Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và chụp cắt lớp vi tính của chấn thương tháp mũi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 80 trang )


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mũi là một bộ phận rất quan trọng của cơ thể con người. Mũi là cơ
quan đầu tiên của đường hô hấp mà không khí phải đi qua để vào phổi và là
nơi bắt đầu của quá trình làm ấm, làm ẩm và lọc sạch không khí, nó cũng là
cơ quan khứu giác (ngửi), phát âm và đặc biệt là chức năng thẩm mỹ, chức
năng này ngày càng được coi trọng trong cuộc sống hiện đại.
Nằm ở vị trí chính giữa và nhô ra của mặt, mũi là bộ phận rất dễ bị va
chạm khi có chấn thương. Xương chính mũi nằm ở dưới da và phần cố định
nằm ở vị trí cao nhất của tháp mũi, . Các khớp của xương chính mũi với cấu
trúc xung quanh khá lỏng lẻo[10]. Tỷ lệ gãy xương chính mũi đứúng thứ 3
trong các trường hợp gãy xương, sau gãy xương đòn và xương cổ tay [3113].
Chấn thương tháp mũi tuy ít nguy hiểm đến tính mạng người bệnh
nhưng xương mũi gãy nếu không xử lý kịp thời và đúng đắn sẽ liền nhanh
làm biến dạng tháp mũi, để lại di chứng nặng nề về mặt chức năng và thẩm
mỹ khó khắc phục. Chấn thương tháp mũi nhất là khi phối hợp với các chấn
thương khác (chấn thương sọ não, chấn thương hàm mặt, chấn thương mắt )
phải đặc biệt chú ý vì rất dễ bị bỏ qua [93]; [3218].
Nếu được xử trí từ đầu, phần lớn tháp mũi đều được phục hồi ngay sau
chấn thương và các biến chứng như dị dạng mất thẩm mỹ , van mũi hoạt động
không tốt và ngạt mũi có thể không xảy ra[10].
Ngày nay cùng với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa, các hoạt động của
con người ngày càng trở nên phong phú. Các loại phương tiện giao thông với
tốc độ cao ngày càng nhiều, các công trình xây dựng liên tục gia tăng làm
cho các chấn thương nói chung và chấn thương tháp mũi nói riêng ngày càng
phong phú và phức tạp.

2
Chấn thương tháp mũi không chỉ xảy ra đơn thuần mà còn phối hợp các
chấn thương khác. Do vậy việc điều trị chấn thương tháp mũi không chỉ còn


là mối quan tâm riêng của thầy thuốc TMH mà còn cần có sự phối hợp của
các chuyên khoa khác như răng hàm mặt, mắt, sọ não
Việc ưu tiên cứu sống bệnh nhân sau đó phục hồi lại chức năng thẩm
mỹ, sinh lý của mũi đảm bảo hình dáng cho khuôn mặt đồng thời tránh được
các biến chứng lâu dài sau này như: Viêm mũi xoang, ngạt mũi, rối loạn ngửi,
sập vẹo sống mũi
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của những phương
tiện chẩn đoán hình ảnh và áp dụng nhiều phương tiện điều trị hiện đại. đặc
Đặc biệt chụp CT scannerCLVT cho biết chính xác vị trí, tính chất, mức độ
của chấn thương làm cho việc điều trị chấn thương tháp mũi ngày càng tốt
hơn với mục đích tìm hiểu các hình thái lâm sàng chấn thương tháp mũi. ,
Tìm tìm hiểu hình ảnh XQ thông thường và đặc biệt chụp cắt lớp vi tính trong
chấn thương tháp mũi giúp cho chẩn đoán và điều trị. Vì vậy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và chụp cắt lớp vi
của chấn thương tháp mũi " với hai mục tiêu sau:
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, chụp cắt lớp vi tính của hình thái lâm
sàng chấn thương tháp mũi qua chụp cắt lớp vi tính và bước đầu đánh
giá kết quả điều trị tại viện TMH Trung ương từ tháng 8/2008 đến tháng
8/2009” với hai mục tiêu sau:
1. Mô tả tổn thương lâm sàng chấn thương tháp mũi.
2. Đối chiếu đặc điểm lâm sàng, nội soi và chụp cắt lớp vi tính để rút kinh
nghiệm cho chẩn đoán và đề xuất phương pháp điều trị thích hợpMô
tả tổn thương tháp mũi trên phim chụp CLVT và đối chiếu với lâm
sàng để rút ra kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị.
Formatted: Font: Not Italic
Formatted: Font: Not Italic

