Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

186 Đồng tiền chung Asean sự cần thiết phát triển khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.27 KB, 126 trang )

Trang : 1


CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ ĐỒNG TIỀN CHUNG
1.1 Tiền tệ
1.1.1 Bản chất :
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo
lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác; đồng thời nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất.
Bản chất này xuất phát từ việc ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của
các hình thái giá tr
ị :
• Ở hình thái giá trị giản đơn ngẫu nhiên của giá trị, giá trị của một vật được
biểu hiện bằng giá trị sử dụng của một vật khác đóng vai trò là vật ngang giá.
• Ở hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng, giá trị của một vật được biểu hiện ở
giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác có tác dụng làm vật ngang giá.
• Ở hình thái chung củ
a giá trị, giá trị của tất cả hàng hoá được biểu hiện bằng
giá trị của một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung
này được chọn tùy theo tập quán địa phương mang ý nghĩa tượng trưng như lông
thú, da thú, vòng đá, vỏ sò….
• Ở hình thái tiền tệ, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tồn tại nhiều vật
ngang giá chung gây khó khăn cho thị trường trao đổi hàng hoá. Điều này dẫn đến
sự ra đời của vật ngang giá chung bằng kim loại thay thế dần cho các vật ngang giá
chung khác, mà đáng kể nhất đó là bạc, sau đó là vàng (kim tệ)
Như vậy, tiền tệ là một sản phẩm tự phát và tất yếu. nó gắn liền vời sự tồn tại
và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Không những thế, nó còn chứa đựng và
biểu hiện nhiều mối quan hệ xã hội giữa ng
ười với người.
1.1.2 Chức năng :
Tiền tệ có 5 chức năng như sau :


a./ Chức năng thước đo giá trị : Đây là chức năng cơ bản của tiền tệ. Chức năng này
được thể hiện thông qua việc tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị cho các
hàng hoá khác và chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả hàng hoá. Để thực hiện chức
năng này, tiền tệ đòi h
ỏi phải có giá trị đầy đủ, có tiêu chuẩn giá cả, và được thể
Trang : 2


hiện trong tư duy, ý niệm. Việc giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đã
tạo mối tương quan nghịch giữa giá trị tiền tệ và giá cả hàng hoá, đồng thời cho
thấy rằng tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng để thực hiện quy luật giá trị,
quy luật phổ thông của nền sản xuất hàng hoá.
b./ Chức năng phương tiện lưu thông : Th
ể hiện ở việc tiền được dùng làm phương
tiện trung gian cho quá trình trao đổi hàng hoá (H-T-H) và phương tiện để thực hiện
giá trị của hàng hoá. Điều này thể hiện ở việc hàng hoá sẽ không được phép trao đổi
trực tiếp (H-H), mà trước tiên, giá trị của hàng hoá được biểu hiện thành giá trị tiền
tệ thông qua việc bán hàng hoá (H-T) ; rồi sau đó, hàng hoá đựợc mua lại với giá trị
tương đương với giá trị tiền t
ệ (T-H).
Như vậy, tiền tệ không phải là mục đích của trao đổi, mà chỉ đóng vai trò
trung gian. Tuy nhiên, để tạo một sự lưu thông hàng hoá được mạch lạc, cần thiết
phải có một khối lượng tiền thật sự và tiền này cũng không nhất thiết phải là tiền có
đầy đủ giá trị như vàng, nó được thay thế bằng các loại tiền ký hiệu.
c./ Chức năng phương tiệ
n cất trữ : Chức năng này được thể hiện ở việc tiền được
đưa ra khỏi quá trình lưu thông nhằm mục đích cất trữ và sử dụng sau này.
Xuất phát từ khả năng có thể trực tiếp chuyển hoá thành bất kỳ một loại hàng
hoá nào, tiền cất trữ phải có đầy đủ giá trị và tạm thời không phục vụ cho quá trình
lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sử

dụng tiền ký hiệu cho việc
cất trữ, các loại tiền này được đảm bảo bằng vàng của quốc gia sản xuất tiền giấy ký
hiệu đó.
d./ Chức năng phương tiện thanh toán: Chức năng này đựợc thể hiện ở việc tiền
đựơc dùng làm phương tiện để thanh toán các khoản nợ phát sinh trong trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Khi thực hiện chức năng này, tiền v
ận động
tương đối độc lập so với hàng hoá, dịch vụ thậm chí giữa chúng với nhau cũng có
một sự tách rời nhau cả về không gian và thời gian. Do đó, tiền ở đây có thể là tiền
vàng, hoặc tiền ký hiệu, hay tiền ghi sổ. Mặc dù vậy, tiền vẫn không nằm ngoài quá
trình lưu thông, mà còn có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá ;
từ đó, giúp cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Trang : 3


e./ Chức năng tiền tệ thế giới: Chức năng này thể hiện ở việc tiền thực hiện các chức
năng trong phạm vi thế giới. Điều này đòi hỏi tiền phải được chấp nhận của các
quốc gia trên thế giới. Do đó, tiền đầy đủ giá trị mới thực hiện được chức năng này.
Tuy nhiên, hiện nay, tiền ký hiệu của mộ
t số nước cũng đựơc áp dụng hoặc
chấp nhận rộng rãi ở nhiều nước. Do đó, cũng có quan điểm cho rằng các loại tiền
này cũng có chức năng tiền tệ thế giới.
Tóm lại 5 chức năng trên của tiền tệ không đơn lẻ mà chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Trước tiên, tiền tệ thực chiện chức năng chuyển giá trị hàng hoá
thành giá cả. Khi đó, hàng hoá chính thức bước vào lưu thông. Khi giá cả được thực
hiện thì hàng hoá đã chuyển thành tiền, số tiền này có thể được cất trữ cho việc sử
dụng trong tương lai hoặc dùng để thanh toán cho việc mua hàng hoá khác phục vụ
cho nhu cầu sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng. Khi quá trình trao đổi hàng hoá vượt
ra ngoài biên giới của một quốc gia thì cũng là lúc tiền tệ thực hiện chức năng phạm
vi thế giớ

i.
1.1.3 Vai trò của tiền tệ :
• Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển kinh tế hàng
hoá. Thông qua chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thông và phương tiện
thanh toán, việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi và thống nhất hơn. Nó góp phần
giúp đỡ người sản xuất kinh doanh hạch toán được rõ ràng chi phí và hiệu quả sản
xuất mà họ thực hi
ện; đồng thời tiến hành tích lũy tiền tệ để mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh.
• Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Xuất
phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường quốc nội đã dần mở cửa hướng
ra thị trường thế giới lớn hơn thông qua con đường ngoạ
i thương. Nhờ ngoại
thương, mà các chức năng thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới của tiền tệ đã
phát huy triệt để vai trò của mình. Từ đó, mối quan hệ giữa các quốc gia không chỉ
đơn thuần về mặt kinh tế mà còn lan sang các lĩnh vực khác như chính trị, văn
hoá….
Trang : 4


• Tiền tệ là công cụ để phục vụ cho mục đích của chủ sỡ hữu. Khi mà các quan
hệ kinh tế – xã hội đều bị tiền tệ hoá thì cũng là lúc tiền tệ trở thành công cụ để xử
lý và giải quyết mọi mối quan hệ phát sinh cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Chính vì vậy, người chủ sỡ hữu tiền tệ có thể sử dụng nó để thoả
mãn mọi nhu cầu
của mình. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá, thì chừng đó dòng tiền sẽ
còn phát huy mạnh mẽ sức mạnh vạn năng của nó.
1.2 Liên minh tiền tệ :
Nền tảng cho việc hình thành đồng tiền chung ở Châu Âu có thể tính bằng
việc ra đời của các liên minh tiền tệ: Liên minh tiền tệ Latinh, Liên minh tiền tệ

