Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học ung thư biểu mô thực quản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.14 KB, 56 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
U của thực quản nói chung, ung thư thực quản nói riêng có thể xuất
phát từ bất kỳ lớp nào trong 4 lớp: Niêm mạc, dưới niêm mạc, cơ niêm và
thanh mạc. UTTQ có nhiều typ song có từ 70-95% là các ung thư biểu mô
vảy và một vài typ khác xuất phát từ vùng nối TQ- dạ dày là các ung thư biểu
mô tuyến, những ung thư liên quan đến bệnh Barrett.
Trên toàn thế giới, ung thư biểu mô thực quản là loại UT đứng thứ 6 ở
nam giới, đứng thứ 9 ở nữ giới. Tuy nhiên, có sự phân bố về tần suất khác
nhau giữa cỏc vựng địa lý, chủng tộc. Những vùng dịch tễ của UTTQ là đông
bắc Iran, Transkei ở Nam Phi, Thành phố Linxian tỉnh Hồ Nam- Trung Quốc,
miền bắc nước Nga, Ấn Độ, Trung Đông và Singapor [34], [28]. Theo Devesa
SS, Blot WJ, Fraumeni JF Jr (1998), tỷ lệ mắc UTTQ ở nam giới Mỹ da trắng
là 2,2/100.000 dân, trong khi đó, tỷ lệ mắc UTTQ ở nam giới Mỹ da đen lên
đến 13,2/100.000 dân [30]. Vùng Normandy (Pháp) có tỷ lệ mắc UTTQ là
18,2/100.000 dân [53]. Tại Trung quốc, vùng Thượng Hải có tỷ lệ mắc chỉ
8,2/100000 dân nhưng tại vùng Linxian, tỷ lệ này lên tới 183,8/100.000 dân
[55] [28]. Người ta đã biết được lịch sử tiến triển tự nhiên của UTTQ đi từ
những tổn thương viêm đến tổn thương loạn sản độ thấp rồi loạn sản độ cao
và kết thúc cuộc sống người bệnh ở giai đoạn ung thư xâm nhập [5]. Nguyên
nhân của UTTQ chưa thật rõ, tuy nhiên yếu tố dinh dưỡng, gia đình và một số
yếu tố chứa các chất sinh ung thư: Rượu, thuốc lá, kẽm, nitrossamin, thiếu
vitamin, một số bệnh liên quan: Viêm thực quản mạn tính, bỏng thực quản và
bệnh Barrett… được coi là những thủ phạm chính [34] [39] [28]. Bất chấp
những hiểu biết ngày càng sâu hơn, UTTQ vẫn là loại bệnh nặng nhất trong
các ung thư đường tiêu hóa. Hiếm khi người bệnh được hưởng phác đồ điều
trị triệt để vì ở thời điểm điều trị các khối u thường đã vượt qua lớp thanh mạc
1
để xâm lấn vào các cấu trúc kế cận: Trung thất, hạch, thậm chí xâm lấn vào
nhu mô gan. Nguyên nhân của tiờn lượng xấu này là vì chẩn đoán bệnh quá
muộn do trên thực tế, những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi u lớn, đã lấp
lòng thực quản. Một đôi khi có dấu hiệu sớm của bệnh báo hiệu bằng tình


trạng nuốt nghẹn khi thức ăn đi qua vùng khối u và đó là lý do khiến bệnh
nhân đến khám bệnh tại chuyên khoa Tai mũi họng. Thật may mắn, nếu người
bệnh báo cho bác sĩ biết những dấu hiệu sớm này và cũng may cho họ nếu bác
sĩ tìm ra nguyên nhân của các dấu hiệu đó.
Tại Việt Nam, từ khi ống soi mềm được sử dụng thì tỷ lệ UTTQ giai
đoạn sớm tăng lên rõ rệt, phẫu thuật điều trị UTTQ đã có kết quả tốt hơn, chất
lượng và thời gian sống thêm của bệnh nhân được cải thiện đáng kể [11]
[12]. Tuy nhiên, hiệu quả của các phương pháp chỉ thực sự thay đổi khi việc
chẩn đoán phát hiện bệnh sớm. Hiện có nhiều phương pháp chẩn đoán UTTQ,
trong đó bộ ba chẩn đoán của thời đại là: Chẩn đoán nội soi, chẩn đoán hình
ảnh và chẩn đoán mô bệnh học. Các phương pháp thăm dò trên không chỉ
giúp cho việc chẩn đoán và tiên lượng bệnh mà cũn giỳp nhà lâm sàng chọn
lựa được phương pháp điều trị phù hợp.
Ở Việt Nam, cũng đó cú một số nghiên cứu về ung thư thực quản song
chủ yếu là các đề tài về phương pháp điều trị [11] [12] [13] [16], một số hiếm
đề tài về hình thái tổn thương trên Xquang hay mô bệnh [14] [15]. Xuất phát
từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và mô bệnh học ung thư biểu mô thực quản’’ nhằm các
mục tiêu sau:
1/ Mô tả đặc điểm lâm sàng, nội soi của ung thư biểu mô thực quản
2/ Đối chiếu lâm sàng, nội soi với mô bệnh học của ung thư biểu mô
thực quản.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ DỊCH TỄ UNG THƯ THỰC QUẢN
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu
- Ung thư thực quản được nghiên cứu bắt đầu từ thế kỷ 19 và người
thực hiện thành công phẫu thuật cắt bỏ thực quản điều trị UTTQ là Frank
Torek vào năm 1913 [42].