3





Chương 1
TỔNG QUAN
1.1 VÀI NÉT LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
1.1.1 Ở nước ngoài
Chấn thương sọ mặt nói chung và chấn thương tháp mũi nói riêng đã
được quan tâm từ lâu.
Năm 1650 (trước công nguyên) Edwin Smith mô tả biến dạng mặt lần
đầu tiên trên một trang sách bằng giấy cói [3320].
Hippocrate (460 – 377 trước công nguyên) mô tả sửa mũi kín lần đầu
tiên [3320].
Năm 1899 Lang mô tả lần đầu tiên vỡ blow – out [3517].
Chiến tranh thế giới thứ I. , Gillies (Anh), IVY, Kazaniian (Mỹ);
Ollivier, Morestin (Pháp); Ganzer Lindemann (Đức) đưa ra nhiều cách cố
định gãy xương mặt [3320].
Năm 1974 Shultz, Devillers; 1978: Covruss; 1979 Harrison, Stranc,
Robertson đưa ra nhiều cách phân loại chấn thương mũi. Chung quy đều dựa vào
mức độ, hướng của lực tấn công, tính chất và các dạng tổn thương mũi [3612].
Formatted: Line spacing: Multiple 1.6 li
Formatted: Condensed by 0.2 pt

4
Năm 2004: Kun Hwang, Sun Hye You, Sun Goo Kim đã mô tả các vết
gãy xương mũi trên 503 bệnh nhân kéo dài trong 6 năm (từ 1998 – 2004).
Năm 2004 Seung Chul Rhee, Yoo Kyung Kim đã mô tả tổn thương
vách ngăn mũi trong chấn thương tháp mũi [3819].
Thập kỷ 60 ngành phẫu thuật hàm mặt, TMH, và phẫu thuật đầu cổ
tách khỏi ngoại khoa chung và có xu hướương nghiên cứu chấn thương thời
bình.

Thập kỷ 70 TMH và phẫu thuật đầu cổ có xu hướng nghiên cứu chuyên
sâu. Thập kỷ 80 và những năm gần đây nhờ phát triển của phương tiện chẩn
đoán bằng hình ảnh CT Scanner, nội soi và phẫu thuật hiện đại đã giúp chẩn
đoán và điều trị hiệu quả hơn.
1.1.2 Ở trong nước
Từ thời kỳ chống Pháp các nhà ngoại khoa sử dụng nhiều phương pháp
điều trị chấn thương phục vụ thương binh.
Thập kỷ 60, các chuyên khoa TMH, RHM đã có nhiều công trình
nghiên cứu về chấn thương mũi.
Võ Tấn – Ngô Ngọc Liễn, Nguyễn Nguyên Hà, Trần Vân Anh nghiên
cứu các đặc điểm chấn thương mũi xoang, rút kinh nghiệm xử trí.
Phạm Khánh Hòa (1991) Nhận nhận xét về chấn thương mũi xoang gặp
tại khoa hồi sức viện TMH (1980 – 1990).
Phó Hồng Điệp: Nhận xét về nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và
điều trị qua 49 bệnh nhân gãy xương chính mũi gặp tại viện TMH Trung
ương 2005 – 2007.