Đức, Bản vị vàng . . . vào khoảng đầu thế kỷ 19. Cuộc khủ
ng hoảng kinh tế thế giới
vào những năm 30 của thế kỷ 19 thúc đẩy các nước Châu Âu hình thành ý tưởng
đồng tiền chung nhằm ổn định nền kinh tế chung của toàn khối. Tuy nhiên cho đến
năm 1950 thì liên minh tiền tệ vẫn chưa được đề cập tới trong các chương trình nghị
sự. Trong khi đó hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods đang tồn tại và gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế chung, bi
ểu hiện của nó là Pháp và Đức đã lần lượt phá giá
đồng tiền của mình (đồng Franc và đồng Mác) trong năm 1969, điều này đe dọa đến
sự ổn định của các đồng tiền khác trong khối đến nỗi Thủ tướng Đức lúc đó Ông
W.Brandt đã đề nghị phải khôi phục lại các kế hoạch về Liên minh tiền tệ Châu Âu.
Năm 1970, kế hoạch thành lập một đồng tiền chung Châu Âu do Th
ủ tướng
Luýchxămbua lúc đó, Ông Werner đưa ra, trong đó báo cáo này lần đầu tiên sử
dụng thuật ngữ Liên minh tiền tệ (EMU – Economic and Monetary Union), kế
hoạch Werner chia ra làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn I: Thành lập đơn vị tiền tệ thống nhất gọi là đơn vị tiền tệ Châu Âu
(ECU – European Currency Unit) phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ giữa các
quốc gia trong khối.
Giai đoạn II: Chuyển đồng ECU thành đồ
ng tiền chung được sử dụng song song
với các đồng tiền khác trong khối và dần trên phạm vi quốc tế.
Báo cáo Werner chưa được triển khai thì Châu Âu phải đối đầu với sự sụp đổ
của của hệ thống Bretton Woods và ngày 24-04-1972 Châu Âu thành lập “con rắn
Trang : 5


tiền tệ ” nhằm mục đích giới hạn sự dao động của các đồng tiền Châu Âu ở dưới
mức dao động quốc tế. Tuy nhiên hệ thống này hoạt động không mấy thành công,
bằng chứng là chỉ trong 2 năm 1974 - 1975 Pháp và Đức, hai nước chủ chốt trong

hệ thống, đã lần lượt rút khỏi hệ thống này đến hai lần.
Không thành công với hệ thống tỷ giá cố định, Châu Âu đ
ã tìm sự ổn định
mới cho hệ thống tiền tệ của mình, bắt đầu với việc này là ngày 07-07-1978, hiệp
ước Breme (Đức) về việc thành lập hệ thống tiền tệ Châu Âu (SME – Système
Monétaire Européenne). Năm 1979, hệ thống này bắt đầu hoạt động với cơ chế quy
định giới hạn sự biến động của tỷ giá trong biên độ dao động 2.25%, riêng đồng
peseta Tây Ban Nha và livre là 6%. Tuy nhiên, hệ thống này cũng không đáp
ứng
được yêu cầu thực tế khi Pháp và Ý liên tục phá giá đồng tiền của mình. Tháng
06/1988, Hội đồng Châu Âu ký quyết định giao cho Ông Jacques Delors, Chủ tịch
Ủy ban Châu Âu đương thời, chịu trách nhiệm chuẩn bị và đề xuất các bước đi cụ
thể về việc thành lập Liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu (EMU). Năm 1989 tại
Madrid Hội đồng Châu Âu phê chuẩn báo cáo Delor. Giai đoạn I của Liên minh tiền
tệ bắt đầu vào tháng 7/1990, báo cáo Delor cũng là nề
n tảng cho Hiệp ước
Maastricht, được ký vào năm 1992, xác định chính thức các vấn đề liên quan đến
khối đồng tiền chung duy nhất Châu Âu, cơ chế vận hành các Tổ chức thiết chế
Châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh chung, chương trình hợp tác Tư pháp và
cũng đã đưa ra những tiêu chí để gia nhập đồng tiền chung Châu Âu.
1.3 Thuyết khu vực đồng tiền tối ưu.
Lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu do các nhà kinh tế M
ỹ R.Mundell và
R.Mc.Kinnon đưa ra vào đầu thập kỷ 1960. Xuất phát từ định hướng khi đó của
cộng đồng kinh tế Châu âu (EEC) là nhằm đạt được tự do hoàn toàn trong việc lưu
chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động, tức là lưu chuyển tự do các “yếu tố
sản xuất”. Lý thuyết này đề cập những cơ sở của sự thống nhất tiên tệ Châu Âu và
gây được sự chú ý lớn :
• Định nghĩa Khu vực tiền tệ tối ưu : là lãnh thổ bao gồm những nước cùng
chung những điều kiện, khả năng thích hợp nhất để sử dụng một loại tiền thống

Trang : 6


nhất, hoặc chung những khả năng để thiết lập một đồng giá vững chắc giữa các
đồng tiền quốc gia của mình. Vài khu vực tiền tệ sẽ là “tối ưu” nếu trong lãnh thổ
đó tồn tại khả năng cơ động giữa các “yếu tố sản xuất” ( bao gồm cả sự cơ động bên
trong và bên ngoài). Ví dụ nội bộ EEC được tự do hoàn toàn việc giao lưu hàng
hoá, v
ốn và sức lao động và có sự thoả hiệp giữa các nước thành viên về các vấn đề
kinh tế, chính trị, sự phối hợp các thể chế, chính sách kinh tế.
• Khu vực tối ưu phải đảm bảo tiêu chí là : Các nước thành viên sẵn sàng chấp
nhận hy sinh tính độc lập của mình trong việc giải quyết các vấn đề về tiền tệ – tín
dụng. Khu vực tiền tệ tối ưu là khu vực trong đ
ó không một bộ phận cấu thành nào
của nó đòi quyền có đồng tiền riêng và chính sách tiền tệ độc lập.
Những điều kiện cho tồn tại của khu vực tiền tệ tối ưu là tốc độ lạm phát
giữa các nước thành viên ít nhiều phải đồng đều để có thể thực thi ngân sách, kinh
tế và tiền tệ có hiệu quả. Đồng thời, các nước này phải đạt được nh
ững mục đích
như ổn định giá cả, tỷ lệ thất nghiệp thấp và sự cân bằng trong cán cân thanh toán.
Chẳng hạn khu vực đồng tiền chung Châu Âu, quy định các nước phải có thâm hụt
ngân sách dưới 3% và nợ quốc gia phải dưới 60% tổng sản lượng quốc gia.
1.4 Đồng EURO – Mô hình đầu tiên của liên minh tiền tệ.
1.4.1 Quá trình thực hiện đồng tiền chung EURO: gồm 3 giai đoạn :
Giai đ
oạn 1 (tư ̀năm 1990 đến 1993) : Thống nhất chính sách tiền tệ quốc
gia, rút ngắn sự cách biệt giữa các nền kinh tế của các nước thành viên. Thực hiện
tự do hoá lưu thông vốn thanh toán qua việc hoàn thành thị trường thống nhất vào
ngày 1/1/1993. Các ngân hàng trung ương các nước thành viên thông qua Ủy ban
thống đốc của mình phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ để giữ ổn định tỷ giá cố

định giữa các đồ
ng tiền trong hệ thống tiền tệ Châu Âu.
Giai đoạn 2: (1994 – 1999) : cùng với sự ra đời của viện tiền tệ Châu Âu
(EURO pean monetary Instituse – EMI), EMI không có trách nhiệm thực hiện chính
sách tiền tệ cũng như can thiệp hối đoái trong toàn liên minh, hai nhiệm vụ chủ yếu
của EMI là :
Trang : 7


