Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

279 Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng phát triển Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.43 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam được Chính phủ giao nhiệm
vụ quản lý cho vay vốn tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam không vì mục tiêu lợi nhuận
nhưng bảo đảm sử dụng vốn an toàn, hiệu quả và góp phần thúc đẩy kinh tế
đất nước. Trong những năm tới, hệ thống Ngân hàng Phát triển từng bước xây
dựng và phát triển trở thành tổ chức tài chính có uy tín trong và ngoài nước
với phương châm hoạt động là phát triển bền vững hiệu quả và hội nhập. Để
đạt được mục tiêu này, một trong những khâu quan trọng cần được quan tâm
là thẩm định tài chính dự án. Thẩm định tài chính dự án có chất lượng tốt sẽ
góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh là đơn vị trực thuộc Ngân
hàng Phát triển Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư và tín dụng
xuất khẩu của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trong những năm qua
Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh đã thực hiện thẩm định cho vay các
dự án trên địa bàn tỉnh, nhiều dự án phát huy hiệu quả góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên trong quá trình thẩm định cho vay những
năm qua cho thấy chất lượng thẩm định tài chính dự án còn thấp so với mục
tiêu, còn bộc lộ những bất cập, gây ảnh hưởng xấu đến kết quả đầu tư.
Trong thời gian tới, để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển công nghiệp,
nhu cầu cho vay theo dự án là rất lớn, nếu không nâng cao chất lượng thẩm
định tài chính dự án thì nguy cơ tổn thất của Ngân hàng sẽ không nhỏ. Nhằm
góp phần đáp ứng đòi hỏi bức súc của thực tiễn, tôi chọn đề tài “ Nâng cao
chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Chi
nhánh Ngân hàng phát triển Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
1
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định tài
chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Phát triển.
- Phân tích chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho


vay tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài
chính dự án trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc
Ninh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu chất lượng thẩm định tài chính dự
án của Ngân hàng Phát triển.
- Phạm vi nghiên cứu: chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động cho vay dài hạn của chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh, thời gian
từ năm 2003 đến năm 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong
quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích, tổng hợp và nghiên cứu tình huống.
5. Những đóng góp của Đề tài
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về chất lượng thẩm định tài chính dự án
trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Phát triển.
- Đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho
vay của Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh. Phân tích nguyên nhân
dẫn đến chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
Chi nhánh ngân hàng Phát triển Bắc Ninh còn thấp.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính
dự án trong hoạt động cho vay của Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh.
2
6. Nội dung kết cấu của đề tài gồm 3 chương
Chương1: Cơ sở lý luận về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong
hoạt động cho vay của Ngân hàng Phát triển.
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động cho vay của Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án

trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Bắc Ninh.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1.1 HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng Phát triển
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Phát triển
Các định chế tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo
nguồn lực cho sự phát triển trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, Chính phủ nhiều quốc gia trên
thế giới đã thành lập những định chế tài chính của Nhà nước nhằm tập trung
nguồn lực về vốn phục vụ cho mục tiêu phát triên kinh tế - xã hội mà bản thân
khu vực tài chính tư nhân không đáp ứng đuợc, các tổ chức này được hình
thành với các tên gọi khác nhau ở các quốc gia khác nhau nhưng tựu chung lại
là các tổ chức tài trợ phát triển (DFI).
Lịch sử phát triển kinh tế của một số nước trên thế giới và trong khu
vực Đông nam Á đã cho thấy mô hình các tổ chức tài trợ phát triển của chính
phủ rất có hiệu quả trong việc phát triển kinh tế quốc gia, ngày càng được
nhiều nước áp dụng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước lâm vào
tình trạng nền kinh tế kiệt quệ (điển hình là Nhật Bản) và họ phải bắt tay xây
dựng và khôi phục vực lại nền kinh tế trong điều kiện các nguồn lực đều hạn
chế. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra ở các quốc gia này là xây dựng cơ sở hạ tầng
tạo nền tảng cho sự phát triển công nghiệp, các ngành kinh tế mới và khuyến
khích xuất khẩu để thu ngoại tệ. Chính phủ các nước này đã thành lập được
các định chế tài chính Nhà nước nhằm thu hút và tập trung nguồn lực để đầu
tư cho các chương trình mục tiêu kinh tế trọng điểm quốc gia. Điển hình là
Nhật Bản thành lập Ngân hàng Phát triển Nhật Bản (JDB), ở Châu Âu thành
lập Ngân hàng đầu tư châu Âu (EIB), ở Đức thành lập Ngân hàng tái thiết
4

Đức (KFW), ở Hàn Quốc thành lập Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB).
Các Ngân hàng này đã thực sự phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ nền kinh tế
các nước thoát khỏi khó khăn và phát triển vượt bậc với tốc độ tăng trưởng
cao trong nhiều năm. Mô hình này thể hiện được vai trò tích cực của nó đối
với sự phát triển của quốc gia và cũng đã được nhiều nuớc áp dụng, nhất là
các nước đang phát triển.
Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, Chính phủ các nước Đông
nam Á đã hỗ trợ phát triển các thị trường tài chính bằng cách hoàn thiện các
định chế tài chính Nhà nước nhằm thực thi chính sách phát triển kinh tế quốc
gia và cung cấp tín dụng cho các lĩnh vực mà tài chính tư nhân không đủ sức
để thực hiện, một loạt các Ngân hàng Phát triển đã thành lập để thực thi
nhiệm vụ này. Điển hình là Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS), Ngân
hàng Phát triển Malaixia (BPMP), Ngân hàng Phát triển Philippine (DBP),
Ngân hàng Phát triển Indonexia (BAPINDO), Việt Nam đã thành lập Ngân
hàng Phát triển Việt nam (VDB) năm 2006. Hiện nay có nhiều nước trên thế
giới đã thành lập các tổ chức tài chính theo mô hình hoạt động của Ngân hàng
Phát triển.
Từ việc xem xét quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Phát
triển của các quốc gia trên thế giới, có thể đưa ra khái niệm về Ngân hàng
Phát triển như sau:
“Ngân hàng Phát triển là tổ chức tài chính Nhà nước thực hiện nhiệm
vụ hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thông qua thực thi các chính sách
tài chính tín dụng của Chính phủ.”
Từ khái niệm về Ngân hàng Phát triển, cho thấy:
- Ngân hàng Phát triển là tổ chức tài chính của Nhà nước và do Nhà
nước thành lập.
5
- Nhiệm vụ của Ngân hàng Phát triển là hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế quốc gia theo mục tiêu đã định.
- Hoạt động của Ngân hàng Phát triển trên cơ sở các chính sách về tài