5
Mai Thị Chinh (2006) nhận xét về tình hình chấn thương mũi và kết
quả điểu trị chấn thương mũi tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái.
Võ Tấn, Lương Sỹ Cần, Phạm Khánh Hòa, Lê Văn Lợi đã viết nhiều tài
liệu về chấn thương mũi, cục quân y bộ quốc phòng đã có “điều lệ xử trí vết
thương chiến tranh” đề cập đến nguyênchuyến tắc xử trí chấn thương mũi,
kiến thức giúp cho các thầy thuốc chuyên khoa xử trí cấp cứu chấn thương
mũi xoang tốt hơn.
Nguyễn Tấn Phong đã viết về phẫu thuật nội soi mũi xoang, phẫu
thuật điều trị chấn thương sọ mặt đặc biệt là cách phân loại xử trí chấn
thương tháp mũi [76].
Với việc áp dụng CT scanner từ năm 1993 ở nước ta đặc biệt trong
những năm gần đây, việc chụp CT scanner đã trở thành phổ biến gần như

thường quy, cùng với các phương tiện phẫu thuật, các cơ sở TMH đã có nhiều
tiến bộ trong chẩn đoán, xử trí chấn thương mũi ngày càng tốt hơn.
1.2 ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU - SINH LÝ MŨI
1.2.1 Cấu tạo mũiGiải phẫu mũi: Gồm có tháp mũi và hốc mũi
1.2.1.1 Tháp mũi
Nổi cao nhất trên khuôn mặt, có dạng hình tháp 3 cạnh gồm các cấu
trúc xương, sụn và phần mềêm. Cực trên tiếp xúc với xương trán gọi là gốc
mũi, liên tục với đỉnh mũi ở phía dưới qua sống mũi. Sống mũi tận cùng tại
một đầu tự do ở phía trước dưới có tên là đỉnh mũi. Phía dưới đỉnh mũi là 2 lỗ
mũi trước cách nhau bởi vách ngăn. Bên ngoài là 2 cánh mũi tạo với má 1
rãnh gọi là rãnh mũi má.

6
Tháp mũi nằm ở giữa, là phần nhô cao ở mặt nên dễ bị chấn thương,
nhất là phần xương ở trên nên có thể bị gãy, phần sụn ở phía dưới vì cấu trúc
của sụn có tính đàn hồi, thương tổn phần sụn có thể do đâm xuyên xé rách.

7
Cấu tạo giải phẫu

8

9

Hình 1.1. Giải phẫu tháp mũi [14]
Bộ khung chống đõ đỡ cho mũi ngoài được cấu tạo bằng xương, sụn và
phần mềm.
- Khung xương: 2 xương chính mũi hình chữ nhật nằm 2 bên rễ mũi và
hình thành vòm hố mũi. Ngành lên 2 xương hàm trên đi từ bờ dưới của mũi
lên đến gai mũi xương trán và các mỏ trán của xương hàm trên.

- Sụn: nâng đỡ cho phần dưới của mũi bao gồm:
 Sụn tam giác: 2 sụn cánh mũi hình móng ngựa cuốn quanh cửa mũi,
sụn này là cốt của cánh mũi. Đoạn trong 2 sụn cánh mũi hợp lại
thành tiểu trụ.
Formatted: Line spacing: Multiple 1.6 li

10
 Sụn tứ giác: là Là một bộ phận của vách ngăn, có tác dụng giữ tháp
mũi không bị bẹp.
 Ngoài ra có 2 sụn mũi bên, 2 sụn lá mía và các sụn phụ.
- Phần mềm: Cơ mũi gồm nhiều cơ bám da có tác dụng làm nở hoặc
co cửa mũi: Cơ tháp, cơ mũi ngang, cơ lá, cơ giãn cánh mũi. Da
dính vào xương lỏng lẻo nhưng dính vào sụn chặt.
1.2.1.2 Hốc mũi
 Đặc điểm: là Là một ống dẹt nằm song song với nhau ở giữa mặt
cách nhau bởi vách ngăn. Mỗi hốc mũi có hai lỗ và 4 bốn thành.
 Cấu tạo giải phẫu:
- Lỗ mũi trước: Mở vào tiền đình, lót bên trong là da, có nhiều lông
mũi, tuyến nhầy để cản bụi
- Lỗ múi mũi sau: Thông với tỵ hầu
- Thành trên hay trần ổ mũi: Là thàanh xương ngăn cách ổ mũi với
hộp sọ, cấu tạo bởi:
Xương chính mũi: Có mặt sau xù xì, nhiều rãnh cho thần kinh và mạch
máu đi qua.
Mảnh đứng xương sàng: Có nhiểu lỗ thủng để dây thần kinh khứu giác
đi qua.
Ngoài ra còn có: Gai mũi xương trán, thân xương bướm, cánh xương lá
mía, mỏm bướm, xương khẩu cái.