1./ Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng trung ương quốc gia trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ.
2./ Chuẩn bị cho việc hình thành hệ thống ngân hàng trung ương Châu Âu và liên
minh kinh tế – tiền tệ Châu âu.
Tháng 12/1995, hội đồng Châu Âu nhất trí đơn vị tiền tệ chung của liên minh
là đồng EURO. Tháng 12/1996, EMI hoàn thành dự thảo các yếu tố nên tảng cho cơ
chế tỷ giá mới và được thông báo vào tháng 6/1997. Chi tiết mệnh giá của đồng
EURO
đã được thông qua.
5/1998, 11nước thành viên đủ tiêu chuẩn được lựa chọn tham gia khu vực
đồng EURO đợt đầu. Tỷ giá chuyển đổi song phương giữa các đồng tiền quốc gia
thành viên được ấn định căn cứ vào cơ chế tỷ giá của EMI. Đồ̀ng thời, Chủ tịch,
Phó chủ tịch và Ban giám đốc điều hành của ngân hàng Trung ương Châu Âu
(ECB) đã được chỉ định.
Tháng 6/1998 , ECB thành lập và cùng các ngân hàng khác hình thành hệ
thố́
ng ngân hàng trung ương Châu Âu (ESCB). Đến lúc này, EMI đã hoàn thành
nhiệm vụ và ngừng hoạt động. Tháng 6/1998 đến 12/1998 là giai đoạn kiểm tra cuối
cùng các hệ thống và thủ tục cho việc xuất hiện đồng EURO.
Giai đoạn 3 (từ ngày 1/1/1999): EMU bắt đầu hoạt động với một chính sách
tiền tệ thống nhất toàn khu vực. Tuy vậy, giai đoạn này có thể chia thành 3 bước

chính :
Bước 1 : Bước chuẩn bị , ngày 2/5/1998 và kết thúc 1/1/1999. Hội nghị
thượng đỉnh đặc biệt của EU tại Brussels (Bỉ). Các nhà lãnh đạo Châu Âu sẽ quyết
định nước nào trong số 15 nước thành viên sẽ tham gia liên minh tiền tệ.
Ngay khi hội đồng Châu âu chính thức công bố danh sách những nước đủ
điều kiện tham gia đồng tiền chung, tỷ giá hối đoái song phương cố định vĩnh viễn
giữa đồng tiền các nước thành viên cũng được công bố. Đây là bước đi táo bạo góp
phầ
n tạo nên ổn định, tránh đồng EURO khỏi những đầu cơ ngay từ những ngày
đầu tiên phát hành.
Trang : 8


Hội nghị công bố quyết định thành lập ngân hàng Trung ương Châu âu
(ECB). Giống như cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED), ECB chịu trách nhiệm vận hành
chính sách tiền tệ chung trong toàn bộ khu vực đồng EURO. Bắt đầu từ 1/1/1999
ECB có vai trò cung cấp chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm
soát chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm soát chính sách tiền
tệ thống nhất của cộ
ng đồng. ECB hoàn toàn độc lập với các nhà nước thành viên
và ủy ban Châu Âu trong việc hoạch định , tổ chức và điều hành chính sách tiền tệ.
Bước hai, diễn ra trong 3 năm 1999, 2000 và 2001 : Thời kỳ chuyển đổi hoặc
thời kỳ quá độ. Bắt đầu bằng việc giới thiệu đồng EURO là đồng tiền của 11 nước
thành viên. Tuy nhiên trong khoảng thời gian 3 năm này, EURO chỉ tồn tại như
đồng tiền ghi sổ, nghĩa là ch
ưa lưu hành tiền giấy và tiền xu EURO trên thực tế.
Đồng EURO có thể được sử dụng trong mọi hoạt động từ séc cá nhân, bảng cân đối
tài sản của doanh nghiệp các hệ thống kế toán cho đến các hoá đơn có giá trị hàng
triệu USD, các bảng báo cáo tài chính của các công ty xuyên quốc gia.
Liên minh áp dụng chính sách “ không bắt buộc, không ngăn cấm” sử dụng

EURO trong giao dịch. Tuy nhiên, tầm quan trọng của đồng tiền ghi sổ này không
phải là thấp vì giao dịch thanh toán b
ằng tiền mặt chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
các hoạt động kinh doanh. Bằng chứng là tổng giá trị tiền mặt lưu thông ở Châu Âu
chỉ chiếm tỷ lệ chưa đầy 6% GDP của khu vực này.
Đến đầu năm 1999 tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia và đồ̀ng
EURO mới được xác định. Các tỷ giá này đựơc tính toán dựa trên cơ sở so sánh giá
trị giao dịch củ
a đồng tiền trong liên minh kinh tế tiền tệ với đồng USD vào ngày
giao dịch cuối cùng của năm 1998 và được cố định kể từ ngày đó trở đi.
Chuyển giao quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ của các nước cho ECB,
chịu sự chỉ đạo của ECB. Tất cả trái phiếu của chính phủ những nước tham gia
đồng EURO đều phải phát hành bằng đồng EURO. Các thị trường tiền tệ, thị
trường
ngoại hối, hệ thống thanh toán bù trừ chuyển sang sử dụng đồng EURO.
Bước 3 : Tiến hành đổi tiền thực sự bằng tiền giấy và tiền xu được phát hành
vào lưu thông sau năm 2002. Đồng tiền này đơn vị là Cent các loại sau :
Trang : 9


Tiền xu : 1, 2, 5,10, 20, 50 cent và loại 1, 2 EURO.
Tiền giấy : 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 EURO.
Ước tính có khoảng 13 tỷ tiền giấy đã đựơc phát hành vào năm 2002. Vào
tháng 6/2002 các đồng tiền quốc gia thành viên cuối cùng đã loại bỏ khỏi lưu thông
nhường chỗ cho đồng EURO.
1.4.2 Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung.
Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung được tiến hành theo thoả thuận
của hiệp ước Maastricht, nó đặt ra cho các nước muốn tham gia đồng EURO là :
Thứ
nhất, lạm phát phải ở cùng một mức trung bình dưới 2,72%, lạm phát

ngắn hạn không vượt quá 1,5% so với mức lạm phát bình quân của 3 nước thành
viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất.
Thứ hai, tỷ lệ lãi suất tiết kiệm của các nước thành viên không được khác
nhau quá nhiều. Tỷ lệ lãi suất dài hạn và trung hạn không vượt quá 2% so với mức
lãi suất bình quân của 3 nước thành viên có tỷ lệ lãi suất thấp nhất.
Th
ứ ba, các khoản thâm hụt ngân sách của chính phủ không đựơc vượt quá 3
% GDP.
Thứ tư, nợ chính phủ không được vượt quá 60% GDP.
Thứ năm, phải duy trì một tỷ giá trao đổi ổn định nằm trong khuôn khổ cho
phép của cơ chế tỷ giá hối đoái (ERM) ít nhất là 2 năm.
Khi hiệp ước Maastricht đã được ký kết, chỉ có một vài nước đủ điều kiện và
tiêu chuẩn để tham gia đồng EURO. Theo thống kê củ
a ECB năm 1995 thì thâm hụt
ngân sách bình quân của EU là 4,7% GDP. Tuy nhiên các nước EU vẫn quyết tâm
xây dựng một đồng tiền chung nhờ các chính sách cải tổ cần thiết nhất để giảm
thâm hụt ngân sách của chính phủ . Italia đã phải tạo ra khoảng 12 nghìn tỷ lia “thuế
EURO” để giảm thâm hụt ngân sách. Đức đã bán vài nghìn tấn dầu trong quỹ dự trữ
chiến lựơc. Pháp đã thay đổi các quy định kế toán đối với khoản tiền 37,5 nghìn tỷ

Frc trong quỹ hưu trí của tập đoàn France Telecom và chuyển chúng vào ngân sách
của chính phủ. Tiếp đó Pháp còn tăng mức thuế. Đối với công ty lớn nhất nước,
thậm chí còn áp dụng cả với lợi nhuận thu được từ năm trước đó. Phần Lan cắt giảm
Trang : 10


mạnh thâm hụt ngân sách Chính phủ khoảng 45 tỷ Markla từ năm 1991 đến 1996.
Tuy nhiên, Hiệp ước Maastrict cũng cho phép có mức độ linh hoạt nhất định khu
đánh giá tiêu chí hội tụ của các nước thành viên. Nó không chỉ đơn thuần dựa vào
các chỉ tiêu đạt được mà còn dựa vào triển vọng kinh tế của các nước thành viên