- 1930, Ohsawa (Nhật Bản) và Marshall (Mỹ) là những người đầu tiên
thực hiện thành công cắt bỏ UTTQ giai đoạn I trong lồng ngực và tái tạo lại
cấu trúc giải phẫu vùng cắt bỏ [31] [47].
- 1952, Morson và cộng sự lần đầu tiên mô tả một trường hợp ung thư
biểu mô tuyến thực quản với sự hiện diện của các tế bào hình đài chế nhầy
trong biểu mô [57] [48].
- 1975, Naef và cộng sự đã nhấn mạnh nguy cơ ung thư thực quản của
những bệnh nhân bị Barrett thực quản, nguy cơ UTTQ của nhóm bệnh nhân
này cao gấp 30-60 lần những người bình thường [42].
- 1977, TCYTTG công bố bảng phân loại mô học các u thực quản và dạ
dày đầu tiên [68].
- 1988, Marmuse JP đã cải tiến kỹ thuật cắt TQ không mở ngực và tạo
hình TQ bằng ống dạ dày [49].
- Phõn loại mô bệnh học UTTQ của Rubio CA, Liu F, Zhao H được
công bố năm 1989 [58].
- 1997, Akiyama H nghiên cứu trên 472 trường hợp UTTQ đã xếp loại
ung thư biểu mô tuyến tâm vị như là tổn thương xâm lấn từ tổn thương ở 1/3
3
trên dạ dày, chủ trương cắt bỏ toàn bộ dạ dày (320 trường hợp) kèm cắt TQ
đoạn cuối qua đường mổ bụng – ngực trái [21].
- 2000, TCYTTG công bố bảng phân loại mô học các u và tổn thương
giống u của thực quản và dạ dày [69].
- Phân loại mô bệnh học UTTQ của Viên năm 2000 [59].
- Siewert JR và cộng sự (2000) đưa ra bảng phân loại ung thư biểu
mô tuyến thực quản vựng tâm vị với 3 typ: typ I, typ II và typ III, tùy vị trí
khối u [61].
- Ở Việt Nam, chưa có thống kê đầy đủ song một số tài liệu cho biết
Nguyễn Hữu đã mổ UTTQ từ những năm 1960 [17], sau này có nhiều đề tài
về phẫu thuật điều trị UTTQ của các tác giả Đỗ Đức Vân, Phạm Đức Huấn,
Nguyễn văn Khuê, Nguyễn Hoàng Bình …[18] [19]. Ngoài ra có một vài đề

tài về chẩn đoán UTTQ trên phim CT, phân loại mô bệnh học các UTTQ sau
phẫu thuật được thực hiện trong một vài năm gần đây [14] [15].
1.1.2. Tình hình mắc bệnh ung thư thực quản trên thế giới và Việt Nam
Khác với các loại ung thư khác, dịch tễ học UTTQ được chia theo typ
mô bệnh: Nhóm UTBMV và các biến thể, nhóm UTBMT và các biến thể, nhóm
UTBM thần kinh nội tiết (UTBMTKNT) [53] [54] [57] [48]. Mỗi nhúm cú đặc
điểm về dịch tễ, sinh bệnh học, vị trí, đặc điểm lâm sàng, hình thái giải phẫu
bệnh và tiên lượng khác nhau.
1.1.2.1. Ung thư biểu mô vảy
Ung thư biểu mô vảy thực quản (UTBMVTQ) rất khác nhau về tỷ lệ mắc
bệnh và tỷ lệ tử vong, tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Chủng tộc, giới, vùng địa lý…
Ở nhiều nước phương Tây, tỷ lệ mắc bệnh chuẩn theo tuổi không quá 5/100.000
dân đối với nam và 1/100.000 dân đối với nữ. Tuy nhiên, ở một số vùng như Tây
bắc nước Pháp, Bắc Ý, tỷ lệ này lên đến 30/100.000 dân đối với nam và
4
2/100.000 dân đối với nữ [53] [54]. Ở Châu Á tỷ lệ vào khoảng 140/100.000
người dân ở vành đai ung thư thực quản gồm Trung Quốc, Nam biển Caspian,
Iran, Trung Á, Afghanistan, Sibiria, Mông Cổ [53] [28]. Ngay trong mỗi nước
do ảnh hưởng của một số yêu tố như địa lý, sắc tộc, mức sống tỷ lệ mắc bệnh
cũng rất khác nhau: Ở phía Bắc Trung Quốc có tới 70/100.000 người bị ung
thư thực quản, trong khi đó cỏc vựng khỏc của trung Quốc tỷ lệ này chỉ
khoảng 1/100.000 dân. Ở Iran sự thay đổi về tỷ lệ mắc bệnh giữa cỏc vựng từ
1-171/100.000 [56], ở Pháp tỷ lệ này cũng thay đổi từ 10-36/100.000 dân.
Thuỵ Điển 3 – 10/100.000 dân. Brasil: 13-36/100.000 dân, Nhật 6-14/100.000
dân v.v…[6]. Theo cỏc nghiờn cứu ở Bắc Mỹ và Tây Âu, bệnh thường gặp ở
người da đen nhiều hơn so với da trắng, nam nhiều hơn nữ [53]. Đây là một
bệnh có tiên lượng xấu do phần lớn bệnh được phát hiện vào giai đoạn muộn,
điều trị gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tỷ lệ tử vong cao. Ví dụ ở Mỹ năm 1993
có 11.300 người mắc thỡ cú tới 10.800 chết [56]. Ở Trung Quốc mỗi năm có
23,4/100.000 người chết vì ung thư thực quản [12]. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam

thường cao hơn ở nữ song tùy thuộc từng khu vực. Tỷ lệ nam/nữ là 1,5/1 ở
Hồ Nam (Trung Quốc) nhưng là 17/1 ở vùng Normandy (Pháp) [30] [53].
UTTQ gặp nhiều nhất từ tuổi 60 trở lên, số bệnh nhân UTTQ <35 tuổi chỉ
chiếm khoảng 7,4% tổng số bệnh nhân UTTQ trong các cộng đồng có nguy
cơ cao như ở Trung Quốc [34]. Khuynh hướng mắc ung thư cho thấy, tỷ lệ
bệnh nhân UTBMVTQ có xu hướng ổn định và giảm dần trong cộng đồng.
Chẳng hạn, người ta thấy tỷ lệ UTBMVTQ ở những người da đen đã giảm
5,8% trong khoảng thời gian 1992-2001 [34]. Lý do của việc giảm tỷ lệ mắc
bệnh được cho là có nguyên nhân từ việc giảm hút thuốc lá và tăng lượng tiêu
thụ hoa quả tươi ở những cộng đồng nghèo này [34].
5
1.1.2.2. Ung thư biểu mô tuyến
Ngược với UTBMV, ở các nước phát triển, tỷ lệ ung thư biểu mô tuyến
thực quản (UTBMTTQ) đang gia tăng nhanh chóng. Một số nghiên cứu ở Mỹ và
Châu Âu cho thấy tỷ lệ UTBMTTQ đã tăng lên gấp đôi ở thập niên 80 so với
thập niên 70, mỗi năm tăng trung bình khoảng 10% [25]. Những thập niên vừa
qua, tỷ lệ UTBMTTQ và UTBMT tại đường Z tăng hơn tất cả các loại ung
thư biểu mụ khỏc [25]. Vào giữa thập niên 90, tại Mỹ và Châu Âu, tỷ lệ
UTBMTTQ đã lên đến 4/100.000 dân, tương đương với tỷ lệ của UTBMVTQ
[60]. Tại Châu Á và Châu Phi, tuy tỷ lệ UTBMTTQ ít gặp hơn nhưng cũng
được thông báo là có xu hướng gia tăng. UTBMTTQ gặp ở nam nhiều hơn nữ
(nam/nữ: 7/1), người da trắng gặp nhiều hơn người da màu và đỉnh cao nhất ở
lứa tuổi >65 [44] [62] [63].
1.1.2.3. U nội tiết thực quản
Trong một nghiên cứu trên 8305 u carcinoid ở tất cả các vị trớ trờn cơ thể
thỡ cú 0,04% ở thực quản và chiếm 0,05% các u carcinoid đường tiêu hóa,
chiếm 0,2% các UTTQ. Tất cả các trường hợp bệnh này đều là nam giới và có
độ tuổi trung bình là 56 [51]. Trong các u carcinoid, thì typ ung thư biểu mô tế
bào nhỏ chủ yếu gặp ở độ tuổi 60-70, nam nhiều gấp đôi nữ [54].
1.1.2.4. Tại Việt Nam