11

- Thành dưới hay sàn mũi: Là thành xương ngăn cách ổ mũi với ổ miệng
do mỏm khẩu cái xương hàm trên và mảnh ngang xương khẩu cái tạo nên.
- Thành trong hay vách ngăn mũi: Bao gồm 1 khung xương sụn. Sụn tứ
giác ở phía trước, mảnh đứng xương sàng ở sau trên. , Xương xương lá mía ở
phía sau dưới và sụn cánh mũi ở trước.


Hình 1.2. Giải phẫu thành trong hốc mũi [14]

12
- Thành ngoài: còn Còn gọi là thành bệnh lý có cấu trúc phức tạp và rất quan
trọng
Các xương thành ngoài gồm: Ngành lên xương hàm trên, xương lệ,
mỏm trán, xương sàng, xương khẩu cái, mỏm cánh xương bướm
Các cuốn, khe mũi:
Cuốn dưới và khe dưới: cuốn Cuốn dưới là 1 một xương độc lập mọc ra
từ ngành lên xương hàm trên, được phủ bằng 1 một lớp niêm mạc dày, bên
trong có các gốc chứa máu gọi là hồ huyết. Dưới cuốn dưới là khe dưới , có lỗ
mở của ống lệ mũi, cách lỗ mũi trước khoảng 3cm.
Cuốn giữa và khe giữa: là Là mảnh của xương sàng, phía trước gắn với
mào sàng của xương hàm trên. Đầu và thân tự do, ở phía sau đuôi của mê đạo
sàng, còn ở trước gắn vào lỗ bướm, khẩu cái.
Cuốn trên và khe trên: là Là một mảnh xương sàng nằm phía trên sau
của xương sàng, đầu và thân tự do. Đuôi gắn vào thành trước xoang bướm. ,
khe trên có lỗ thông với xoang bướm và sàng sau.

13

Hình 1.3. Giải phẫu thành ngoài hốc mũi [14]
1.2.1.3 Niêm mạc hốc mũi. – mạch máu và thần kinh

 Niêm mạc: hốc Hốc mũi được lót bởi 2 loại biểu mô là biểu mô hô
hấp và biểu mô ngửi. Biểu mô hô hấp là biểu mô trụ giả tầng có
lông chuyển với 3 loại tế bào: tế bào lông, tế bào hình đài chế tiết và
tế bào đáy. Từ cuốn giữa trở xuống là vùng hô hấp, niêm mạc màu
hồng nhạt. Vùng khứu ở trên cuốn mũi trên và 1/3 trên vách mũi
niêm mạc màu vàng, dày, chứa đựng tế bào khứu. Sợi trục của các
Formatted: Line spacing: Double

14
tế nào bào chui qua lỗ mảnh sàng và tập hợp thành thần kinh khứu
giác.
Mạch máu: ở mũi có rất nhiều mạch máu. Động mạch bướm khẩu cái, tận
cùng của động mạch hàm trong, chui vào hố mũi bằng lỗ bướm khẩu cái rồi
chia ra làm 2 ngành: Ngành trong cho vách ngăn, ngành ngoài cho vách ngoài