thông qua giải pháp đựơc sử dụng một cách tích cực và hiệu quả nhằm đạt được các
chỉ tiêu của hiệp
ước.
Cuối cùng thì những năm tháng cải tổ cũng đã kết thúc thành công. Ngày
5/12/1998, hội đồng Châu Âu đã đưa ra danh sách những nước thoả mãn 5 quy tắc
của hiệp ước. Đó là 11 trong số 15 thành viên EU sẽ tham gia đồng EURO đợt đầu
bao gồm : Đức , Pháp, Italia, Bỉ, Hà lan, Lucxămbua, Tay Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Áo , Phần Lan và Ailen. Bốn nước chưa tham gia gia đợt đầu là Anh, Thụy Điển ,
Đan Mạch và Hy Lạp. Sau đó, Hy lạp đã hội
đủ điều kiện tham gia đồng EURO, và
gọi là EURO 12.
Việc tuân thủ những thoả thuận của hiệp ước không chỉ diễn ra một lần. Các
kiến trúc sư của đồng EURO biết rằng, trách nhiệm với chính sách tài khoá chỉ có ý
nghĩa khi có được duy trì liên tục nên EU đã soạn thảo “Hiệp ước tăng trưởng và ổn
định” hiệp ước này nhằm trừng phạt những nước trong khu vực đồng EURO có
thâm h
ụt ngân sách quá mức. Nếu một nước có thâm hụt ngân sách vượt quá 3%
GDP thì nước này sẽ phải đặt cọc một khoản tiền không được hưởng lãi tại ECB
trong suốt thời gian tiến hành điều chỉnh. Số tiền phaṭ bằng 0,2% GDP năm phát
sinh thâm hụt ngân sách quá mức cộng với 0,1% số chênh lệch thâm hụt ngân sách
vi phạm. Giới hạn tối đa của khoản tiền này là 0,5% GDP. Nếu như sau hai năm
nước này cả
i thiện đựoc tình trạng thâm hụt ngân sách quá mức thì số tiền này sẽ
được ECB hoàn trả lại. Còn nếu không cải thiện được tình hình thì Ủ̉y ban Châu âu
sẽ coi đó là khoản tiền nộp phạt vĩnh viễn đóng góp cho ngân sách liên minh. Tuy
vậy, nước vi phạm sẽ được hưởng trường hợp ngoại lệ nếu như nước này đang trong
thời kỳ suy thoái.


Trang : 11



1.4.3 Ảnh hưởng của đồng EURO đối với nền kinh tế thế giới.
Khi đồng EURO ra đời, các quốc gia trên thế giới đều tin rằng đồng EURO
sẽ là đồng tiền mạnh dựa vào thực lực của nền kinh tế Châu Âu. Việc ra đời của
đồng EURO là một sự thiết lập rõ ràng thế 3 cực của nền kinh tế thế giới: Mỹ – Tây
Âu – Nhật Bản. Việc đồ
ng EURO ra đời đã chia sẻ thế độc tôn của đồng đô la Mỹ
vốn đã bá chủ trong thanh toán quốc tế từ mấy chục năm qua. Vậy đồng EURO sẽ
ảnh hưởng đến nền kinh tế tài chính của thế giới như thế nào. Sau đây là những xem
xét cụ thể.
a. Tác động đến đầu tư quốc tế.
Trên khía cạnh đầu tư quốc tế, đồng EURO ra đời
đã đem lại rất nhiều tiềm
năng thu hút vốn đầu tư, mở rộng sản xuất trong nội khối cũng như sang các khu
vực khác trên thế giới. Lý do là:
• Đồng EURO được hình thành đã tạo ra một thị trường rộng lớn ở Châu Âu
với hơn 300 triệu dân, là thị trường chiếm 19.4% tổng sản phẩm của thế giới và
18.6% thương mại quốc tế, tấ
t cả điều này sẽ là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư trong
khối cũng như ngoài khối Châu Âu.
• Khi tham gia đồng tiền chung, các quốc gia trong khối phải thực hiện những
điều kiện kiểm soát chặt chẽ về lãi suất và lạm phát, điều này giúp cho đồng tiền ổn
định, do đó hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế vốn coi Châu Âu là một nơi an toàn kể
t
ừ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á. Một mức lãi suất thấp
cũng sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư từ trong chính các nước thành viên. Hơn nữa,
việc thực hiện một đồng tiền duy nhất sẽ giúp cho việc thẩm định, đánh giá các dự
án đầu tư vào các nước thành viên trở nên dễ dàng hơn do không phải nhức đầu với
vấn đề tỷ

giá. Việc thực hiện đồng tiền chung cũng giúp cho việc quản lý trở nên
đơn giản, giảm đi các chi phí giao dịch ngoại tệ … do vậy kích thích khả năng hấp
dẫn của thị trường EU đối với các nhà đầu tư ngoài khối lẫn trong khối.
* Tác động tới các nước Châu âu nằm ngoài khu vực đồng euro.

Đối với những nước mong muốn gia nhập EMU, sẽ có sự nghiên cứu thị
trường một cách kỹ lưỡng, với phản ứng đột ngột về sự chênh lệch lãi suất gia tăng
Trang : 12


nếu những diễn biến như sự trượt dốc của chính sách ngân sách đưa một quốc gia đi
chệch hướng các tiêu chuẩn cho việc gia nhập khu vực đồng EURO. Nếu như việc
phối hợp chính sách của khu vực đồng EURO trở thành một điểm nóng trong giai
đoạn đầu của EMU thì điều đó cũng có thể tác động lên thị trường và làm thay đổi
các tỷ giá cân bằng trong ERM II.
Những n
ước không tham gia ERM II có thể tiếp tục điều hành các chính sách
tiền tệ của mình một cách linh hoạt trong việc điều tiết các cú sốc không cân xứng
giữa họ và khu vực đồng EURO, bao gồm cả tiến trình chuyển sang sử dụng đồng
EURO. Một số nước trong số này có thị trường tài chính rất quan trọng (ví dụ như
Anh, Thụy sĩ) có thể phải đối mặt với những khó khăn về mặ
t tài chính nếu không
chắc chắn về quan điểm chính sách của khu vực đồng EURO làm nảy sinh các
luồng vốn lớn ra và vào.
Nauy và Thụy Sĩ, mặc dù không phải là thành viên của EU và không đủ tiêu
chuẩn để tham gia, sẽ trực tiếp chịu tác động của liên minh tiên tệ do vị trí gần gũi
về địa lý và các liên hệ về tài chính, thương mại với khu vực sử dụng đồ̀ng EURO.
b. Tác động đến thị trường tài chính tiền t
ệ thế giới.
Khi đồng EURO ra đời, các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng đồng EURO

sẽ là một đối trọng với đồng đô la Mỹ, dự đoán này dựa trên cơ sở về tiềm lực kinh
tế, chính trị, thị trường của các nước thực hiện đồng tiền chung so với Mỹ.
BẢNG 1.1 SO SÁNH TIỀM LỰC 3 CỰC KINH TẾ THẾ GIỚI năm 1997

EU Hoa kỳ Nhật Bả
n
Dân số (triệu người) 289,4 271 125
Tốc độ tăng trưởng (%) 2,5 3,8 0,9
GDP (tỷ ECU) 5,546 6,846 3,712
Tỷ trọng trổng GDP thế giới (%) 19,4 19,6 7,7
Tỷ trọng trong thương mại quốc tế (%) 18,6 16,6 8,2
Mức tiết kiệm tuyệt đối (tỷ USD) 600 275 685
Tiết kiệm trong GDP (%) 8,7 3,8 15
Hàm lượng dùng đồng tiền trên thế giới ECU USD Yên
+ Dự trữ ng̣oại tệ (%) 25,8 56,4 7,1
+ Giao dịch ngoại hối (%) 35 41,5 12
Thương mại quốc tế (%) 31 40 5
+ Nợ của các nước ĐPT (%) 15,8 50,2 18,1
Trang : 13