chính tín dụng của Chính phủ quy định.
1.1.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng Phát triển
Cũng là Ngân hàng, nhưng mô hình tổ chức hoạt động của Ngân hàng
Phát triển có nhiều khác biệt so với mô hình tổ chức hoạt động của các Ngân
hàng thương mại, thể hiện qua những đặc điểm sau:
- Ngân hàng Phát triển do Chính phủ thành lập và thuộc sở hữu của
Chính phủ hoặc Chính phủ giữ tỷ lệ vốn lớn, trong khi các Ngân hàng
Thương mại không có vốn của Nhà nước tham gia (các Ngân hàng cổ phần)
hoặc tham gia không nhiều; hình thức sở hữu của các ngân hàng này phổ biến
là sở hữu tư bản tư nhân hoặc vốn cổ phần.
- Ngân hàng Phát triển có quan hệ mật thiết với Chính phủ và hoạt
động theo cơ chế điều hành riêng của Chính phủ và các Bộ, Ngành có liên
quan (cơ quan quản lý Ngân sách Nhà nước, các Bộ chuyên ngành, cơ quan
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế đất nước). Các Ngân hàng thương mại
hoạt động theo mô hình của một doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Khác với các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Phát triển hoạt động
không vì mục đích lợi nhuận mà mục tiêu chính là tài trợ hỗ trợ phát triển
Kinh tế - xã hội theo chương trình mục tiêu của Chính phủ trong từng thời kỳ.
Trong khi các Ngân hàng thương mại hoạt động với mục tiêu chính là lợi
nhuận.
- Từ những đặc điểm về mục tiêu hoạt động và hình thức sở hữu của
Ngân hàng Phát triển do Chính phủ chi phối, dẫn đến hoạt động của Ngân
hàng Phát triển mang tính chất tuân thủ và chịu sự chi phối nhiều bởi cơ chế
6
chinh sách của Chính phủ, tính tự quyết và linh hoạt trong điều hành thực
hiện không được chủ động bằng các Ngân hàng thương mại.
- Hoạt động của Ngân hàng Phát triển chủ yếu tập trung vào cung cấp
tín dụng trung dài hạn, trong khi các ngân hàng thương mại tỷ lệ tín dụng
ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Xuất phát từ mục tiêu hoạt động của Ngân hàng
Phát triển là hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, do vậy các hoạt

động đầu tư của Ngân hàng Phát triển thường dành những dự án lớn, có thời
gian dài và tính rủi ro cao mà các Ngân hàng thương mại không đủ vốn đầu tư
hoặc không muốn đầu tư.
1.1.1.3 Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Phát triển
Với chức năng là tổ chức tài chính của Chính phủ, Ngân hàng Phát các
nước đều hoạt động theo đuổi mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội
thông qua các hoạt động nghiệp vụ về tài chính tín dụng. Qua tham khảo mô
hình hoạt động của một số nước trên thế giới và khu vực thì tuỳ theo chính
sách phát triển kinh tế của mỗi nước từng thời kỳ mà hoạt động của Ngân
hàng Phát triển có những đặc điểm riêng và không nhất nhất tuân thủ theo
một mô hình nhất định nào đó. Tuy nhiên Ngân hàng Phát triển các nước tập
trung vào một số hoạt động chủ yếu sau:
- Tiếp nhận vốn từ Ngân sách Nhà nước, huy động vốn từ nền kinh tế
chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ và huy động vốn từ các tổ
chức kinh tế để thực hiện hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
- Cho vay dài hạn đầu tư trực tiếp các dự án theo chương trình mục tiêu
của Chính phủ với mức lãi suất thấp, thời gian vay vốn thường kéo dài và có
ưu tiên về tài sản bảo đảm.
- Cho vay hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu và hỗ trợ xuất khẩu (cho vay
hỗ trợ xuất khẩu). Trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế, các nước đều tập
trung phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình đẩy mạnh sản xuất hàng xuất
7
khẩu sang các nước khác để thu ngoại tệ cho quốc gia mình. Chính phủ các
nước có nhiều biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó
cho vay hỗ trợ xuất khẩu là một trong những biện pháp được nhiều nước áp
dụng và họ đã thành công.
- Một số hình thức hỗ trợ gián tiếp cho các tổ chức kinh tế thông qua
các nghiệp vụ: bảo lãnh vay vốn tín dụng đầu tư, bảo hiểm tín dụng, tín dụng
người mua, cho thuê tài chính, hỗ trợ sau đầu tư cho các dự án và các hoạt
động được ưu tiên khuyến khích của Chính phủ, nhằm đẩy mạnh phát triển