Hình 1.4. Mạch máu của mũi
Còn động mạch sàng trước và động mạch sàng sau đều xuất phát từ
động mạch mắt do động mạch cảnh trong mà ra tưới máu cho phần trên và
trước của mũi. Các động mạch này giao nhau tại 1 điểm gọi là điểm mạch
Kiesselback ở phần trước và dưới vách ngăn. Nên chú ý đến động mạch mũi
Formatted: Centered

15
khẩu cái đi từ lỗ khẩu cái trước lên điểm mạch kiesselback vì nó gây ra chảy
máu cam.
Các tĩnh mạch chạy kèm theo động mạch và đổ vào tĩnh mạch mắt, tĩnh
mạch mặt và tĩnh mạch chân bướm.
Hệ thống mạch máu mũi có nhiều liên hệ với hệ thông mạch máu nội
sọ, vì vậy những bệnh ở mũi thường có ảnh hưởng đến đau đầu.
Bạch huyết quản của mũi đổ về các hạch sau họng, hạch dưới hàm và

dãy hạch cảnh.
Thần kinh: sự phân bố thần kinh ở mũi rất phong phú. ở mũi có 2 loại dây
thần kinh: dây thần kinh cảm giác và dây thần kinh khứu giác
- Dây thần kinh cảm giác: các dây thần kinh cam giác của mũi đều
thuộc về dây thần kinh tam thoa, thông qua 2 nguồn chính: một là hạch bướm
khẩu cái, hai là dây thần kinh mắt. Hạch bướm khẩu cái cho các dây thần kinh
bướm khẩu cái trong, bướm khẩu cái ngoài, các dây thần kinh khẩu cái sau,
trước và giữa.
- Dây thần kinh mắt cho dây thần kinh sàng, dây này lại chia ra dây
thần kinh mũi ngoài (da gốc mũi) và dây thần kinh mũi trong (vách mũi và
đầu mũi).
- Dây thần kinh khứu giác: Dây thần kinh khứu giác bắt nguồn từ các tế
nào khứu giác Schuliz ở vết vàng của khe khứu giác. Các dây này chui qua
mảnh sàng vào não và tập trung vào hành khứu giác. Đây là trạm thứ nhất, từ
trạm này xuất phát cuống khứu đưa luồng kích thích đến tam giác tức là trạm
thứ 2 ở phía sau thùy ổ mắt. Tam giác này được nối liền với các trung tâm
khứu giác ở vỏ não (hồi hải mã, hồi thái dương, hồi hố mắt) ở thể trai bằng
Formatted: 7, Left, Space Before: 0 pt, Line
spacing: single

16
rễ trắng ngoài, rễ trắng trong, rễ xám. Nhân vỏ não của các hồi này được coi
như là trung tâm phân tích mùi vị.

1.2.2 Liên hệ của mũi với các cơ quan lân cận
 Liên hệ với xoang:
Mũi liên hệ với chặt chẽ với các xoang. Xoang là những hốc rỗng của
xương mặt và xương sọ.
Trong xương hàm có xoang hàm., Trong trong xương trán có xoang
trán, trong xương sàng có xoang sàng và trong xương bướm có xoang bướm.

Các xoang đều được lót 1 lớp niêm mạc. Niêm mạch này được cấu tạo như
niêm mạc mũi nhưng mỏng hơn, . mỗi Mỗi xoang có lỗ thông với hố mũi.
Riêng đối với xoang trán lỗ thông được thay thế bằng một cái ống hơi ngoằn
ngoèo gọi là ống mũi trán. Các xoang được sắp xếp thành hai loại nhóm tùy