+ Nợ qua phát hành trái phiếu (%) 34,5 37,2 17
Qua bảng ta thấy, Châu Âu (EU-12) với dân số hơn 320 triệu, GDP đạt 8.000
tỷ USD năm 2004 so với Mỹ dân số hơn 250 triệu, GDP đạt 10.000 tỷ USD, với
tiềm lực kinh tế như thế, trong tương lai thì chỉ có đồng EURO mới có thể sánh
ngang với đồng USD, vì sức mạnh của khu vực các nước đồng EURO đã cao hơn
so với Nhật Bản - là một cực trong nền kinh tế thế giới. Kể từ khi ra
đời và được ấn
định tỷ giá ban đầu là 1 EURO = 1.1667 USD, đồng EURO đã liên tục dao động và
tỏ ra suy yếu. Có những lúc 1 EURO chỉ đổi được 0.85 – 0.9 USD, mất giá tới 25%

so với đồng USD. Tuy nhiên, trong năm 2003, 2004 đồng EURO lại dần dần lấy lại
được ưu thế và có những lúc đã đạt đến 1 EURO = 1.2 USD. Theo Ông Yves
Thibault Silguy – Cao ủy Châu Âu về tiền tệ thì giá trị thực của đồng EURO so với
đồng USD Mỹ phụ thuộc vào lòng tin của thế gi
ới đối với Châu Âu. Đồng Euro ra
đời đã tạo ra thế “chân vạc” trong hệ thống tiền tệ thế giới đó là đồng USD Mỹ,
đồng EURO và đồng Yên Nhật Bản. Đồng EURO đạt được điều này là bởi vì : thứ
nhất, trong lĩnh vực thương mại, các nước EU chiếm 60% thương mại toàn cầu vì
thế tất yếu các nước sẽ sử dụng đồng EURO trong thanh toán; thứ hai, bản thân các
qu
ốc gia cũng muốn sử dụng đồng EURO nhằm phân tán bớt rủi ro và bớt phụ
thuộc vào đồng USD cũng như nền kinh tế Mỹ.
Đồng EURO ra đời đã làm thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại tệ của nhiều quốc
gia, điều này là hoàn toàn có thể xảy ra vì như đã đề cập ở trên, các quốc gia trên
thế giới trong nhiều thập niên qua đã gắn việc dự tr
ữ ngoại tệ của mình vào một
đồng tiền chủ yếu đó là đồng USD. Điều này khiến cho các quốc gia gặp rủi ro nếu
sự biến động của đồng USD không theo như ý mong đợi. Việc đa dạng hóa đồng
tiền dự trữ sẽ giúp cho các quốc gia giảm thiểu bớt rủi ro và tự chủ nhiều hơn trong
hoạch định ngân sách. Trên thực tế đã có nhiều quốc gia th
ực hiện việc này, chẳng
hạn như trong cuộc hội thảo quốc tế về ngân hàng tại Saint Peterburg, thống đốc
ngân hàng Trung ương Nga Sergei Ignatyev thông báo dự trữ ngoại tệ của Nga đến
tháng 06 năm 2003 đạt 64,9 tỷ USD, trong đó tỷ trọng đồng EURO trong dự trữ
ngoại tệ của Nga đã vượt con số 25%. Thứ trưởng tài chính Nga Alexe Ulyukayev
Trang : 14


cũng cho biết dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO của Nga sẽ tiếp tục tăng nhằm đảm
bảo sự đa dạng trong dự trữ ngoại tệ. Còn tại Trung Quốc, hiện nay dự trữ ngoại tệ

cũng đã có những thay đổi so với trước. Nếu như trước đây dự trữ ngoại tệ của
Trung Quốc chủ yếu bằ
ng đồng USD , thì nay cơ cấu đó là 62% bằng đồng USD,
8% đồng Yên Nhật Bản và 19% bằng đồng EURO, trong thời gian tới Trung Quốc
dự tính sẽ tăng dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO lên tới 30 % - 40% trong dự trữ
ngoại tệ của mình. Hàn Quốc, Singapore, Malaixia cũng thay đổi tỷ lệ dự trữ ngoại
tệ bằng đồng EURO.
Đồng EURO ra đời cũng là động lực thúc đẩy cho những khu vực kinh t
ế
hình thành ý tuởng thiết lập đồng tiền chung. Ý tưởng này đã xuất hiện ở nhiều nơi
từ Châu Phi đến Châu Á. Một trong những ý tưởng đó hình thành ở các nước Châu
Phi khi ngày 22-12-2001, các nhà lãnh đạo các nước tham dự Hội nghị cấp cao
ECOWAS đã quyết định lấy từ “ECO” làm tên gọi cho đồng tiền chung sẽ được sử
dụng tại 5 nước thuộc khu vực tiền tệ thứ 2 của ECOWAS là : Gambia, Ghana,
Guinea, Nigeria, Sierra Leon. Tiế
p đến bàn cãi chung quanh việc sử dụng đồng tiền
chung giữa Ú́c và NiuZilân khi viện nghiên cứu chính sách Niu Zilân đã mở một
điều tra trên 400 công ty tại Niu Zilân cho thấy đại đa số (60%) ủng hộ mạnh mẽ
việc sử dụng đồng tiền chung, chỉ có 14% phản đối. Tranh cãi quanh đồng tiền
chung của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA.
c. Tác động đến quan hệ thương mại toàn cầu
Sự xu
ất hiện của đồng Euro với tư cách là đồng tiền chung của một thực thể
kinh tế quan trọng với gần 300 triệu dân, chiếm 19,4% tổng sản phẩm của thế giới
và 18,6% thương mại quốc tế, sẽ tăng cường hội nhập và phúc lợi kinh tế của các
nứơc thành viên EU và chắc chắn sẽ đem lại những cơ hội cũng như những thử
thách mới cho các nước trên thế giới.
Trang : 15



Kết luận chương I.

Có thể nói thế giới chúng ta đang chứng kiến một xu thế khu vực hoá, toàn
cầu hoá hết sức mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính. Chính xu thế này đã góp phần
nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư quốc tế bằng cách chuyển chúng đến những
nơi hứa hẹn có nhiều lợi nhuận nhất.
Sự ra đời của đồng EURO đang được là một đối thủ cạnh tranh
đáng gờm
của đồng USD. Ảnh hưởng đến vị trí độc tôn của đồng USD trên thị trường thanh
toán quốc tế. Do đó, cũng không khó hiểu khi đồng EURO ra đời đã vấp phải nhiều
sự phản ứng từ phía Mỹ.
Từ lúc ra đời cho đến nay, đồng EURO đang biến động khá phức tạp. Lúc
đầu, nó liên tiếp giảm giá trị so với đồng USD nhưng sau đó lại vượt lên mạ
nh mẽ
và vượt qua luôn cả mức quy định ban đầu. Điều này xuất phát từ xu hướng muốn
cải thiện cán cân thương mại đang bị thâm hụt lớn của Mỹ bằng cách giảm giá đồng
USD để kích thích xuất khẩu cộng với tình hình tăng trưởng chậm chạp và kém ổn
định của các nước EU.
Nhưng dù sao, với sự ra đời của đồng EURO, bản đồ tài chính quốc tế k
ể từ
đó đang được vẽ lại, hứa hẹn sự sôi động hơn và bình đẳng hơn trong các giao dịch
tài chính trên thế giới. Trong tương lai, các đồng tiền đựơc sử dụng quốc tế và được
chấp nhận rộng rãi trong thanh toán quốc tế sẽ không còn là sự độc tôn của USD mà
ít nhất sẽ có một người đồng hành là EURO.
Trang : 16


CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG KINH TẾ TÀI CHÍNH
ASEAN
2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế của các quốc gia ASEAN.

Tình hình kinh tế năm 2003, Chiến tranh và dịch bệnh khiến cho tình hình
trở nên ảm đạm đến mức vào giữa năm nhiều chính phủ trong khu vực phải hạ thấp
dự báo mức tăng trưởng. Nhưng rồi những nổ lực mới đã cải thiện tình hình. Tốc độ
tăng trưởng khu vực Châu Á Thái Bình Dương ( bao gồm ASEAN và Đông Bắc Á)
được coi là nhanh nhất th
ế giới với 6,1 % vào năm 2003 và đạt đến 6,4% năm 2004
(số liệu cuả Ngân Hàng Thế Giới). Bên cạnh những nổ lực cải thiện môi trường du
lịch, từ tháng 10-2003, những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản hưá
hẹn khả năng tăng cường xuất khẩu cuả nền kinh tế ASEAN, nhờ đó tốc độ tăng
trưở
ng kinh tế có thể thay đổi nhiều . Các chỉ số kinh tế cơ bản đã nêu phản ánh tình
hình kinh tế vĩ mô khá lành mạnh cuả nền kinh tế khu vực.
Tuy nhiên, Các thành viên ASEAN vẫn tiếp tục thực hiện tích cực tiến trình
hợp nhất khu vực , coi đó là việc cấp thiết trước những thách thức toàn cầu hiện
nay. Mục tiêu mới bây giờ là tiến tới 2010 xoá bỏ thuế nhập khẩu giữa các thành
viên cũ
và tới năm 2015 đối với các thành viên mới bao gồm Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt nam. Thương mại giữa các thành viên ASEAN đã tăng từ 44 tỷ
USD năm 1993 lên 87 tỷ USD năm 2001 nhờ giảm thuế theo AFTA. Với những
mục tiêu đặt ra như thế, các nước thành viên đang xúc tiến thúc đẩy nhanh quá trình
kinh tế, thông qua hàng loạt chính sách kinh tế khu vực như khu vực đầu tư ASEAN
(AIA), hợp tác công nghiệp (AICO)…. tạo thuận lợi thu hút đầu tư FDI từ cả các
n
ước ASEAN lẫn ngoài ASEAN. Theo hiệp định AIA , các nước ASEAN cam kết
dành ưu đãi huệ quốc cho các nhà đầu tư ASEAN. Thời hạn rút ngắn từ 2020 thành
2010.