Ở Việt Nam, theo báo cáo của Hội ung thư Việt Nam Bệnh Viện K Hà
Nội thì tỷ lệ mắc ung thư thực quản khoảng 2,02% [1]. Tại Hà Nội, theo điều
tra của Phạm Hoàng Anh và cộng sự, tỷ lệ mắc ung thư thực quản là
6,7/100000 dân, đứng hàng thứ 5 trong các bệnh ung thư hệ thống tiờu hoỏ.
Tỷ lệ gặp ở nam nhiều hơn so với nữ tuổi trung bình là 50 . Ngoài ra chưa có
báo cáo điều tra nào về thời gian sống thêm cũng như tỷ lệ tử vong.
6
1.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ GIẢI PHẪU SINH LÝ THỰC QUẢN
1.2.1. Giải phẫu
Thực quản là một ống dẫn thức ăn từ họng vào dạ dày, bắt đầu từ điểm
nối với hầu họng, phía trước ngang với sụn nhẫn, phía sau ngang đốt sống cổ
VI, kết thúc ở tâm vị dạ dày ngang với bờ trái của đốt sống ngực X hoặc XI.
Hướng đi xuống dưới và sang trái, dài 25-30cm, đường kính ngang 2,2cm, có
5 chỗ hẹp sinh lý tại các vị trí tương ứng với sụn nhẫn, động mạch chủ, phế
quản trái, chui qua cơ hoành và tâm vị. Trong điều kiện bình thường thực
quản đóng kín bởi cơ thắt trên và dưới. Người ta chia thực quản ra làm 4 đoạn
[4],[24]:
* Đoạn cổ: Từ thân đốt sống cổ 6 đến bờ trên đĩa ức (5-6 cm).
+ Phớa trước: Có khí quản, dây thần kinh quặt ngược cả ba được bọc
trong một bao tạng.
+ Phớa sau: Cân cổ sâu.
+ Hai bên: Thuỳ phải và trái của tuyến giáp và bó mạch thần kinh cổ.
* Đoạn ngực: Dài 16-18 cm tiếp theo đoạn trên đến ngang cơ hoành, ở đoạn này:
+ Phía trước: chỗ chia đôi của khí quản, phế quản. Phía dưới phế quản
trái thực quản áp sát vào tâm nhĩ trái.
+ Phía sau: Động mạch chủ ngực ở bên trái, tĩnh mạch đơn lớn ở bên
phải và hai túi cùng phế mạc lách vào hai bên thực quản.
+ Hai bên: Màng phổi và phổi, dây X chạy ở hai bên, xuống dưới dây
X trái chạy ra trước, dây X phải chạy ra sau.
* Đoạn hoành: Dài 1-1,5 cm tiếp theo đoạn trên.

Thực quản chui qua lỗ thực quản ở cơ hoành phía trước lỗ động mạch chủ.
Thực quản được cột chặt vào cơ hoành bởi các sợi cơ và mô liên kết.
* Đoạn bụng: Dài 2-3 cm từ lỗ cơ hoành đến lỗ tâm vị
+ Phớa trước: Có mạc nối nhỏ và mặt sau gan.
7
+ Phớa sau: áp sát trụ trái của cơ hoành và liên quan đến động
mạch chủ bụng.
+ Hai bên: Bờ trái dính vào dây chằng tam giác của gan, bờ phải
dính vào mạc nối nhỏ.
Thực quản được nuôi dưỡng bởi nhánh của động mạch hoành dưới
động mạch vành vị, động mạch giáp dưới, động mạch thực quản giữa.
Trên thực tế, người ta thường chia thực quản làm 3 phần tính từ
cung răng trên:
- 1/3 trên nằm trong khoảng từ 18-25 cm.
- 1/3 giữa nằm trong khoảng từ 26-32 cm.
- 1/3 dưới nằm trong khoảng từ 33 đến cơ thắt tâm vị.[9]
(Chú thích: Thoracic: Thuộc về ngực; Tracheal
bifurcation: Chỗ chia đôi khí quản; Esophagogastric
junction: Vùng tiếp nối dạ dày – thực quản).
Hình 1.1: Hình ảnh giải phẫu và liên quan của thực quản [34].
8
1.2.2. Cấu trúc mô học của thành thực quản
Lớp niêm mạc. Về mô học, trừ đoạn nằm trong khoang bụng, niêm mạc
thực quản thuộc loại biểu mụ lỏt tầng, tế bào vẩy không sừng hoá trong đó cú
nguyờn bào sắc tố. Lớp tế bào đáy chiếm khoảng 10-15% chiều dày niêm
mạc, cỏc nhỳ mô liên kết cao khoảng 50-60% chiều cao của lớp biểu mô [4],
[26], [67] [66].
Ở vùng tiếp nối giáp thực quản và tâm vị dạ dày, có sự chuyển tiếp đột
ngột từ biểu mụ lỏt tầng sang biểu mô trụ đơn giống của tâm vị. Những thay
đổi này nằm ngang tầm của cơ hoành cách miệng dưới của TQ chừng 1,5cm.