kinh tế xã hội theo mục tiêu chiến lược của quốc gia.
- Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện
nay, để bảo đảm công bằng trong sân chơi Quốc tế hình thức hỗ trợ trực tiếp
(cho vay đầu tư với những ưu đãi riêng) có xu hướng dần bị thu hẹp và các
Quốc gia quan tâm đến các hình thức hỗ trợ gián tiếp.
1.1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng Phát triển
Hoạt động cho vay của Ngân hàng Phát triển bao gồm: cho vay ngắn
hạn xuất khẩu hàng hoá, sản xuất hàng xuất khẩu và cho vay đầu tư các dự án.
Hình thức cho vay dự án dài hạn được áp dụng nhiều ở một số nước.
Cho vay đầu tư là cho nhà đầu tư vay vốn để thực hiện dự án.
- Hoạt động cho vay đầu tư được thực hiện từ khâu thẩm định để quyết
định cho vay đến khi thu hồi hết nợ vay theo trình tự các bước gồm:
+ Tiếp nhận hồ sơ và thẩm định: Ngân hàng tiếp nhận hồ sơ dự án và
hồ sơ chủ đầu tư tiến hành thẩm định theo các nội dung quy định. Kết quả của
quá trình thẩm định là các nhận xét đánh giá về dự án đầu tư và chủ đầu tư,
các kiến nghị đề xuất về việc tài trợ dự án thông qua báo cáo thẩm định.
+ Quyết định cho vay: trên cơ sở kết quả thẩm định và tham khảo ý
kiến khác, người có thẩm quyền ra quyết định và các điều kiện cho chủ đầu tư
vay vốn tài trợ dự án (đối với trường hợp đồng ý cho vay).
8
+ Giải ngân và giám sát cho vay: sau khi quyết định cho vay, bộ phận
quản lý tín dụng tiến hành làm hồ sơ theo quy định và giải ngân cho vay đầu
tư dự án, theo dõi tình hình hoạt động của dự án khi vận hành sản xuất và đôn
đốc thu nợ.
+ Xử lý nợ và thanh lý hợp đồng: trường hợp dự án không trả được nợ,
Ngân hàng áp dụng các biện pháp xử lý nợ theo quy định để thu hồi nợ vay.
Kết thúc quá trình cho vay (khi Người vay trả hết nợ hoặc khoản nợ xấu đã
được xử lý) ngân hàng thực hiện thanh lý hợp đồng tín dụng với người vay.
- Ngân hàng Phát triển tiếp nhận và huy động vốn cho vay gồm: vốn từ
Ngân sách Nhà nước, vốn huy động của các tổ chức kinh tế, chính trị, phát

hành trái phiếu và các nguồn huy động hợp pháp khác.
- Lãi suất cho vay do Nhà nước quy định tuỳ theo đối tượng ưu tiên
khuyến khích của Chính phủ đối với từng ngành nghề, lĩnh vực trong giai
đoạn phát triển nhất định. Thông thường lãi suất cho vay đầu tư được ưu đãi
(thấp hơn) lãi suất thị trường; lãi suất cho vay có thể cố định trong suốt thời
gian vay vốn hoặc cũng có thể thả nổi tuỳ thuộc vào ngành nghề đầu tư và
năng lực quản lý của nhà đầu tư.
- Mức vốn cho vay, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thường chiếm tỷ
lệ cao trong tổng số vốn đầu tư tài sản cố định dự án (ở Việt Nam tỷ lệ này là
70%), ngoài ra nhà đầu tư phải huy động nguồn vốn tự có của mình và các
nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư dự án.
- Thời gian cho vay được xác định trên cơ sở tiến độ thực hiện và khả
năng sinh lợi của dự án. Thời gian cho vay tính từ khi chủ đầu tư ký nhận
món vay đầu tiên đến khi trả hết nợ vay, bao gồm thời gian ân hạn và thời
gian trả nợ. Do đặc điểm của tín dụng đầu tư là thường cho vay dự án có mức
sinh lời thấp, thời gian cho vay thường kéo dài, có dự án lên tới 10 năm hoặc
hơn nữa.
9
- Thu hồi nợ vay: vốn cho vay được thu hồi vào nhiều kỳ trong thời
gian vay vốn, mức vốn trả nợ được xác định trên cơ sở cân đối nguồn trả nợ
của dự án từng giai đoạn; trường hợp dự án gặp khó khăn và không trả được
nợ, tuỳ theo mức độ và nguyên nhân có những biện pháp xử lý phù hợp.
- Bảo đảm tiền vay: đối với cho vay đầu tư, việc bảo đảm tiền vay được
ưu tiên hơn so với cho vay thương mại, nhằm tạo điều kiện cho dự án triển
khai thuận lợi để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
Giá trị bảo đảm tiền vay trong cho vay đầu tư có thể thấp hơn so với số vốn
vay hoặc được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay.
Cho vay đầu tư của Ngân hàng Phát triển có những đặc điểm khác với
cho vay của các ngân hàng thương mại, thể hiện qua một số điểm sau:
- Chủ thể cho vay đầu tư là Ngân hàng Phát triển, còn trong quan hệ tín