Trang : 17



2.2. Thực tiển phát triển khu vực trong giai đoạn hiện nay :
Hợp tác ASEAN được thực hiện ở hai phạm vi : hợp tác của từng thành viên
trong nội khối và hợp tác của ASEAN với tư cách là một khối độc lập với bên
ngoài. Trong đó, phạm vi nội khối quy mô tương đối toàn diện : ngoại giao , kinh tế,
an ninh….
2.2.1 Liên kết và tự do hoá thương mại trong khu vực ASEAN :
a. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương m
ại (AFTA)
Mặc dù tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các thành
viên ASEAN là khá lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này trong
những năm 1980 đầu những năm 1990 là rất cao và tương đối đồng đều, tạo điều
kiện cơ sở thúc đẩy cho các nước ASEAN tăng cường hợp tác kinh tế sâu rộng mà
bắt đầu là hiệp định thương mại thuế
quan (PTA) tạo cơ chế tự do hoá buôn bán
trong khu vực. Tuy nhiên, xu hướng hội nhập khu vực đòi hỏi một cơ chế hợp tác
toàn diện hơn giữa các nước ASEAN và từ đó mậu dịch tư do ASEAN (AFTA) ra
đời. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại (AFTA) ký 28/1/1992. Khu mậu
dịch tự do ASEAN được xây dựng nhằm mục đích sau :
(i)Tăng cường buôn bán nội bộ các nước trong khu vực thông qua việc dỡ b
ỏ hàng
rào; (ii) Thuế quan và phi thuế quan, giảm bớt lệ thuộc thị trường bên ngoài; (iii)
Tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đây là mục tiêu chính. (iv)
Tăng cường củng cố tiến trình hội nhập kinh tế .
Nếu xét về lộ trình hội nhập kinh tế theo chiều dọc, thì AFTA là chiếc cầu
nối để các nước thành viên ASEAN tham gia một cách đầy đủ và hiệu quả vào các
tổ
chức thương mại quốc tế, như diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC), tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nếu xét về chính sách kinh tế
đối ngoại, đối tác chủ yếu của các nước thành viên trong hiệp hội thì vẫn là hướng

vào các nước lớn, các cường quốc kinh tế trên thế giới. Do vậy , mục tiêu chủ yếu
của các thành viên không chỉ đơn thuần là AFTA, mà thông qua tổ chức này, tạ
o ra
được những lợi thế mới để tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
Trang : 18


So với EU hoặc NAFTA, thể chế AFTA còn đơn giản và lộ trình thực hiện
theo từng bước với những mốc kết thúc của các nước thành viên không đồng nhất.
AFTA tạo cho ASEAN một không gian mới, một thị trừơng thống nhất từ đó giúp
các nước thành viên tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, tạo dựng
ASEAN thành một cơ sở sản xuất, cạnh tranh hướng ra th
ị trường thế giới.
BẢNG 2.2 : TỶ LỆ ÁP DỤNG CEPT TRUNG BÌNH CÁC NƯỚC ASEAN (%)
NƯỚC 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Brunei 1,37 1,55 1,26 1,17 0,96 1,04
Indonesia 7,06 5,36 4,76 4,27 3,69 2,17
Malaysia 3,46 3,2 3,32 2,71 2,62 1,95
Philipines 7,72 7,34 5,18 4,48 4,13 3,82
Singapore 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Thailand 10,24 9,58 6,12 5,67 4,97 4,63
ASEAN – 6 5,22 4,79 3,64 3,22 2,89 2,39
Cambodia 10,39 10,39 8,89 7,94
Lao 5,00 7,54 7,07 7,08 6,72 5,86
Myanmar 2,39 4,45 4,43 4,57 4,72 4,64
Vietnam 3,95 7,11 7,25 6,75 6,92 6,43
ASEAN – 10 4,91 5,01 4,43 4,11 3,84 3,33
Nguồn : Ban thư ký ASEAN

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khởi phát từ Thái lan (7/1997) lan nhanh

nhiều nước khác và đã để lại nhiều hậu quả tới tất cả các nước ASEAN. Làm suy
giảm đà tăng trưởng kinh tế khu vực, ảnh hửơng không nhỏ đến thành tựu Kinh tế –
Trang : 19


Xã hội của nhiều nước trong hiệp hội và các hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN.
Một trong những hậu quả là kim ngạch thương mại nội khối và FDI giảm đáng kể .
Chủ trương thực hiện “ các biện pháp táo bạo“ của các nước ASEAN nhằm
đẩy mạnh việc thực hiện CEPT/AFTA xuống còn 9 năm (từ 1/93 – 1/2002) đối với
nhóm 6 nước ASEAN cũ, còn đối với các thành viên mới sẽ tối đ
a số dòng thuế có
thuế suất 0 – 5% vào 2003 ( Việt nam) 2005 (Lào và Mianma); tăng tối đa số dòng
thuế suất 0% vào 2006 đối với Việt nam, 2008 đối với Lào và Mianma. Khi đó, thuế
quan trong thương
mại
nội bộ ASEAN còn trong khoảng 0 – 5%. Đồng thời, các
nước thành viên cũng thoả thuận loại bỏ dần các hạn chế về định lựơng và hàng rào
phi thuế quan vốn đa dạng đang cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực.
b. Hiệp Định Thương Mại Tự Do Song Phương Và Liên Kết Asean (FTA)
Sau cuộc khủng hoảng 1997 một xu thế mới xuất hiện trong các nước
ASEAN đó là yêu cầ
u thiết lập hiệp định thương mại tự do (FTA). Sự phát triển
mạnh mẽ sôi động của các FTA trong những năm gần đây bắt nguồn từ hàng loạt
các nhân tố kinh tế, chính trị và chiến lược. Về những nhân tố kinh tế kỹ thuật, có
thể kể ra là:
Thứ nhất: Việc hình thành các FTA song phương bắt nguồn từ những khó
khăn và bế tắc của các vòng đàm phán đ
a phương từ Seattle, đến Doha rồi Cacncun.
Thứ hai: Những ưu thế mà FTA có được so với đàm phán đa phương được
hiện rõ trên nhiều phương diện. Tốc độ của các cuộc đàm phán đa phương thường

diễn ra chậm và dễ lâm vào bế tắc do sự tham gia của quá nhiều bên khiến cho các
nước không thoả mãn được nhu cầu mở rộng thị trường cũng như gia tăng lợi ích
củ
a mình trong các hoạt động thương mại. Trong khi đó, việc các đàm phán và ký
kết FTA song phương lại diễn ra theo chiều hướng thuận lợi nhiều hơn với các ưu
thế như dễ chọn đối tác, dễ thảo thuận và họ có thể nhìn thấy rõ lợi ích.
Thứ ba: Đối với các nước châu Á, cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998
đã đặt ra cho các nước những vấn đề phát triển mới nhằm ứng phó vớ
i những thay
đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu. Nhật bản và Hàn quốc muốn thực hiện
Trang : 20