Đường nối tiếp không đều lồi lõm như răng cưa và được gọi là đường Z. Lớp
cơ niêm cũng khác nhau theo từng vùng, thông thường ở phần trên là cỏc bỳi
cơ riêng rẽ phân bố không đều, hơn là một lớp liên tục. Còn ở phần giữa và
lớp dưới hình thành một lớp liên tục chạy dài có sợi cơ dọc và cơ vòng.
Lớp dưới niêm mạc rộng trong đó cú cỏc tuyến nhầy và tổ chức lympho
nằm trong mô liên kết lỏng lẻo, điều này giải thích tại sao ở ung thư thực quản
lớp dưới niêm mạc phát triển sớm và nhanh. Các tuyến sắp xếp theo từng dẫy
dọc chạy song song với trục thực quản. Các tuyến thể hiện ở dạng túi, ống tiết
nhầy và hình thành các tiểu thùy. Từ 2-5 tiểu thựy thỡ đổ vào một ống dẫn
chung có lớp biểu mô trụ và chui qua lớp cơ niêm vào trong lòng TQ. Số lượng
và cách phân bố các tuyến rất khác nhau. Các tuyến tiết mucin acid có chứa cỏc
nhúm sulfat. Tổ chức lympho ở lớp dưới niêm mạc tập trung xung quanh các
ống dẫn tuyến. Bình thường không có bạch cầu đa nhõn, cú một ít tương bào và
tế bào lympho.
Lớp cơ bao gồm lớp cơ vòng và cơ dọc, ở phần trên là cơ vân và phần
giữa chuyển sang cơ trơn, 1/3 dưới cả 2 lớp là hoàn toàn cơ trơn. Lớp vỏ bọc,
phần thực quản trên cơ hoành được bao bọc bên ngoài bởi mô liên kết tạo thành
9
cân có tác dụng giữ thực quản tại chỗ và liên kết với các tổ chức lân cận, còn ở
phần dưới cơ hoành lớp vỏ và lớp thanh mạc giống như ở dạ dày.
Hình 1.2. Cấu trúc mô học thực quản vùng biểu mô tuyến.
1. Lớp chất nhầy; 2. Lớp tế bào biểu mô trụ; 3. Lớp đáy;
4. Mô đệm dưới niêm mạc; 5. Lớp cơ; 6. Thanh mạc.
[57]
Hình 1.3. Cấu trúc mô học thực quản
vùng biểu mô vảy.
1. Lớp biểu mô vảy; 2 & 3. Lớp đệm dưới
niêm mạc; 4. Mô lympho dưới niêm mạc;
5. Cơ niêm; 6. Tuyến ; 7. Cơ; 8. Thanh
mạc. [57]

1.2.3. Sinh lý thực quản
Hai chức năng chính của TQ là vận chuyển viên thức ăn từ miệng xuống
dạ dày và ngăn dòng chảy ngược của các chất chứa trong dạ dày ruột. Chức
năng vận chuyển được hoàn thành bởi các nhu động. Dòng chảy ngược được
ngăn lại bởi hai cơ thắt của TQ, vẫn đóng giữa các lần nuốt. Sự đóng mở tâm
vị cũng phụ thuộc vào 2 cơ thắt và góc Hiss.
- Cơ thắt thực quản trên: Cơ thắt trên TQ có một trương lực co cơ ổn định
trong lúc nghỉ. Bằng cách đo áp lực người ta thấy vùng này có áp lực cao
nhất. Bình thường áp lực ở đây cao hơn áp lực trong thực quản hay trong lồng
ngực 40-100mmHg. Chiều dài của vùng này từ 2-4cm, tương ứng từ cơ bám
sụn hầu đến cơ khít hầu dưới. Khi bắt đầu nuốt, cơ thắt trên giãn ra hoàn toàn
trong vòng khoảng 0,2 giây, thời gian áp lực giảm xuống bằng áp lực trong
lồng ngực hoặc trong lòng TQ khoảng 1 giây. Sự giảm áp lực khi nuốt cùng
10
với sự co bóp của hầu làm cho thức ăn dễ dàng đi qua. Cơ thắt thực quản trờn
cũn có tác dụng đề phòng trào ngược thực quản hầu bằng phản xạ co lại khi
dạ dày căng hoặc khi truyền acid vào 1/3 trên của thực quản [30].
- Nhu động thực quản: nuốt tạo ra nhu động TQ thông qua trung tâm
nuốt ở hành não. Sau đó là một loạt các co bóp từ hầu qua thân TQ rồi xuống
cơ thắt TQ dưới. Có một sự phối hợp chặt chẽ giữa vùng hạ hầu, sụn nhẫn, cơ
thắt trên và cơ vân TQ thông qua cung phản xạ của trung tâm nuốt. Động tác
nuốt kích thích dây X tạo nên một loạt các nhu động ở trong cơ trơn 2/3 dưới
TQ, cỏc súng nhu động này lan tới vận tốc 3-5cm/giõy. Nhu động tiên phát do
trung tâm nuốt, còn nhu động thứ phát do căng tại chỗ của TQ bởi thức ăn,
nước uống.
- Cơ thắt dưới thực quản: nú cú vai trò ngăn trào ngược dạ dày vào
TQ. Cơ thắt TQ dưới có tác dụng duy trì một vùng áp lực cao hơn áp lực
trong dạ dày từ 15-30mmHg, áp lực tăng lên sau bữa ăn hoặc khi có tăng áp
lực trong ổ bụng. Khi nuốt, cơ thắt dưới giãn ra khoảng 2 giây, kéo dài 3-5
giây, sự giãn ra toàn bộ cơ thắt TQ cho phép thức ăn đi qua cơ thắt một cách

dễ dàng. Trương lực co cơ phụ thuộc vào cơ chế hoạt động của cơ dọc. Chức
năng hoạt động của cơ vòng rất đặc biệt, nó có khả năng tăng trương lực khi
không có sự chi phối của đầu mút thần kinh [30].
- Góc Hiss: khi phình vị đầy, góc Hiss đóng lại và TQ tiếp tuyến với
thành trong dạ dày. Các cột của cơ hoành cũng có vai trò nhưng chỉ ở thì hít
vào, TQ lúc đó bị ép vào trong khe TQ nên trạng thái này chống được cả trào
ngược dịch vị và thức ăn.