dụng của các tổ chức tín dụng khác thì chủ thể cho vay là các thành phần kinh
tế khác (NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, Công ty tài chính ...)
- Đối tượng cho vay đầu tư của NHPT tập trung vào đầu tư cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội, các lĩnh vực an sinh xã hội, phát triển các vùng kinh tế
trọng điểm trong của quốc gia. Đối tượng vay vốn của các NHTM không hạn
chế về khách hàng vay vốn và lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh doanh.
- Ngân hàng Phát triển hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mà mục
tiêu chính là hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội hướng tới sự phát triển kinh tế
bền vững. Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng thương mại là tối đa hoá lợi
nhuận, các lợi ích xã hội thường ít được quan tâm.
- Hoạt động cho vay đầu tư của Ngân hàng Phát triển tương đối độc
lập, không mang tính cạnh tranh với hoạt động cho vay của các Ngân hàng
thương mại. Bởi lẽ Ngân hàng Phát triển có chức năng nhiệm vụ riêng biệt do
Chính phủ quy định, từ việc huy động nguồn vốn đến chính sách cho vay đều
được sự tài trợ và chi phối từ Chính phủ.
10
Mặc dù có những đặc điểm rất khác biệt giữa hoạt động cho vay của
Ngân hàng Phát triển và hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại,
song hoạt động cho vay của bất kỳ ngân hàng nào cũng nhằm hướng tới mục
tiêu hiệu quả và an toàn. Các Ngân hàng đều hướng tới giảm thiểu rủi ro và
nâng cao chất lượng tín dụng, một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới
chất lượng tín dụng của một ngân hàng là chất lượng thẩm định tài chính dự
án. Bởi vậy khi quyết định cho vay, chất lượng thẩm định dự án trong hoạt
động cho vay có vai trò cực kỳ quan trọng và được quan tâm đặc biệt.
1.2 CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
1.2.1 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng Phát triển.
1.2.1.1 Khái niệm và sự cần thiết thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng Phát triển

Có nhiều khái niệm, định nghĩa về dự án tuỳ thuộc vào mục tiêu hoặc
cách tiếp cận của người nghiên cứu. Đứng trên giác độ nghiên cứu về tài
chính dự án, tác giả đồng ý với khái niệm về dự án: “Dự án là tổng thể các
hoạt động dự kiến với các nguồn lực và chi phí cần thiết, được bố trí theo lịch
chặt chẽ với các thời gian và địa điểm xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải
tạo những đối tượng nhất định nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã
hội nhất định.” (16- tr 73)
Tuy có nhiều quan điểm nhìn nhận khác nhau về dự án, song về cơ bản
một dự án bao giờ cũng bao gồm các nội dung sau:
- Mục tiêu đầu tư của dự án: phản ánh những kết quả và lợi ích mà dự
án mang lại cho nhà đầu tư và cho xã hội.
11
- Các hoạt động của dự án: bao gồm các giải pháp về tổ chức, kinh tế,
kỹ thuật để thực hiện dự án theo mục tiêu đã đề ra.
- Các nguồn vốn đầu tư cho dự án.
- Các sản phẩm dịch vụ được tạo từ dự án.
- Thời gian và địa điểm để thực hiện các hoạt động của dự án.
Phân loại dự án
Trên thực tế, dự án có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ
theo mục đích và đối tượng nghiên cứu:
- Phân loại dự án theo người khởi xướng: dự án cá nhân, dự án tập thể,
dự án quốc gia hay dự án liên quốc gia.
- Phân theo ngành kinh tế - xã hội: dự án thương mại, dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội.
- Xét theo thời gian hoạt động: dự án ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Phân theo quy mô vốn đầu tư: được chia thành dự án nhóm A, nhóm
B, nhóm C và nhóm đặc biệt.
Thẩm định tài chính dự án:
Để đưa ra quyết định cho vay đúng đắn, thì thẩm định tài chính dự án là
khâu không thể thiếu và thẩm định tài chính dự án là khâu quan trong nhất

trong thẩm định cho vay dự án.
“Thẩm định tài chính dự án là rà soát và đánh giá một cách khoa học
các khía cạnh tài chính của dự án nhằm xác định tính khả thi về tài chính của
dự án”.
Thẩm định tài chính dự án cần phải đạt được những yêu cầu
- Thẩm định tài chính dự án, người thẩm định phải xém xét đánh giá
các chỉ tiêu tài chính dự án (tổng mức đầu tư, doanh thu, chi phí, xác định
dòng tiền, chỉ số đánh giá hiệu quả tài chính và phân tích rủi ro dự án) một
cách kỹ lưỡng trong mối quan hệ logic giữa các chỉ tiêu tài chính của dự án.
12
- Thẩm định tài chính dự án không phải là một nội dung thẩm định độc
lập mà có liên quan mật thiết đến các nội dung khác của dự án như: thị trường
tiêu thụ sản phẩm để xác định doanh thu và chi phí hoạt động, hoặc giải pháp
xây dựng và lựa chọn thiết bị công nghệ để dự toán vốn tư dự án.
- Kết quả thẩm định tài chính dự án đưa ra những đánh giá về tài chính
của dự án, được thể hiện thông qua số liệu và chỉ số phân tích rõ ràng giúp
người ta có thể nhận biết dễ dàng về khả năng mức độ sinh lời của dự án, giúp
cho nhà đầu tư có thông tin để phân tích và quyết định đầu tư dự án.
- Thẩm định tài chính dự án phải tuân thủ theo nguyên tắc khách quan
và khoa học. Các chỉ tiêu tính toán, các kết luận đưa ra của báo cáo thẩm định
tài chính đều phải dựa trên những cơ sở về lý luận và thực tiễn và phải mang
tính logic và khoa học, kết quả thẩm định không gắn liền với ý trí chủ quan
của cá nhân người thẩm định.
- Thẩm định tài chính là nội dung quan trọng trong thẩm định dự án.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đối tượng quản lý dự án, thẩm định tài chính dự án
được quan tâm ở mức độ khác nhau: đối với nhà đầu tư và các tổ chức tín
dụng, thẩm định tài chính dự án được quan tâm nhiều và nó có vai trò quyết
định trong việc quyết định đầu tư, tài trợ dự án; đối với chính phủ và các cơ
quan quản lý vĩ mô thì lại quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Thẩm định tài chính dự án là quá trình tính toán và phân tích để lựa