FTA song phương nhằm thúc đẩy những cải cách trong nước, duy trì thế cạnh tranh
trong khu vực và trên thế giới. Trung quốc đẩy mạnh các FTA song phương với
ASEAN và các nước nhằm mở rộng không gian kinh tế , tìm kiếm các cơ hội cho
phát triển. Đối với các nước ASEAN, sự chênh lệch về trình độ phát triển đã buộc
các nước tương đối phát triển ký kết các FTA để bứt phá, tiến lên phía trước
Dẫn đầu là quốc gia Singapore, Thailand . Đ
iều này đã đặt áp lực hội nhập
trong nội bộ khu vực ASEAN theo hướng thúc đẩy một cuộc chạy đua thiết lập
FTA giữa các nước trong ASEAN với các nước bên ngoài. Đây được xem là động
thái mới đưa khu vực thoát khỏi tình trạng ì ạch trong nỗ lực hội nhập, nhất là hội
nhập nội bộ ASEAN.
Hiện nay, nhằm có điều kiện tiếp cận các nguồn vố
n, hàng hoá với chi phí
thấp hơn. ASEAN đang từng bước đạt được thoả thuận tự do thương mại với các
nền kinh tế quan trọng. Đây cũng chính là mục tiêu thúc đẩy mở cửa tự do các hàng
hoá sản xuất trong vùng, trong cuộc họp thường niên các bộ trưởng ASEAN, các
nước hy vọng sẽ đạt được thoả thuận tự do thương mại với Trung quốc đầu tiên vào

năm 2010, Ấn độ 2011 và Nhậ
t bản năm 2012
Đặc điểm của tiến trình liên kết được thúc đẩy mạnh bởi nhu cầu nội tại của
từng quốc gia khu vực chứ không vì yếu tố bên ngoài. Thậm chí, mục tiêu liên kết
đặt ra rõ ràng đó là ngăn chặn cuộc khủng hoảng trong tương lai. Việc tập trung đầu
tư xuất khẩu vào các thị trường lớn như Nhật và Mỹ, làm cho độ rủi ro càng cao.
Nhật bả
n đang trải qua một quá trình dài suy thoái kinh tế, khả năng tiêu thụ hàng
hoá giảm sút nghiêm trọng. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu thụ hàng hoá
và làm trầm trọng thêm việc thu ngoại tệ từ xuất khẩu.
* Vấn đề đặt ra : Việc phát triển của các FTA, các nước trong nhóm ASEAN 6
(gia nhập đầu tiên) dường như đã tìm ra lối thoát cho mình. Tuy nhiên, nó lại đẩy
các nước nhóm ASEAN 4 ( gia nhập sau) vào thế cô lập đối với quá trình phát tri
ển
chung của khu vực. Tính liên kết và hợp tác khu vực suy giảm do giữa hai nhóm
Trang : 21


nước không tìm được lợi ích chung. Do vậy FTA của các nước thành viên cần phải
đặt trong tổng thể chung lợi ích của các nước trong khu vực.
Vấn đề cần quan tâm trước mắt là ASEAN phải đẩy nhanh lộ trình AFTA,
đẩy nhanh quá trình hợp tác kinh tế khác, trong đó quan trọng nhất là khu vực dịch
vụ và đầu tư. Có như vậy khi ACFTA ra đời, các nền kinh tế trong ASEAN mới có
thể đứng vững trước sự bành trướng của nền kinh tế
khổng lồ Trung Quốc. Khi đó
ASEAN không bị “hoà tan” trong ACFTA, hàng hoá Trung Quốc không thể lấn át
thị phần của hàng hoá ASEAN ngay tại thị trường ASEAN và có thể thu hút đầu tư
nước ngoài. Việc các nước ASEAN thoả thuận rút ngắn lộ trình AFTA xuống 3
năm tức là vào năm 2007 với ASEAN-6 (6 nước tham gia ASEAN đầu tiên) và năm
2012 với ASEAN-4 (4 nước gia nhập sau) là một động thái tích cực theo hướng đó.

c. Tự do hoá thương mại, Cộng đồng kinh tế Asean - AEC :
Nh
ững chương trình hiện có của ASEAN không đủ hiệu quả để có thể đưa
ASEAN đạt mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hội nhập kinh tế. Đặc biệt, kể từ cuộc khủng
hoảng năm 1997, sự sụt giá chung đồng tiền các nước trong khu vực đã làm thay
đổi khả năng cạnh tranh thông qua hội nhập ASEAN. Sự nổi lên và tham gia của
Trung quốc vào lĩnh vực thương mại và kinh tế trong khu vực
đã khiến khả năng
cạnh tranh và sức hấp dẫn đầu tư vào ASEAN bị thu hẹp. Vào thời điểm hậu SARS
này, nền kinh tế Trung quốc vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6 –7 % trong khi tỷ lệ tăng
trưởng của ASEAN chỉ khoảng 3 –4% (Ban thư ký ASEAN, 2003). Các nhân tố
trên là lý do để các nước ASEAN cần xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN nhằm “
thúc đẩy tiến trình hội nhập ASEAN nhanh chóng hơn nữa sau l
ộ trình cắt giảm
thuế quan AFTA hoàn tất” và coi đó là “chiếc chìa khoá để thực hiện tầm nhìn
ASEAN 2020”
* Lộ trình hội nhập 11 ngành ưu tiên, Áp dụng chế độ hải quan một cửa.
Trong bước đi thứ 2 của liên minh tiền tệ, liên minh thuế quan đóng một vai
trò quan trọng, nó tạo một hành lang pháp lý về việc vận chuyển hàng hoá giữa các
quốc gia với nhau. Lộ trình hội nhập 11 ngành hàng ưu tiên bao gồm các biện pháp
Trang : 22


cụ thể, toàn diện nhằm hỗ trợ liên kết các ngành kinh tế mà ASEAN đang có ưu thế
hoặc nhiều tiềm năng phát triển như nông nghiệp, thủy sản, cao su, dệt may, điện tử,
du lịch……nhằm nâng cao cấp độ hội nhập kinh tế nội khối và nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường thế giới 11 ngành ưu tiên hội nhập bao gồm 7 ngành là hàng
hoá (dệt may, ô tô, điện tử, đồ g
ỗ, sản phẩm cao su, nông sản, thủy sản) và 4 ngành
là dịch vụ (du lịch, vận tải, hàng không, y tế). Hình thành một thị trường rộng lớn

có sức thu hút đầu tư từ bên ngoài, tạo môt thị trường tự do di chuyển về lao động,
vốn, khoa học kỹ thuật, chất xám. Giảm bớt sự phụ thuộc vào các thị trường bên
ngoài, chủ động trong việc tìm kiếm nơi tiêu thụ…... Cơ chế hả
i quan một cửa sẽ
được áp dụng thử nghiệm tại Philippines trong năm 2005 và dự kiến từ ngày
1/1/2006 sẽ áp dụng ở các nước khác thuộc ASEAN có đủ điều kiện, các nước
ASEAN không đủ điều kiện về hạ tầng và nguồn lực sẽ được lùi lại thêm một thời
gian nữa.
ASEAN cũng đã chọn ra một số nước làm điều phối cho các mặt hàng để
đẩy
mạnh nhanh hơn nữa hợp tác phát triển như Indonesia với gỗ và ô tô, Malaisia với
cao su và dệt may, Myanmar với nông sản và thủy sản, Philippin với điện tử ,
Singapore với y tế, Thái lan với vận chuyển hàng không và du lịch. Tuy nhiên, các
nhà lãnh đạo ASEAN cũng thể hiện quan điểm “ ASEAN là một hiệp hội các nhà
nước độc lập , có chủ quyền và đặc biệt là trình độ phát triển, điều kiện chính trị, xã
hộ
i khác nhau. Mục tiêu thị trừơng trong cuộc cạnh tranh ở quy mô thế giới này sẽ
không thể đạt được nếu thiếu vai trò chủ động của cộng đồng doanh nghiệp
ASEAN”.
Bên cạnh đó, Trong khuôn khổ hợp tác phát triển và hội nhập Hải quan
ASEAN, nhiều kết quả hợp tác có hiệu quả trong giai đoạn 1998 – 2004 , như áp
dụng trị giá hải quan của WTO trong ASEAN, áp dụng danh mục hàng hoá nhập
khẩu hài hoà ASEAN (AHTN), xây dựng những c
ơ sở pháp lý để thiết kế và thực
hiện Hải quan một cửa ASEAN nhằm tạo thuận lợi thương mại đầu tư trong khu
vực .
Trang : 23