1.3. Sinh bệnh học ung thư thực quản
1.3.1. Ung thư biểu mô vảy
11
- Rượu và thuốc lá: Ở các nước phương Tây, rượu và thuốc lá là những
yếu tố liên quan chủ yếu đến ung thư biểu mô vảy, tuy mỗi loại yếu tố cú
cỏch tác động khác nhau. Những người hút thuốc lá với số lượng không nhiều
nhưng trong một thời gian dài thỡ cú nguy cơ UTTQ cao hơn nhiều so với
nhúm khụng hút thuốc, điều này ngược lại với tác động của rượu. Những
người tiêu thụ rượu mạnh như whiskey và calvados cho thấy nguy cơ UTTQ
đang phụ thuộc vào lượng rượu mà họ tiêu thụ [34]. Nếu một người vừa hút
thuốc vừa uống rượu thì nguy cơ UTTQ tăng theo cấp số nhân. Những người
vừa hút thuốc vừa uống rượu và những chất dinh dưỡng có nguy cơ ung thư ở
nhiều vị trí trên đường tiêu hóa, trong đó có thực quản [55]. Tần suất xuất
hiện một UTBMV thứ 2 sau 10 năm vào khoảng 5-40% [37]. Nghiên cứu về
dịch tễ cho thấy dân cư vùng Bắc Ý, tây nước Pháp tiêu thụ nhiều rượu hơn
cỏc vựng khỏc và do vậy tỷ lệ UTBMV ở đây cao hơn cỏc vựng khỏc.
- Yếu tố dinh dưỡng: Thức ăn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển UTTQ. Một vài khu vực trên thế giới, thí dụ ở Trung Quốc, tỷ lệ gia tăng
UTTQ liên quan đến lượng tiêu thụ thực phẩm muối (cá muối, rau muối…).
Những người suy dinh dưỡng thời thơ ấu cũng được coi là có nguy cơ với
UTTQ. Ngược lại, việc tiêu thụ nhiều rau, hoa quả tươi là yếu tố làm giảm tỷ lệ
UTBMV [65]

- Đồ uống nóng: Đồ uống nóng cũng được coi là nguy cơ UTTQ.
Những người dân Nam Mỹ có thói quen uống nóng là nguyên nhân dẫn đÕn
viêm thực quản mạn tính và đó là nguyên nhân dẫn đến UTTQ.
- Nhiễm Human Papilloma virus: Một vài nghiên cứu đề cập đến vai trò
của nhiễm trùng trong UTTQ, trong đó có vai trò của HPV. Người ta nhận
thấy rằng tại Trung Quốc, tỷ lệ nhiễm HPV ở bệnh nhân UTTQ lên đến 20-
40% song người ta lại không tìm thấy HPV ở những bệnh nhân UTTQ
phương Tây [45].
12
- Một số nguyên nhân khác cũng được coi là yếu tố nguy cơ của UTTQ,
bao gồm: dị dạng thực quản, hội chứng Plummer- Vinson, hội chứng kém hấp
thu và xơ teo thực quản, liệu pháp xạ trị vùng cổ…
1.3.2. Ung thư biểu mô tuyến
- Dị sản ruột: Nguy cơ UTBMTTQ và đường Z liên quan mật thiết với
tình trạng dị sản ruột. Dị sản ruột được coi là một yếu tố nguy cơ và là tổn
thương tiền ung thư quan trọng nhất của phần thấp thực quản mà không kể
đến chiều dài dị sản ruột [50] [22]. Dị sản ruột của thực quản xảy ra khi niêm
mạc thực quản bị thay thế bởi niêm mạc líp biểu mô trụ trong quá trình liền
sẹo sau những tổn thương kéo dài ở TQ. Điển hình nhất là trong bệnh trào
ngược dạ dày thực quản, thực quản Barett [41]. Dị sản ruột gặp ở 80% các
bệnh nhân UTTQ đoạn thấp. Một nghiên cứu theo dõi các bệnh nhân có dị sản
ruột thực quản sau nhiều năm cho thấy: Tỷ lệ UTBMTTQ ở các bệnh nhân
này hàng năm là 1/100 [23]. Nếu đổi sang nguy cơ theo thời gian sống thì với
các bệnh nhân này, nguy cơ UTTQ là 10% những năm còn lại của cuộc đời.
Một số tác giả cho rằng, chiều dài của đoạn dị sản ruột, tổn thương loét hay
chít hẹp TQ đều làm tăng nguy cơ UTTQ song nhiều nghiên cứu khác cho
rằng không đúng như vậy.
- Viêm thực quản trào ngược: là tổn thương lặp lại liên tục và làm biến
đổi vi môi trường tại chỗ nên dẫn đÕn dị sản ruột. Một thống kê tại Thụy
Điển cho biết những người bị trào ngược thực quản có nguy cơ UTBMTTQ

cao gấp 7,7 lần những người không bị hội chứng trào ngược.
- Thuốc lá: Hỳt thuốc lá cũng được coi là yếu tố nguy cơ của
UTBMTTQ [72], [33].
- Béo phì: Béo phì cũng được coi là yếu tố nguy cơ của UTBMTTQ.
Một nghiên cứu bệnh chứng tại Thụy Điển cho thấy những người có chỉ số
khối (BMI) cao nhất thì tỷ lệ UTBMTTQ cao hơn nhóm chứng 7,6 lần.
13
Những người béo phì (BMI>30kg/m² có tỷ lệ UTBMTTQ cao hơn 16,2 lần so
với nhúm cú BMI <22kg/m²) [29].
- Vi khuẩn Helicobacter Pylori: Nhiễm HP không phải là yếu tố thúc
đẩy dị sản ruột và sự phát triển của ung thư TQ song nú cú vai trò làm thay
đổi yếu tố bảo vệ ở niêm mạc TQ.
Bảng 1.1. Bảng so sánh yếu tố nguy cơ của UTBMVTQ và TBMTTQ
YẾU TỐ UNG THƯ BIỂU
MÔ VẢY
UNG THƯ BIỂU MÔ
TUYẾN
Uống rượu Có Có thể
Hút thuốc Có Có
Nhiễm HPV Có Không
Thiếu rau quả trong chế độ ăn Có Không
Nhiều nitrat trong thức ăn Có Không
Thức uống nóng Có Không
Vết thương ăn mòn Có Không
Co thắt cơ TQ Có Không
Barrett thực quản Không Có
Béo phì Không Có
Điều trị tia Có Có
Sinh thiếu cân Không Có
1.3.3. U nội tiết thực quản