17
theo vị trí của nó: . loại Nhóm xoang trước gồm có xoang hàm, trán và xoang
sàng trước. Lỗ thông của các xoang này đổ vào ngách giữa. Nhóm xoang sau
gồm có xoang sàng sau và xoang bướm đổ vào ngách trên. Tác dụng của các
xoang là làm nhẹ bớt khối xương mặt và động thời có ảnh hưởng đối với tiếng
nói do thanh quản phát ra.
 Liên hệ với tai: Mũi liên hệ với tai bằng vòi Eutachie. Lỗ vòi này
nằm ở vách ngăn bên của vòm mũi họng, ngay sau đuôi cuốn dưới.
 Liên hệ với hố mắt: Mũi liên hệ với hố mắt bằng ống mũi lệ. ống
Ống này nối liền khe dưới của mũi với túi lệ của mắt. Ngoài ra
xoang sàng chỉ cách ổ mắt bởi một lớp xương mỏng, nên viêm
xoang sàng có thể lan sang ổ mắt.
 Liên hệ với sọ: Mũi liên hệ với sọ thông qua xoang sàng, mảnh sàng và
xoang trán. Thành của các xoang này liên hệ trực tiếp với màng não.
 Mũi còn liên hệ với răng: thông Thông qua xoang hàm, đặc biệt
răng nanh và răng hàm nhỏ, chân của răng này thường lên đến sát
đáy xoang và đôi khi chui hẳn vào xoang hàm.
1.2.3 Chức năng sinh lý của mũi
1.2.3.1 Chức năng thở
Là chức năng chính của mũi. Mũi được coi là cửa ngõ của đường hô
hấp. Nhờ các cuốn mũi làm chậm luồng không khí hít vào mũi, mũi thực hiện
chức năng sưởi ấm, làm ẩm và lọc sạch không khí trước khi vào phổi.
Nhờ tổ chức cương của cuốn dưới với hệ thống mạch (do thần kinh
giao cảm điều chỉnh), nhờ các tế bào tiết nhầy làm cho không khí đi qua mũi
được sưởi ấm (lên đến 33 độ C) và làm ẩm (lên đến 100%).


18
Nhờ sự có mặt của lông mũi, sự chuyển động nhịp nhàng từ trước ra
sau của hệ thống lông chuyển, với ẩm độ cao và dịch nhầy trên bề mặt, các
bụi bẩn được giữ lại phía ngoài, không khí được làm sạch khi đi qua mũi.
1.2.3.2 Chức năng ngửi:
Được thực hiện ở phần cao của hốc mũi bởi đầu tận của dây thần kinh
khứu giác (dây 1I).
Để ngửi được trước hết luồng hơi phải đi đến được vùng ngửi, không bị
cản trở bởi dịch đọng, dị vật, sẹo dính, u, dị hình ngoài ra các chất có mùi
phải tan được trong dịch nhầy phủ lên các tế bảo thần kinh mới có thể tạo ra
được kích thích.
1.2.3.3 Dẫn lưu, thông khí cho các xoang mặt
- Chức năng dẫn lưu giúp tống những chất xuất tiết bình thường cũng
như bệnh lý qua các lỗ thông xoang ra ngoài đồng thời có sự trao đổi khí liên
tục giữa mũi và hệ thống xoang.
- Các lỗ thông với các xoang khi bị tắc do chấn thương, viêm nhiễm,
khối u, polype hay gây ra tình trạng viêm nhiễm ở các hệ thống xoang
tương ứng.
1.2.3.4 Tham gia vào phát âm
Mũi và xoang đóng vai trò là hợp hộp cộng hưởng, tạo nên độ vang và
âm sắc của giọng. Khi hốc mũi bị tắc giọng tắc sẽ bị thay đổi thành giọng mũi
kín.
1.3 ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHẤN THƯƠNG THÁP MŨI
1.3.1 Nguyên nhân
Nguyên nhân gây chấn thương tháp mũi rất đa dạng
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Indent: First line: 0.5"