chọn sàng lọc những được dự án tốt hoạt động có hiệu quả theo mục tiêu đã
định, loại bỏ những dự án có khả năng phát huy hiệu quả thấp hoặc gây tổn
hại cho xã hội.
Phuơng pháp thẩm định tài chính dự án
Phương pháp thẩm định tài chính dự án là cách thức thẩm định nhằm
đạt được những yêu cầu đặt ra đối với thẩm định tài chính dự án. Việc thẩm
định dự án có thể theo nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp thẩm
13
định theo trình tự, phương pháp so sánh, phân tích tình huống, phương pháp
dự báo và phương pháp triệt tiêu rủi ro.
Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng Phát
triển rất cần thiết, do:
Thứ nhất, thẩm định tài chính dự án để giúp nhà đầu tư lựa chọn dự án
tốt, loại bỏ dự án xấu: thực tế, không ít dự án được lập sơ sài mang tính phiến
diện, chủ quan và thiếu cân nhắc tổng thể các vấn đề liên quan đến dự án;
hoặc dự án được đề xuất đầu tư theo phong trào mang tính cục bộ địa phương
và xem nhẹ hiệu quả tài chính của dự án. Nếu coi nhẹ công tác thẩm định tài
chính dự án, cho vay đầu tư theo kiểu xuôi chiều đối với các dự án này sẽ dẫn
đến những tổn thất cho Ngân hàng và xã hội. Do vậy thẩm định tài chính dự
án trước khi quyết định cho vay dự án là rất cần thiết, nhằm phân tích đánh
giá khách quan hiệu quả tài chính dự án, loại bỏ những dự án kém hiệu quả.
Thứ hai, thẩm định tài chính dự án để lựa chọn cân đối dự toán ngân
sách đầu tư dự án: thẩm định tài chính dự án nhằm xác định được tổng số vốn
đầu tư dự án và nhu cầu vốn đầu tư theo từng thời kỳ, từ đó giúp cho các nhà
đầu tư có thể chủ động trong việc lập dự toán ngân sách đầu tư và có kế hoạch
huy động vốn đối với các nguồn vốn tham gia đầu tư dự án có hiệu quả nhất
và tránh được tình trạng mất cân đối về nguồn vốn tài trợ dự án, nhất là nguồn
vốn ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, thẩm định tài chính dự án nhằm đưa ra được cảnh báo rủi ro
của dự án từ đó có giải pháp khắc phục: thông qua thẩm định tài chính dự án,

bằng các phương pháp tính toán và phân tích tài chính có thể xác định được
mức độ rủi ro mà dự án chịu đựng đuợc, từ đó có những cảnh báo hạn chế rủi
ro, bác bỏ những dự án có mức rủi ro lớn hoặc đưa ra các giải pháp đầu tư
thích hợp nhằm hạn chế tối đa rủi ro vốn đầu tư trong những trường hợp bất
khả kháng.
14
1.2.1.2 Nội dung thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án bao gồm tính toán xác định các vấn đề liên
quan đến tài chính và hiệu quả tài chính dự án, như sau:
- Thẩm định tổng dự toán vốn đầu tư (tổng mức đầu tư của dự án):
Khi xây dựng dự án đầu tư, người lập dự án phải tính toán mức vốn cần
thiết để đầu tư dự án hay còn gọi là tổng mức đầu tư dự án. Tổng mức đầu tư
dự án là số tiền dự tính phải chi ra hình thành nên tài sản cố định và tài sản
lưu động đảm bảo cho dự án vận hành và hoạt động và tạo ra sản phẩm.
+ Chi phí để hình thành nên tài sản cố định là tất cả các khoản chi phí
bỏ ra từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn kết thúc quá trình đầu tư đưa
dự án vào vận hành sản xuất kinh doanh, bao gồm chi phí đến bù giải phòng
mặt bằng, xây dựng nhà xưởng sản xuất và hạ tầng kỹ thuật, thuê đất …, mua
sắm thiết bị công nghệ chuyển giao công nghệ và các chi phí khác.
+ Chi phí hình thành tài sản lưu động bao gồm những chi phí chủ đầu
tư chi ra để mua nguyên vật liệu, trả lương, mua sắm công cụ dụng cụ phục
vụ sản xuất và khoản tiền mặt trong thanh toán.
+ Xét về cơ cấu hình thành, trong dự toán vốn đầu tư xây dựng (tổng
mức đầu tư dự án) gồm chi phí xây dựng lắp đặt, chi phí mua sắm thiết bị, chi
phí khác, chi phí dự phòng và chi phí đầu tư tài sản lưu động.
* Những căn cứ dự tính tổng mức đầu tư dự án:
Ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, việc xác định tổng mức đầu tư dự án có
thể căn cứ vào suất đầu tư. Người ta có thể căn cứ vào suất đầu tư của những
dự án đầu tư có cùng tiêu thức chung về ngành nghề, quy mô hoặc vùng miền
để làm cơ sở dự kiến tổng mức đầu tư dự án; phương pháp tính này thường áp