Người ta thấy rằng những bệnh nhân UTTQ typ tế bào nhỏ đều là
những người nghiện thuốc lá nặng. Cũng đó cú thông báo về trường hợp
UTTQ typ tế bào nhỏ liên quan đến tổn thương co thắt kéo dài. Một số trường
hợp có kết hợp cả UTBMTTQ với u carcinoid trên bệnh nhân bị Barrett thực
quản. Một số tác giả cho rằng bệnh Barrett TQ cũng là một yếu tố nguy cơ
của u nội tiết TQ [41].
14
1.3.4. Tiến triển của ung thư thực quản
Nhiều tác giả trên thế giới đã thống nhất rằng UTTQ là một tổn thương
thầm lặng, triệu chứng nghèo nàn, do vậy khi phát hiện, bệnh đã ở giai đoạn
muộn, do vậy thời gian sống thêm của bệnh nhân ngắn song trên thực tế, bệnh
đó cú một quá trình tiến triển rất dài trước đó.
Sơ đồ 1.1. Quá trình phát triển của UTBMVTQ, sự bộc lộ các gen sinh ung [34].
Như vậy, từ biểu mô thực quản bình thường, sau quá trình viêm TQ
mạn tính sẽ dẫn tới các tổn thương loạn sản độ thấp rồi loạn sản độ cao và
biến thành ung thư xâm nhập. Giai đoạn tổn thương loạn sản chính là giai
đoạn tiền ung thư.
1.4. Chẩn đoán ung thư thực quản
1.4.1. Lâm sàng
15
Giai đoạn đầu của ung thư thực quản có thể hoàn toàn không có triệu
chứng hoặc có nhưng không đặc hiệu như khó chịu khi ăn uống, khó chịu sau
xương ức, khó nuốt hoặc nuốt vướng từng lúc hoặc đau không rõ ràng khiến
bệnh nhân ít để ý tới. Tuy vậy nếu được phát hiện ở giai đoạn này vấn để điều
trị sẽ đơn giản và tốt hơn nhiều. Để chẩn đoán ung thư ở giai đoạn này cần
phải phối hợp với các thăm dò cận lâm sàng. Khi khối u lớn lên các triệu
chứng trở nên điển hình, vấn đề chẩn đoán tương đối dễ dàng nhưng tiên
lượng lại xấu. Các triệu chứng thường gặp là:
- Nuốt nghẹn, nuốt nghẹn tăng dần cùng với sự lớn lên của u, lúc đầu
với thức ăn đặc, sau là với chất lỏng và nặng hơn nữa thì chỉ nuốt không cũng

tạo nên cảm giác khó khăn. Triệu chứng này gặp khoảng 90% bệnh nhân ung
thư thực quản [56]. Dấu hiệu nuốt nghẹn là dấu hiệu thường gặp nhưng không
đặc hiệu vỡ nú cũn có thể gặp trong co thắt thực quản lành tính, bệnh tâm
căn…
- Gầy sút, thể trạng suy sụp cũng là dấu hiệu khá phổ biến, không đặc
hiệu nhưng cũng làm bệnh nhân lo lắng và đến viện. Toàn thân suy sụp nhanh
chóng. Người gày tọp, mắt lõm, gò má lối ra, bệnh nhân rất mệt mỏi. Giảm cân
có thể là thứ phát sau nuốt khó do thiếu hụt dinh dưỡng và vì thế xét nghiệm
Albumin máu giảm.
- Đau rát sau xương ức và lan rộng ra cả trung thất. Đau thường xuất
hiện muộn, điểm đau thường không ăn khớp với vị trí của ung thư. Nguyên
nhân của đau là do viêm thực quản, hoặc do chèn ép các dây thần kinh, hay
do khối u xâm lấn các tạng xung quanh.
16
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ tần suất các điểm đau trong ung thư thực quản [34].
- Nôn máu: hiếm gặp, khoảng 4,8% [12], nụn máu là do hoại tử, chảy máu
khối u.
- Oẹ ra thức ăn vừa nuốt: là dấu hiệu xuất hiện muộn khi đó cú ứ đọng
ở thực quản.
- Sặc khi ăn uống: Khi khối u đó gõy rũ thực quản - khí phế quản.
- Thay đổi giọng nói: Thường là nói khàn, do khối u thâm nhiễm vào
dây thần kinh quặt ngược, thường gặp khi khối u ở thực quản cổ.
- Các dấu hiệu khác: Hạch thượng đòn, gan to do di căn gan, khó thở
do chèn ép đường thở, ho máu do di căn phổi
Tóm lại triệu chứng lâm sàng không rầm rộ và đặc hiệu riêng của ung
thư thực quản và thường xuất hiện muộn ở giai đoạn bệnh đã tiến triển nặng.
Như vậy giá trị của lâm sàng trong chẩn đoán là rất ít.
17
1.4.2. Các phương pháp cận lâm sàng
1.4.2.1. Chụp thực quản có uống thuốc cản quang

Trong thời gian dài, đây là phương pháp chủ yếu để chẩn đoán ung
thư thực quản, hình ảnh X Quang thường được mô tả dưới 3 dạng sau [3].
Lòng thực quản bị hẹp lại do khối u sùi ra lồi vào lòng thực quản từ
một hoặc nhiều phía.
Có hình phễu do tổn thương ung thư thâm nhiễm cho vùng thực quản
bị cứng và chít hẹp.
Có hình khuyết không ngấm thuốc do tổn thương bị hoại tử tạo thành
các vết loột trờn bề mặt thực quản.
X quang có uống thuốc cản quang trước đây là phương pháp được sử
dụng rộng rãi, do kỹ thuật khá đơn giản, máy chụp X quang có ở nhiều cơ sở
y tế, giá thành thấp, khụng gõy khó chịu nhiều cho bệnh nhân và an toàn. Bên
cạnh giá trị về chẩn đoán nú cũn giỳp cỏc thầy thuốc xác định chính xác vị trí
tổn thương, mức độ hẹp, chiều dài của tổn thương. Tuy nhiên đây là phương
pháp chẩn đoán bệnh dựa vào biến đổi về hình thái giải phẫu và hình ảnh
ngấm thuốc do đó ở giai đoạn sớm của bệnh khi tổn thương còn nhỏ chưa gây
biến đổi về hình dạng thì chụp X quang hầu như bỏ sót, và không ít các
trường hợp khi u chưa lan rộng dễ nhầm với co thắt thực quản. Chính vì vậy
mà giá trị chẩn đoán cũng không cho phép xác định được bản chất tổn
thương.
Để tăng chất lượng chẩn đoán người ta dùng kỹ thuật chụp X quang
thực quản đối quang kộp đó đưa tỷ lệ chẩn đoán ung thư thực quản lên tới
73%[3].
18
1.4.2.2. Phương pháp nội soi thực quản
Từ khi nội soi ra đời, vấn đề chẩn đoán bệnh lý thuộc đường tiờu hoỏ
trờn đạt được những tiến bộ lớn đặc biệt là vấn đề chẩn đoán sớm. Bắt đầu là
kỹ thuật nội soi bằng ống cứng sau đó là ống soi nửa cứng và ngày nay là ống
soi mềm đó giỳp cho kỹ thuật tiến hành thuận lợi hơn, quan sát đánh giá tổn
thương dễ hơn, đưa khả năng chẩn đoán bệnh của nội soi ngày càng cao
hơn. Đặc biệt qua nội soi người ta có thể tiến hành sinh thiết, chải rửa hoặc