d. Các hình thức hợp tác khác xem phụ lục 4

2.2.2. Kinh tế khu vực, thế giới tác động xu hướng phát triển kinh tế ASEAN
a. Tác động phát triển Châu Á –Thái Bình Dương đến sự liên kết ASEAN:
Trong báo cáo thừơng kỳ 6 tháng một lần, công bố ngày 27/4, WB cho rằng
tăng trưởng kinh tế của các nứơc Đông á, trừ Nhật bản, có thể đạt 6% năm 2005.
Trong khoảng 10 năm qua đã có một sự dịch chuyển về xuất khẩu và FDI từ
ASEAN ( không k
ể Singapore) sang Trung quốc. Trong giai đoạn 1985 –1995 FDI
bình quân đầu người hàng năm của ASEAN ( bao gồm 6 nước) là 18 USD, còn
Trung quốc là 6 –10 USD, bình quân các nước đang phát triển là 12 USD. Ngược
lại, giai đoạn 2001 – 2002, tại Trung quốc là 30 – 40 USD còn các nước đang phát
triển là 37 USD, ASEAN là 10 USD. Một trong những lý do của tình trạng này là
các nước ASEAN chịu cú sốc năm 1997 nặng nề hơn so với các nước Châu Á khác
và đã tụt lại so với tất cả các nước đang phát triển khác. Xuất khẩ
u các nước chỉ
tăng khoảng 6,5% từ năm 1998 – 2002. Giá cả đều giảm nhẹ, trong khi đó từ 1995
–2003 xuất khẩu Trung quốc đều đạt 12%. Bên cạnh đó với tỷ lệ tiêt kiệm cao,
chính trị ổn định, chi phí lao động thấp, cùng một thị trường khổng lồ, Trung quốc
có những lợi thế hơn ASEAN Mặt khác, cường quốc kinh tế hàng đầu Châu á là
Nhật bản vẫn chưa thoát khỏ
i cơn suy thoái và trì trệ kéo dài hàng chục năm nay.
Trong những năm gần đây , các chính sách vĩ mô kích thích sự phục hồi tăng trưởng
các nền kinh tế Châu á đã hỗ trợ mạnh mẽ cho quá trình phục hồi dù còn khiêm tốn
của nền kinh tế Nhật bản. Nền kinh tế Nhật bản đang phải đối diện với nhiều thách
thức, đặc biệt là do các chương trình kích thích tài chính và các khoản chi tiêu của
chính phủ hỗ tr
ợ quá trình phục hồi đã làm cho món nợ công của Nhật bản tăng lên
nhanh chóng trong vài năm qua
.
Do đó, dự báo chắc chắn về triển vọng phục hồi
kinh tế Nhật bản là không chắc chắn. Điều này ảnh hưởng lớn đến thị trường tiêu

thụ của các nước ASEAN, vốn phụ thuộc khá nhiều vào thị trường Nhật bản.
Trang : 24


Sự phát triển khác nhau của hai lực lượng chủ yếu trong khu vực trên (các
cường quốc “trẻ” nổi lên và các cường quốc “già” suy yếu) đang hình thành nên
một cục diện mới, tác động rất mạnh đến sự tồn tại lẫn triển vọng của ASEAN.
Từ những diễn biến trên vấn đề tự do hoá thương mại khu vực Đông Nam Á
trở thành một xu thế tất yếu khách quan. ASEAN cần t
ạo lập một thị trường liên kết
với dung lượng tiêu dùng của khoảng 530 triệu dân ở một khu vực có vị trí địa lý và
chính trị, kinh tế quan trọng nằm trên ngã tư nối liền châu Á với Châu đại dương
với Thái Bình Dương, Nam á với Đông Bắc Á ; có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu và công
nghiệp hoá dầu, khai khoáng, có nguồn nhân lực dồi dào với lợi th
ế về sức lao
động, có tiềm năng mở rộng hợp tác Đông á với Trung quốc, Nhật bản và Hàn
quốc. Đó là những nhân tố thuân lợi để mở rộng thị trường liên khu vực.
Thách thức cạnh tranh mới buộc ASEAN cũng phải có những biện pháp linh
hoạt và mở rộng thích ứng không chỉ tăng cường liên kết khu vực, mà còn mở rộng
hợp tác với các đối tác bên ngoài, đặc biệ
t là các đối tác đối thoại của ASEAN ở
Đông á. Hội nghị cấp cao 10 nước Đông Nam Á và 3 nước Đông Bắc á gồm Nhật
bản, Hàn quốc, Trung quốc (ASEAN +3) đã khởi động từ năm 1997. Ý tưởng hợp
tác Đông á đạt kết quả bước đầu hiện thực hoá với việc ASEAN và Trung quốc thoả
thuận lập khu vực mậu dịch tự do Trung quốc – ASEAN (CAFTA) vào năm 2010.
Hiện nay, một FTA Trung qu
ốc – ASEAN trên lý thuyết bao gồm 1,2 tỷ dân Trung
hoa và hơn 500 triệu dân Đông Nam á với một đội ngũ doanh nhân hoa kiều đông
đảo trong vùng. Tính đến 2000, ASEAN và Trung quốc có GDP gần 1,7 nghìn tỷ

USD và tổng kim ngạch ngoại thương gần 1,3 nghìn tỷ USD. Theo ban thư ký
ASEAN, khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN ra đời sẽ làm kim ngạch xuất
khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng lên 55,1% và xuất khẩu của ASEAN sang
Trung Quốc cũng tăng 48%. Điều đó sẽ làm GDP của Trung Qu
ốc cũng tăng 0,3%
và của ASEAN tăng 0,9%. Đến năm 2010 tổng kim ngạch mậu dịch của ACFTA sẽ
tăng trên 30%, cao gần bằng tổng kim nghạch mậu dịch nội bộ của EU. Về đầu tư,
Trang : 25


tổng số vốn đầu tư của ASEAN đã lên tới trên 50 tỷ USD, chiếm 6,6% đầu tư nước
ngoài mà Trung quốc thu hút được.
Cùng với Trung quốc, một điều gì đó tương tự cũng đang hiện lên ở Ấn độ,
tuy có vẻ kém phần mạnh mẽ. Quy mô kinh tế lớn, mở cửa và hội nhập quốc tế tích
cực hơn, định hướng phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin nh
ư là
hướng chủ đạo và những kết quả to lớn thu được từ nỗ lực này cho thấy triển vọng
dài hạn nổi bật của Ấn độ. Ấn độ đang can dự ngày càng sâu và tích cực vào các
quá trình kinh tế, chính trị của khu vực ; trong đó ASEAN được coi là đối tác đặc
biệt quan trọng. Với tất cả những gì đang thể hiện, Ấn độ đang trở thành một đố
i
thủ cạnh tranh mạnh đối với ASEAN, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông
tin.
b. Tác Động Từ Kinh Tế Mỹ :
Với một nền kinh tế trị giá gần 1000 tỷ USD, ASEAN là thị trường lớn thứ 4
cho hàng xuất khẩu của Mỹ, gần bằng Trung quốc, Hồng kông, Đài loan, Ma cao
gộp lại. Khu vực ASEAN cũng tiếp nhận 42 tỷ USD đầu tư của Mỹ đổi lại, M

cũng là thị trường rất quan trọng đối với Đông Nam á. Xuất khẩu Đông Nam á năm
2003 là 19.3 % so với 1995 là 13,2 %.

Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng được xem như cầu nối Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương với nguyên tắc “ buôn bán công bằng “mối quan hệ
kinh tế thương mại đã chuyển từ quan hệ đồng minh bạn bè sang quan hệ bạn bè đối
tác. Việc mở rộng ASEAN sẽ t
ạo ra một thị trường rộng lớn , làm tăng ý nghĩa quan
trọng đối với kinh tế Mỹ. Hiện nay Mỹ đã nâng quan hệ kinh tế với ASEAN lên
thành quan hệ nòng cốt trong khu vực. Nhằm mục đích thúc đẩy thương mại hai
chiều. Mỹ đã thực hiện đàm phán song phương và đa phương (khu vực), Mỹ và
ASEAN đã thiết lập nhóm tư vấn để tăng cường sự hợ
p nhất về kinh tế


×