dụng để dự toán vốn đầu tư trong giai đoạn đầu tìm kiếm cơ hội đầu tư. Đối
với một dự án cụ thể thì việc dự kiến tổng mức đầu tư dự án căn cứ trên các
tiêu thức sau:
15
+ Căn cứ hồ sơ thiết kế cơ sở của dự án và đơn giá tổng hợp để khái
toán các chi phí xây dựng và lắp đặt.
+ Căn cứ vào giá chào hàng của thiết bị trên thị trường để xác định chi
phí mua thiết bị công nghệ.
+ Căn cứ vào định mức đơn giá của Nhà nước quy định để tính các
khoản chi phí khác tính theo tỷ lệ (chi phí thuê tư vấn, chi phí quản lý...)
+ Căn cứ vào chế độ quy định hiện hành của Nhà nước về chi phí đầu
tư như tiền thuê đất, các loại thuế và lệ phí liên quan đến đầu tư dự án.
+ Căn cứ vào quy mô công suất, các định mức chi phí và kế hoạch kinh
doanh dự kiến để tính chi phí cần thiết đầu tư cho tài sản lưu động.
* Thẩm định tổng vốn đầu tư và các yếu tố ảnh hưởng đến tổng mức
đầu tư
Khi thẩm định phải xem xét đánh giá tổng vốn đầu tư của dự án đã
được tính toán hợp lý hay chưa, tổng vốn đầu tư đã tính đủ các khoản cần
thiết chưa, cần xem xét các yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá do phát sinh
thêm khối lượng hoặc thay đổi tỷ giá ngoại tệ (dự án có sử dụng ngoại tệ).
Trên cơ sở những dự án tương tự đã thực hiện và được đúc rút ở những
dự án đã đầu tư cùng loại (quy mô, ngành nghề và kỹ thật công nghệ), cán bộ
thẩm định có thể so sánh các chỉ tiêu (về suất vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ,
về các hạng mục thực sự cần thiết và chưa thực sự cần thiết trong giai đoạn
thực hiện đầu tư, v.v), nếu thấy có sự khác biệt lớn ở bất kỳ một chỉ tiêu nào
thì phải tập trung phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra nhận xét.
- Thẩm định nguồn vốn tài trợ cho dự án
Sau khi xác định được tổng mức đầu tư dự án, cần phải thẩm định
phương án huy động các nguồn vốn tài trợ cho dự án. Nguồn vốn tài trợ dự án
bao gồm vốn chủ sở hữu, vay nợ, thuê tài sản (leasing), hoặc một dự án có thể

sử dụng kết hợp các phương thức tài trợ trên.
16
+ Vốn chủ sở hữu (vốn tự có): là vốn của chủ đầu tư bỏ ra để đầu tư dự
án từ tài sản của doanh nghiệp, bao gồm các nguồn chủ yếu là nguồn vốn tích
luỹ từ thu nhập của doanh nghiệp dùng để tái đầu tư, phát hành cổ phiếu (đối
với công ty cổ phần) và thặng dư vốn do phát hành cổ phiếu.
+ Vốn vay nợ: chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng đầu tư tài
sản cố định, vay tín dụng ngắn hạn để đầu tư tài sản lưu động; vay tín dụng
thương mại, phát hành trái phiếu vay vốn từ các tổ chức và cá nhân trong nền
kinh tế.
+ Thuê tài sản (leasing): đây là hình thức thuê tài sản để đầu tư sản xuất
kinh doanh trong đó bên cho thuê (chủ sở hữu tài sản) cho người thuê (người
sử dụng tài sản) được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản thuê trong
thời gian nhất định để kinh doanh đồng thời phải trả cho Bên cho thuê một số
tiền về quyền sử dụng tài sản đó.
Một dự án có thể được tài trợ vốn bởi một trong các hình thức trên,
hoặc được tài trợ hỗn hợp nhiều hình thức. Khi thẩm định về nguồn vốn tài
trợ dự án cần xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án, nguồn
vốn đầu tư và tính khả thi của các nguồn vốn tài trợ dự án; khả năng đáp ứng
nhu cầu vốn trong từng giai đoạn thực hiện dự án để đảm bảo tiến độ thi công
dự án. Ngoài ra, cần phải xem xét tỷ lệ và tiến độ của các nguồn vốn tham gia
có hợp lý hay không, thông thường vốn tự có phải tham gia đầu tư trước.
- Thẩm chi phí, lợi ích và dòng tiền của dự án
* Doanh thu:
Doanh thu là nguồn thu dự kiến từ việc bán sản phẩm, dịch vụ trực tiếp
tạo ra từ dự án. Doanh thu dự án hàng năm được xác định trên cơ sở kế hoạch
sản xuất kinh kinh doanh tiêu thụ sản phẩm và giá bán sản phẩm.
Doanh thu của dự án là số dự kiến, do vậy khi thẩm định phải xem xét
cơ sở tính toán doanh thu như: mức huy động công suất so với công suất thiết
17