nhuộm mầu với những tổn thương sớm giúp cho việc đánh giá và sinh thiết
chính xác hơn.
Ung thư thực quản qua nội soi thường thấy 3 dạng tổn thương sau [5],
[46],[56].
- Tổn thương loét
- Tổn thương dạng sùi
- Tổn thương dạng thâm nhiễm cứng
- Giai đoạn sớm có thể thấy tổn thương là một vùng biến đổi màu sắc.
So với X quang nội soi có khả năng chẩn đoán sớm cao hơn. Tuy nhiên
bằng mắt thường, một số trường hợp khó phân biệt đó là tổn thương lành tính
hay ác tính. Để khắc phục tình trạng này người ta đã kết hợp nội soi và sinh
thiết làm mô bệnh học đã đưa giá trị chẩn đoán xác định lên tới 70 – 80%, và
khi kết hợp nội soi + sinh thiết + chải rửa tế bào đưa chẩn đoán chính xác lên
tới 90 – 95%,[56].
1.4.2.3. Chụp cắt lớp vi tính – CLVT ( Computer Tomography )
Là phương pháp quan trọng để đánh giá mức độ xâm lấn trung thất,
phát hiện khối u thứ hai ở thực quản, và phát hiện di căn xa nhằm xác định
giai đoạn bệnh trước mổ.
19
- Đánh giá xâm lấn thành thực quản bằng dấu hiệu thành dầy: Bình thường
thành TQ dầy khoảng 3mm, vị trí dầy nhất (sỏt tõm vị) < 5 mm. Khi thành TQ
dầy > 5 mm cần theo dõi. Có nhiều nguyên nhân gây dầy thành TQ nhưng
thường thấy nhất là do UTTQ. Các dày thành dần dần phát triển thành khối
ở giai đoạn muộn.
- Đánh giá xâm lấn các thành phần trong trung thất:
+ Theo Picus, khi u tiếp xúc với chu vi ĐMC một góc ≤ 45
0
thì không
có xâm lấn và hoàn toàn có thể cắt được. Khi u tiếp xúc một góc ≥ 90
0

thì
chắc chắn có xâm lấn và không thể cắt u, nếu tiếp xúc từ một góc từ 45
0
- 90
0
thì chưa khẳng định được [52].
+ Khi khối u lồi vào lũng khớ phế quản hoặc rò sang khí phế quản là
dấu hiệu chắn chắn có xâm lấn, khi khối u đẩy vồng mặt sau thực quản ra
trước là dấu hiệu nghi ngờ và khả năng xâm lấn là 60% [36]. Trong nghiên
cứu của Bùi Văn Lệnh (2007) thì khả năng chẩn đoán xâm lấn ĐMC trong
UTTQ có độ nhạy 98,5%, độ đặc hiệu 78,0% và độ chính xác là 88,8%, còn
đối với KPQ thỡ cú độ nhạy 98,0%, độ đặc hiệu 98,6%, độ chính xác đạt
98,4% [14].
+ Dấu hiệu xâm lấn làm mất tam giác mỡ TQ - ĐMC - CS theo tác giả
chỉ dự báo khả năng cắt bỏ UTTQ 45,4%. Xâm lấn cơ hoành, màng tim, màng
phổi, tĩnh mạch đơn rất khó xác định trên chụp cắt lớp vi tính.
Nhìn chung, khả năng đánh giá xâm lấn trung thất của CCLVT không
cao, từ 50% - 80% tuỳ theo từng nghiên cứu [14], [20], [27], [32], [38].
Xác định di căn hạch:
Các hạch được coi là di căn ung thư khi kích thước trên 1cm, có tỉ
trọng của tổ chức và tăng nhẹ sau khi tiêm thuốc cản quang. Khả năng phát
20
hiện hạch theo Bùi Văn Lệnh là khá cao với hạch cạnh thực quản chụp cắt lớp
vi tính (CLVT) có độ nhậy 48,3%, độ đặc hiệu 96,9% và độ chính xác là
73,6%. Đối với hạch vùng ngực chụp cắt lớp vi tính có độ nhạy là 88,5%, độ
đặc hiệu là 98,4%, độ chính xác đạt 93,6%. Đối với hạch vùng tầng cao ổ
bụng, chụp CLVT có độ nhậy 61,4%, độ đặc hiệu 96,3%, độ chính xác là
76,8% [8]. Tuy nhiên tỷ lệ này cũng thay đổi theo từng nghiên cứu.[20] ,[27].
Hình 1.4. Hình ảnh chụp CT cho thấy
UTTQ xâm lấn khí quản [64].

Hình 1.5. Hình ảnh chụp CT cho thấy
UTTQ xâm lấn phổi [64].
- Xác định di căn xa: CLVT có độ nhạy 100% đối với các di căn gan có
kích thước > 2cm, 75% đối với di căn có kích thước từ 1 – 2 cm và 49% với
di căn dưới 1cm.
1.4.2.4. Chụp cộng hưởng từ ( Magnetic Resonane Imaging )
Cũng như chụp CLVT, chụp cộng hưởng từ (CHT) cũng là thăm dò
cận lâm sàng cho phép đánh giá mức độ xâm lấn thành thực quản, các tổ chức
trung thất, di căn hạch, và các di căn xa khác. Ngoài ra CHT còn cho thấy
hình ảnh ở các mặt cắt thăm dò với 3 bình diện, tổn thương thành thực quản
thấy rất rừ trờn T2W. Hình ảnh UTTQ trên CHT thường là khối đồng nhất,
21
tăng tín hiệu trên T2W, đồng tín hiệu hoặc tăng nhẹ tín hiệu trên T1W va
ngấm thuốc đối quang từ. Đo có thể chụp ở nhiều bình diện khác nhau, CHT
cho phép phân biệt rất tốt về cấu trúc, liên quan giải phẫu của thực quản và
các cơ quan lân cận qua đó xác định rất tốt xâm lấn của UTTQ cũng như di
căn hạch khu vực…[35],[40],[71]. Tuy nhiên một số nghiên cứu cho thấy khả
năng đánh giá xâm lấn thành thực quản không cao hơn CCLVT. Khả năng
xác định xâm lấn hạch có kết quả tương đương siêu âm nội soi [20],[27],[32].
Vì vậy với giá thành cao như hiện nay, chụp CHT ít được áp dụng đặc biệt
khi đó cú CCLVT và siêu âm nội soi.
1.4.2.5. Siêu âm
- Siêu âm nội soi.
Với siêu âm nội soi đầu dò 7.5 MHz thành thực quản thể hiện bằng
năm lớp tăng giảm âm xen kẽ, tương ứng với các lớp giải phẫu của thực quản.
Hình ảnh siêu âm của UTTQ là khối giảm âm khu trú ở thành thực quản, tuỳ
mức độ xâm lấn của khối u vào các lớp khác nhau của thành thực quản mà
được xếp thành 4 giai đoạn tương ứng với 4 giai đoạn T trong phân loại
TNM. Hạch được coi là di căn khi cú cỏc tiêu chuẩn: khối tròn, giảm tỉ trọng,
ranh giới rõ, đường kính > 1cm. Việc áp dụng siêu âm nội soi ống nhỏ có tần