19

 Tai nạn giao thông
Rất hay gặp, có thể gặp từ việc tham gia giao thông như tai nạn ô tô, xe
gắn máy, xe đạp.
Lưu ý người tham gia giao thông sử dụng rượu, bia, đặc biệt không đội
mũ bảo hiểm, không thắt dây an toàn khi điều khiển phương tiện giao thông là
những yếu tố thuận lợi cho chấn thương.
 Tai nạn lao động:
Có thể gặp ngã từ dàn giáo xuống, vận hành máy móc, do xẻ đá, tay
quay hay vật cứng đập vào mặt ở Việt Nam còn gặp tai nạn do trâu bò húc.
 Tai nạn sinh hoạt
Tai nạn do ngã cây, ném đá, ở người già đập mặt vào vật cứng, ngã cầu
thang, trượt chân.
 Tai nạn do đánh nhau
Đánh bằng tay, chân, hoặc thanh gỗ, ném gạch đá, vật nhọn (thanh sắt,
dao găm)
 Tai nạn thể thao:
Đấm bốc, va chạm khi chơi thể thao, nhẩy cầu, đá bóng, quyền anh.
 Ngoài ra còn có tể gặp chấn thương ở trẻ em mới sinh ra trong quá
trình chuyển dạ đẻ như thủ thuật lấy thai bằng forceps hay những
can thiệp thô bạo khi lấy thai.
1.3.11.3.2 Cơ chế chấn thương tháp mũi [67][10]
Xương chính mũi là một xương nhỏ ở sống mũi, nó tạo dáng cho sống
mũi có hình nhô lên thành tháp mũi.

20
Do đó các chấn thương vào mũi – còn gọi là tai nạn vỡ tháp mũi –
thường xuyên và trước tiên gây thương tích cho xương chính mũi và là
nguyên nhân của những vẹo lệch sống mũi rất đa dạng [67]
Hình thái và mức độ chấn thương gãy xương chính mũi thay đổi theo
cường độ, vị trí, tính chất và hướng của lực tác động [10].

- Nếu hướng chấn thương thẳng góc sẽ làm vỡ xương chính mũi, sống mũi
không còn thẳng nữa mà bị lõm xuống, vách ngăn cũng vỡ theo và chảy máu.


Hình 1.54. Gãy xương chính mũi với lực tác động từ trái sang phải [9]
Formatted: Centered

21
- Nếu chấn thương đập chéo góc thì tháp mũi sẽ lệch về bên đối diện,
sống mũi không bị lõm xuống nhưng bị lệch rõ ràng về một phía bên, kèm
chảy máu.
- Nếu chấn thương nhiều, mạnh thì cùng với xương chính mũi bị vỡ và
xoay nằm ngang theo bình diện trán và chặn lối vào hốc mũi.
+ Với lực ngang mạnh, xương chính mũi có thể bị gãy vụn kèm theo
chấn thương sụn và rách da. Vách ngăn mũi bị ảnh hưởng và bị xương chèn
ép, có điều kiện nắn lại tháp mũi cũng khó trở lại vị trí ban đầu.
+ Đường gãy vách ngăn mũi thường là đường dọc khi lực làm gãy đi từ
trước ra sau và đường gãy ngang khi lực đi từ phía sau. Vách ngăn mũi bị vặn
và trở thành hình chữ C, chữ S, hoặc chữ Z.

Formatted: Centered

22

Hình 1.65. Các hình thái chấn thương tháp mũi [10]
1.3.21.3.3 Các kiểu tổn thương bệnh lý tháp mũihình thái tổn thương
trong chấn thương tháp mũi [76]
Tổn thương tháp mũi thường do các vật tù gây ra cũng như các đường
vỡ khác hướng và tính chất của vật va đập vào tháp mũi có thể giúp ta xác
định loại tổn thương. Những chấn thương ở một phía của tháp mũi cắt chéo so

với sống mũi gây nên gãy xương chính mũi và đẩy lệch tháp mũi về bên đối
diện và sống mũi thường bị võng xuống. Nếu lực tác động theo chiều chính
diện với sống mũi và là vật tù thì thường làm gãy vỡ xương chính mũi và
vách ngăn. Tổn thương loại này gây nên sập sống mũi, mũi bị lún xuống.
Với một lực tác động mạnh có thể đè bẹp xương chính mũi và rẽ rễ mũi
cũng bị lún vào trong xoang sàng. Loại chấn thương này gây nên tổn thương
phức hợp sàng – mũi, có thể kèm theo chấn thương xoang trán và nền sọ
tương ứng mào sàng. Có 4 kiểu vỡ tháp mũi:

23

Hình 1.66. Các kiểu vỡ tháp mũi [6]
- Vỡ đầu dưới xương chính mũi một bên, thường do những lực tác động
cùng bên tổn thương (hình 1.6A6A).