kế, tiến độ thực hiện dự án và dự báo khả năng tham gia vào thị trường của
sản phẩm sản xuất để dự kiến hệ số phát huy công suất hàng năm hợp lý hay
không; giá bán đơn vị sản phẩm có phù hợp với giá thị trường hiện tại và
chiều hướng biến động giá sản phẩm trong thời gian hoạt động của dự án để
đưa ra mức giá hợp lý để tính doanh thu.
* Chi phí hoạt động:
Chi phí hoạt động là toàn bộ chi phí bỏ ra để tổ chức sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm. Bao gồm chi phí hoạt động sản xuất (chi phí mua nguyên vật
liệu, năng lượng, trả lương, các chi phí khác…) và chi phí tiêu thụ sản phẩm.
Khi thẩm định, cần xem xét lại tính đầy đủ của các yếu tố chi phí cần
thiết để tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; xem xét sự hợp lý của các yếu
tố chi phí tạo nên giá thành sản phẩm như: giá mua nguyên vật liệu và năng
lượng, chi trả tiền lương, định mức tiêu hao nguyên vật liệu và các chi phí
tính theo tỷ lệ % so doanh thu sản phẩm; xem xét đến sự phù hợp với chính
sách chế độ của Nhà nước quy định về quản lý tài chính doanh nghiệp.
* Dự báo kết quả sản xuất kinh doanh:
Trên cơ sở doanh thu, chi phí hoạt động, lãi vay và thuế để xác định kết
quả sản xuất kinh doanh hàng năm (lợi nhuận sau thuế) của dự án. Khi thẩm
định kết quả kinh doanh dự án, cần phải xem xét sự chuẩn xác trong tính toán,
xác định đúng khoản lãi vay phải trả, các khoản thuế phải nộp, có xem xét đến
chế độ miễn giảm thuế theo quy định của Nhà nước. Sau khi thẩm định sự
hợp lý đúng đắn của các yếu tố trên, lập bảng tính toán kết quả kinh doanh
hàng năm của dự án.
* Thẩm định dòng tiền của dự án
18
Dòng tiền của một dự án là các khoản chi và thu được dự kiến xuất
hiện tại các mốc thời gian (thường tính hàng năm) trong suốt chu kỳ của dự
án.
Khi bỏ vốn đầu tư vào một dự án, Nhà đầu tư phải tính toán những
khoản chi phí phải bỏ ra và dự kiến những khoản thu về qua các năm trong

suốt quá trình hoạt động của dự án, từ đó xác định được lợi ích mang lại tư từ
hoạt động đầu tư dự án; vấn đề này được các nhà đầu tư cũng như các nhà tài
trợ quan tâm khi quyết định đầu tư dự án đó là dòng tiền của dự án. Dòng tiền
phát sinh trong suốt chu kỳ hoạt động của dự án theo các mốc thời gian khác
nhau, do tiền có giá trị theo thời gian nên không thể so sánh giá trị dòng tiền ở
các mốc thời gian khác nhau mà phải quy về một thời điểm để so sánh, thông
thường người ta quy dòng tiền trong tương lai về hiện tại theo một tỷ lệ chiết
khấu (r) thích hợp để tính toán hiệu quả tài chính dự án.
Dòng tiền ròng của dự án được xác định trên cơ sở dòng tiền chi cho
hoạt động đầu tư; dòng tiền thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh qua các năm
của dự án và dòng tiền thu được từ lợi ích dự án mang lại cho nền kinh tế.
Dòng tiền chi dự án được xác định bao gồm:
+ Chi phí đầu tư tài sản cố định: đây là những khoản chi phí bỏ ra để
hình thành tài sản cố định đã được dự kiến trong Tổng mức đầu tư dự án. Chi
đầu tư xây dựng dự án tương đối lớn và được chi ra theo tiến độ thực hiện đầu
tư dự án, thông thường đầu tư trong 1 năm, đối với các dự án có quy mô lớn
có thể kéo dài hơn.
+ Chi phí cơ hội: chi phí cơ hội là chi phí mà nhà đầu tư đã bỏ ra từ
trước đó đầu tư nên tài sản cố định, nay tài sản đó được sử dụng để đầu tư dự
án; giá trị tài sản này là chi phí cơ hội và được tính vào chi phí đầu tư dự án.
19
Việc xác định chi phí cơ hội không căn cứ vào giá trị quá khứ (giá mua) mà
được tính theo giá của tài sản đó ở thời điểm hiện tại.
+ Chi phí chìm: Chi phí chìm là chi phí đã xuất hiện từ trước khi đầu tư
dự án và không thể bù đắp cho dù dự án có được chấp thuận hay không chấp
thuận. Có thể phân tích rõ hơn là chi phí chìm là khoản chi có trước, không
liên quan đến sự tăng chi phí của dự án và không được tính vào chi phí đầu tư
dự án.
+ Chi đầu tư vào vốn lưu động ròng: đối với dự án đầu tư vào hoạt
động sản xuất kinh doanh đều phải đầu tư vốn lưu động ròng. Vốn lưu động

ròng được tính bằng tổng tài sản lưu động trừ đi tài sản ngắn hạn. Tổng tài sản
lưu động bao gồm các khoản chi cần thiết phục vụ quá trình sản xuất của dự
án và được xác định trong tổng mức đầu tư dự án. Vốn lưu động ròng sẽ thay
đổi qua các năm, sự thay đổi vốn lưu động ròng hàng năm tính bằng nhu cầu
vốn lưu động năm sau trừ năm trước.
+ Trả nợ vốn vay: là số vốn chủ đầu tư phải bỏ ra để trả nợ gốc cho các
tổ chức tín dụng. Trả nợ vốn vay chỉ thực hiện đối với dự án đầu tư có sử
dụng nguồn vốn vay và có ý nghĩa trong phân tích tài chính dự án đối với chủ
đầu tư. Tuy nhiên, đối với cơ quan cho vay (Ngân hàng) khi thẩm định dòng
tiền thường đứng trên quan điểm tổng mức đầu tư của dự án, chi phí trả nợ
vốn vay không xem xét khi xác định dòng tiền của dự án.
Dòng tiền thu của dự án bao gồm:
+ Lợi nhuận sau thuế: đây là khoản thu nhập của nhà đầu tư sau khi lấy
doanh thu trừ đi tất cả các khoản chi phí vận hành, các khoản thuế và lãi vay
(nếu có). Lợi nhuận sau thuế là kết quả của việc đầu tư dự án, chủ đầu tư có
quyền được sử dụng và định đoạt. Cũng lưu ý là lợi nhuận sau thuế của một tổ
chức sản xuất kinh doanh bao gồm cả lợi nhuận từ hoạt động tài chính và hoạt
20
động khác, nhưng ở giác độ nghiên cứu thẩm định tài chính dự án chỉ đề cập
đến lợi nhuận sau thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà dự án mang lại.
+ Giá trị khấu hao tài sản cố định: giá trị khấu hao tài sản cố định được
hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng năm, nhưng thực chất đây
không phải là khoản chi thực của nhà đầu tư, khoản chi này được hạch toán
trên sổ sách để tính giá thành và hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh. Giá
trị khấu hao tài sản cố định là khoản thu hồi dần vốn đầu tư tài sản cố định mà
chủ đầu tư đã bỏ ra ban đầu thông qua tiền thu bán hàng hàng năm. Trường
hợp tài sản cố định đi thuê, thì người sử dụng tài sản không được trích khấu
hao tài sản cố định, không có khoản thu tài chính từ khấu hao tài sản cố định.
+ Giá trị thu hồi vốn lưu động: khi dự án chuyển sang giai đoạn vận
hành sản xuất, nhà đầu tư cần phải bỏ thêm số vốn lưu động ban đầu để đầu tư