số cao 20MHz có thể phân biệt được khối u ở niêm mạc và dưới niêm mạc.
Siêu âm nội soi rất có giá trị trong đánh giá xâm lấn thành, di căn hạch
lân cận. Với xâm lấn thành TQ siêu âm nội soi đạt độ chính xác từ 85% -
90%. Tuy nhiên tỷ lệ này thay đổi tùy thuộc vào giai đoạn T, càng muộn, độ
chính xác càng cao [20], [27]. Khả năng phát hiện xâm lấn hạch vùng của siêu
âm nội soi còn thấp, chẩn đoán chính xác hạch vùng của siêu âm nội soi chỉ
đạt được từ 65% - 86% [27]. Siêu âm nội soi không thể phát hiện được các di
căn xa ở các cơ quan khác. Trường hợp khối u lấp kín lòng thực quản, hoặc
22
xơ hóa sau xạ trị gõy chớt hẹp thì siêu âm nội soi khó hoặc không đánh giá
được. Với sự kết hợp chọc hút sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm nội soi
đã làm tăng khả năng chẩn đoán của siêu âm nội soi. Thực vậy, một nghiên
cứu tiến hành trên 51 bệnh nhân, cho thấy sự kết hợp này đạt độ nhạy 98%,
độ đặc hiệu là 10% [20], [27].
Hình 1.6. Hình ảnh siêu âm nội soi UTTQ [34] giai đoạn sớm. Hình A cho thấy
khối u xâm nhập vách TQ; hình B cho thấy có xâm nhập hạch lympho.
- Siêu âm bụng: Đây là phương pháp đơn giản, rẻ tiền và có hiệu quả
cao khi phát hiện các di căn xa như di căn gan, độ nhạy có thể đạt > 90%.
- Siêu âm cổ: Phát hiện các di căn hạch cổ, hạch thượng đòn, sinh thiết
hạch cổ dưới hướng dẫn của siêu âm rất có giá trị để xác định giai đoạn bệnh.
1.4.2.6. Chụp phát xạ positron (FDG – PET, PET – Scan)
So với CCLVT, PET đánh giá xâm lấn tại chỗ, hạch vùng, di căn xa
của UTTQ tốt hơn. Nhược điểm của phương pháp là không đánh giá được sự
xâm lấn thành thực quản, khó phân biệt giữa u chính và hạch cạnh u nên áp
dụng để đánh giá tổ chức ung thư chưa cắt hết và phát hiện các tái phát sau
mổ [37].
23
1.4.2.7. Soi khí phế quản
Soi khí phế quản nhằm phát hiện xâm lấn khí phế quản của UTTQ
1/3 trên và 1/3 giữa, cần sinh thiết tổn thương để xác định, tìm vị trí ung

thư thứ hai.
1.4.2.8. Soi ổ bụng và soi lồng ngực
Soi ổ bụng và lồng ngực trước mổ nhằm đánh giá mức độ xâm lấn các
tạng lân cận, di căn xa, khả năng có thể cắt u. Nhờ vậy mà chiến thuật điều trị
có thể thay đổi, tránh được mở bụng hoặc mở ngực không cần thiết.
1.5. Chẩn đoán mô bệnh học
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh tuy đã tạo ra cuộc cách mạng
lớn trong chẩn đoán nói chung cũng như với ung thư thực quản nói riêng,
nhưng vấn có thể có những nhầm lẫn, đặc biệt là các phương pháp này không
có khả năng xác định bản chất mô học của tổn thương. Do vậy phương pháp
chẩn đoán mô học và tế bào học được coi là phương pháp có giá trị nhất và là
chuẩn vàng trong chẩn đoán xác định.
1.5.1. Các kỹ thuật lấy bệnh phẩm
+ Nội soi kết hợp chải rửa tế bào
Với kỹ thuật này có thể tiến hành hàng loạt và có khả năng phát hiện
sớm tế bào ung thư. Hạn chế: Số lượng tế bào ít, giá trị chẩn đoán thấp.
+ Nội soi sinh thiết
Dưới hướng dẫn của nội soi, dùng một kìm sinh thiết để cắt một mảnh
tổ chức của vùng tổn thương để làm giải phẫu bệnh. Phải sinh thiết ít nhất là 5
vị trí có cả ở trung tâm và vựng rỡa tổn thương.
Kỹ thuật này có ưu điểm là cho bệnh phẩm đỳng vựng tổn thương.
24
Tuy nhiên nhược điểm của nó là có thể mảnh sinh thiết lấy phải vùng
hoại tử, cục máu đông hoặc ra vùng ngoài tổn thương, chưa tới tổn thương
dẫn đến chẩn đoán âm tính giả, cho nên phải lấy nhiều mảnh ở nhiều vị trí sẽ
hạn chế được nhược điểm này. Trong những trường hợp khối u chính hẹp
nhiều sẽ khó khăn khi đưa kìm vào sinh thiết.
+ Nội soi kết hợp nhuộm màu sinh thiết
Là kỹ thuật sử dụng dung dịch màu touidine hoặc lodin để nhuộm màu
vùng tổn thương.

Ưu điểm của phương pháp này là dựa vào đặc tính ngấm màu của tổn
thương sẽ định vị trí sinh thiết một cách chính xác và như vậy kỹ thuật này rất
có giá trị cho chẩn đoán giai đoạn sớm đạt tới 90-95% [56].
Sau khi đã nhuộm màu xác định vi trớ cú ngấm màu để sinh thiết.
+ Chọc hút và sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm nội soi:
Đây là kỹ thuật có độ chính xác cao vì dưới hình ảnh siêu âm nội soi
người ta có thể hướng kim vào đúng tổn thương và còn đánh giá được kim đã
sinh thiết đúng tổn thương hay chưa.
+ Lấy bệnh phẩm từ mảnh cắt bỏ sau phẫu thuật
Thông thường lấy ở phần giữa tổn thương lấy từ mặt trong ra tới mặt
ngoài. Tất cả bệnh phẩm lấy được từ các kỹ thuật trên được cố định bằng
dung dịch formol 10%, sau đó chuyển, vùi nến, cắt, nhuộm theo phương pháp
HE (Hematoxylin Eosin).
25

×