24
- Chấn thương một bên tháp mũi với lực tác động mạnh làm xương
chính mũi và cả một phần vách ngăn gẫy lệch về bên đối diện (Hình 1.6B6B).
- Lực tác động vuông góc với sống mũi gây gãy vỡ xương chính mũi và
sụn tứ giác (Hình 1.6C6C)
- Vỡ phức hợp sàng - mũi xảy ra do lực tác động vào chính diện sống
mũi với cường độ lớn. chấn Chấn thương lan rộng vào khối sàng và vỡ thành
trong ổ mắt (Hình 1.6D6D)
1.4 . PHÂN LOẠIĐẶC ĐIỂM CHẤN THƯƠNG THÁP MŨI TRÊN CHỤP
CLVT VÀ PHÂN LOẠI [76],[117]
Chụp CT scanner là rất cần thiết để xác định những hiện tượng bệnh lý
mà ta không thể phát hiện được qua thăm khám lâm sàng. Nội soi và chụp XQ
thường, thông thường các phim chụp XQ kinh điển như Blondeau, Hirtz, sọ
nghiêng, mũi nghiêng đối với chấn thương mũi thì kém giá trị, đặc biệt là
trong những tổn thương chỉ gây gãy vỡ phần sụn cũng khó nhìn thấy trên

phim. Do vậy trong trường hợp nghi ngờ chấn thương tháp mũi có vỡ phức
hợp sàng – hàm thì tốt nhất nên chỉ định chụp CT scanner hai coupe lát cắt
coronal và axial
1.4.1 Coupe Lát cắt coronal (cắt đứng ngang)
Coupe coronal hay còn được gọi là cắt đứng ngang theo bình diện trán,
nó cho thấy các bình diện cắt theo chiều từ trước ra sau. Các Coupe coupe
coronal được coi là có giá trị nhất để phát hiện tổn thương sâu làm rạn vỡ
xương, xoang, ổ mắt, nền sọ, kèm theo hình ảnh gián tiếp chấn thương như
chảy máu trong xoang.
 Tư thế chụp cCoupe coronal (có hai tư thế)
- Tư thế nằm sấp: Bệnh nhân Nằm nằm ngửa, cằm tỳ vào vật đồ

25
- Tư thế nằm ngửa: Bệnh nhân nằm ngửa, đầu ngửa tối đa đưa ra khỏi
bàn chụp
 Tiêu chuẩn phim chụp đúng
- Các cCoupe cắt trong tư thế coronal cách nhau 3mm2mm. Ccác coupe
cắt đặt vuông góc với đường ống tai - ổ mắt. Chiều dày mỗi nhát lát cắt
4mm.
- Các coupe được đặt vuông góc với đường nối ống tai – bờ dưới ổ mắt.
- Diện cắt đi từ bờ trước xoang trán đến bờ sau xoang bướm.
- Để đánh giá các đường vỡ được chính xác người ta yêu cầu mở cửa
sổ xương để làm tăng đậm các mô xương nhằm phát hiện các đường
giãn vỡ nhỏ mà XQ thường không thấy, nhất là chấn thương nằm
sâu trong xoang và ổ mắt.


Hình 1.77. Phim CT coupe coronal

1.4.2 CoupeLát cắt A axial (cắt ngang)

 Tư thế chụp coupe axial: Bệnh nhân nằm ngửa, các coupe được đặt
song song với đường ống tai - ổ mắt.
Formatted: Portuguese (Brazil)

×