc Lâm (2008), Đôi điều bàn thêm về bài thơ Lá Diêu Bông của thi sĩ
Hoàng Cầm. Trường CĐSP Bắc Ninh.
48. Lưu Cương Kỷ, Phạm Minh Hoa (2002), Chu dịch và mĩ học, Hoàng Văn Lâu dịch,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

49. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp , Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
50. Đặng Văn Lung (1998), Bàn thêm về nguồn gốc Quan họ, Văn học, số 11.
51. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (1978), Quan họ nguồn gốc và quá
trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Phương Lựu chủ biên (2002), Lý luận văn học, tập 1, Văn học - nhà văn - bạn đọc,
Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
53. Phương Lựu (2004), Phương Lựu tuyển tập - Tập 1 : Lí luận văn học cổ điển
phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà,
Thành Thế Thái Bình (2004), Lí luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Đặng Thai Mai (2003), Trên đường nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn
chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những bài văn bình giảng hay trong nhà trường phổ
thông trung học, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Ngô Minh (2007), Đi tìm Lá Diêu Bông,website .
59. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích Văn học bằng Ngôn ngữ học, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
60. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
61. Lữ Huy Nguyên (sưu tầm và tuyển chọn) (2000), Hồ Xuân Hương: thơ và đời, Nxb
Văn học, Hà Nội.
62. Phạm Xuân Nguyên (2007), Ai tìm thấy Lá Diêu Bông,.
63. Hoàng Nhân (1996), André Breton và Hàn Mặc Tử, Văn học, (7).
64. Nhiều tác giả (2006), Vẻ đẹp văn học Cách mạng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
65. Trần Công Nhung (2005), Hoàng Cầm với Lá diêu bông, website
.
66. Vũ Thị Trang Nhung (2006), Trò chơi và lễ hội dân gian trong Về Kinh Bắc của

Hoàng Cầm, Báo cáo khoa học, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
67. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nan 1975 -1990, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
68. Lê Lưu Oanh (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
69. Vũ Ngọc Phan (2008), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
70. Đoàn Đức Phương (2008), Phương pháp luận nghiên cứu văn học (đề cương bài
giảng), Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
71. Nguyễn Bình Phương, Thoạt kì thủy (tiểu thuyết), website .
72. Trần Thị Huyền Phương (2001), Sự kết hợp giữa các yếu tố thực và hư trong thơ
Hoàng Cầm, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
73. G.N. Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại Nguyên
Ân, Lê Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74. Bùi Thế Quang (2005), Thi sĩ Hoàng Cầm : Đâu rồi “mộng ngày
xanh”,.
75. Sophocle, Bi kịch Oedipelàm vua, Minh Thu dịch (trong The firmament, July
2012).
76. Chu Văn Sơn (1994), Ấn tượng thơ Hoàng Cầm, Nha trang, (26), in trong Hoàng
Cầm thơ văn và cuộc đời, Hoài Việt sưu tầm và biên soạn, Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
77. Chu Văn Sơn (2005), Hoàng Cầm - Gã phù du Kinh Bắc, Nhà văn,
(10),.
78. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao thơ mới Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc
Tử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
79. Chu Văn Sơn (2006), Ngọn lửa thiêng Huy Cận, Thơ, số 1.
80. Chu Văn Sơn giới thiệu và tuyển chọn (2006), Nguyễn Đăng Mạnh tuyển tập, tập
2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
81. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

84. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
85. Trần Đình Sử - Phan Huy Dũng (1997), Phân tích và bình giảng tác phẩm Văn
học lớp 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
86. Nguyễn Nguyên Tản (2006), Cây tam cúc khát vọng yêu thương trong trò chơi con
trẻ, (Nguồn Văn nghệ Công an), .
87. Nguyễn Trọng Tạo (2000), "Hoàng Cầm - Nhà thơ tân cổ điển", Thừa Thiên Huế,
(ngày 29/ 8/ 2000).
88. Nguyễn Hữu Tấn (2013), Vô thức trong văn học, Tạp chí sông Hương, số 3.
89. Tập thể tác giả (2001), Những vấn đề lí thuyết lịch sử văn học và ngôn ngữ, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
90. Hoài Thanh, Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
91. Phan Thị Vân Thanh (2002), Hình ảnh giai nhân trong thơ Hoàng Cầm, Báo cáo
khoa học, Khoa Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội.
92. Đặng Phương Thảo (2003), Tìm hiểu phong cách ngôn ngữ Hoàng Cầm qua tập
thơ Về Kinh Bắc, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm
Hà Nội.
93. Trần Đức Thảo (1996), Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, Đoàn Văn Chúc
dịch, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
94. Nguyễn Ngọc Thiện thực hiện (1998), Hội thảo khoa học : Văn hoá - Mối quan hệ
giữa văn hoá và văn học, Văn học, số 6.
95. Nguyễn Văn Thọ (2001), Nghệ thuật thơ - Cảm thụ và (trích) Công tử Hà Đông
viết ở Rừng Phong, Văn hoá Nghệ thuật, số 536.
96. Lưu Khánh Thơ (1991), Chuyện về Lá Diêu Bông và bài thơ Bên kia sông Đuống,
Văn học, số 3.
97. Đỗ Lai Thuý (1998), Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và ,Văn học, số 5.
98. Đỗ Lai Thuý (1999), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
99. Đỗ Lai Thuý (2002), Chân trời có người bay, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
100. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương - Tiến trình - Tác giả - Tác phẩm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.

101. L.I. Timôfêép (1962) Nguyên lý lý luận văn học, Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo,
Bùi Khánh Thế, Nguyễn Hải Hà, Minh Hải, Nhữ Thành dịch, Nxb Văn hoá, Viện
Văn học, Hà Nội.
102. Đặng Tiến (2007), Hoàng Cầm - Truyền thống và hiện đại,website
.
103. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và Văn học, NxbTrẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
104. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hoá, Nxb Giáo dục, Thành
phố Hồ Chí Minh.
105. Hoàng Trinh (1999), Phương Tây Văn học và Con người, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
106. Nguyễn Mạnh Trinh (2004), Hoàng Cầm, “Bên kia sông Đuống”, website
.
107. Hoàng Ngọc Tuấn (2002), Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sáng
tác và góc nhìn lý thuyết, Nxb Văn nghệ, California (Hoa Kì)
108. Nguyễn Văn Tùng (2003), Hoàng Cầm và sông Đuống quê hương, in trong
Tuyển tập mười năm Văn học và Tuổi trẻ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
109. Hàn Mặc Tử (2001), Hàn Mặc Tử : thơ (Mã Giang Lân tuyển chọn và giới thiệu),
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
110. Lê Đình Tường (2006), Về cấu trúc đề thuyết trong phân tích tác phẩm (Qua một
dàn bài chi tiết trong Dàn bài tập làm văn lớp 12), Ngôn ngữ & Đời sống, số 8.
111. Phùng Văn Tửu (1991), Rembô “Con thuyền say”, Văn học, số 6.
112. Kiều Văn biên soạn và giới thiệu (2002), Thơ Hoàng Cầm, Nxb Đồng Nai.
113. Viện ngôn ngữ học (2000) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển
học, Hà Nội.
114. Hoài Việt sưu tầm và biên soan (1997), Hoàng Cầm thơ văn và cuộc đời, Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
115. Hoài Việt (2002), Những khuôn mặt văn nghệ sĩ, Nxb Hà Nội.
116. L.X. Vưgôxki (1995), Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam, Kiên Giang dịch, Phạm
Vĩnh Cư, Hoàng Ngọc Hiến hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội - Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội.

117. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả Văn học - Nhà nho tài tử và văn
học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
118. Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
119. Trần Quốc Vượng (2001), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
120. Lê Mỹ Ý (2004), Nhà thơ Hoàng Cầm và những “chiếc lá diêu
bông”,.

×