vào tài sản lưu động (tồn kho, trả tiền lương…). Khi dự án kết thúc quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho được bán và không được thay
thế, các khoản phải thu được chuyển thành tiền mặt, nhà đầu tư thu hồi được
vốn lưu động bằng số vốn lưu động đã chi ra đầu tư tài sản lưu động. Khoản
thu này có được vào năm hoạt động cuối cùng của dự án.
+ Giá trị thu hồi tài sản cố định: kết thúc chu kỳ hoạt động của dự án,
dù cho giá trị tài sản cố định đã khấu hao hết hay không hết thì tài sản cố định
vẫn còn giá trị thị trường nhất định. Nhà đầu tư bán tài sản cố định ra thị
trường thu được một khoản tiền nhất đinh (gọi là tiền thu từ thanh lý tài sản
cố định); khoản tiền thu thanh lý tài sản cố định sau khi điều chỉnh (cộng
thêm hoặc giảm trừ) với các khoản thuế phải nộp theo quy định từ tiền bán
thanh lý tài sản cố đinh tạo nên luồng tiền thu ở năm cuối của dự án.
* Đặc điểm của ngân hàng Phát triển hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, mục tiêu chính là hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Các
dự án Ngân hàng Phát triển cho vay có tác động tích cực cho sự nghiệp phát
21
triển kinh tế - xã hội của quốc gia, những lợi ích dự án mang lại cho nền kinh
tế và xã hội là không nhỏ và cần được lượng hoá để xác định hiệu quả dự án.
Khi thẩm định hiệu quả tài chính dự án, ngoài việc xem xét hiệu quả mang lại
trực tiếp từ dự án, cần quan tâm đến lợi ích mà dự án đem lại cho nền kinh tế,
cho xã hội ( ví dụ: tăng thu nhập cho một số cộng đồng dân cư, giảm ô nhiễm
môi trường, tăng trình độ dân trí); những lợi ích này cần đuợc tính toán lượng
hoá bằng giá trị để tính vào dòng thu (lợi ích) mang lại từ dự án. Đây là đặc
điểm khác biệt của NHPT với các NHTM về thẩm định tài chính dự án, khi
thẩm dịnh cho vay các NHTM quan tâm chính đến khả năng trả nợ của dự án
do vậy họ chỉ quan tâm đến hiệu quả tài chính trực tiếp từ bản thân dự án mà
không cần quan tâm nhiều đến lợi ích dự án đem lại cho nền kinh tế, cho xã
hội. Xuất phát từ đặc điểm riêng của mình, khi thẩm định dòng tiền dự án
ngoài việc xác định dòng tiền thu và chi trực tiếp từ dự án mang lại, cần tính
toán đến giá trị của chi phí cũng như lợi ích mà dự án mang lại cho nền kinh

tế, cho xã hội.
Từ phân tích trên cho thấy phương pháp xác định dòng tiền từng năm
hoạt động của mỗi dự án tuỳ thuộc vào nguồn vốn đầu tư và đặc điểm riêng
của từng dự án, có thể được tóm tắt như sau:
Dòng tiền chi (chi đầu tư)
+ Đối với dự án sử dụng toàn bộ bằng vốn tự có: gồm chi đầu tư tài sản
cố định + chi phí cơ hội (nếu có) + chi đầu tư vốn lưu động ròng.
+ Đối với dự án sử dụng toàn bộ tài sản cố định thuê ngoài gồm: chi
đầu tư vốn lưu động ròng.
+ Đối với dự án sử dụng vốn vay gồm: gồm chi đầu tư tài sản cố định +
chi phí cơ hội (nếu có) + chi đầu tư vốn lưu động ròng.
Dòng tiền thu
22
- Dòng tiền ròng từ hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Dự án sử dụng vốn vay và vốn tự có của nhà đầu tư, dòng tiền ròng
bao gồm: lợi nhuận sau thuế + khấu hao tài sản cố định + thu hồi vốn lưu
động ròng và thu thanh lý tài sản cố định.
+ Dự án sử dụng tài sản cố định thuê ngoài, dòng tiền ròng chỉ có lợi
nhuận sau thuế và thu hồi tài sản lưu động ròng (nếu có).
- Dòng tiền thu được từ lợi ích dự án mang lại cho nền kinh tế.
Thực tế một dự án có thể được tài trợ bởi nhiều nguồn vốn khác nhau,
tuỳ từng trường hợp mà có thể tính các dòng thu, chi của dự án một cách hợp
lý theo nguyên tắc lấy dòng thu trừ dòng chi được dòng tiền của dự án.
- Thẩm định lãi suất chiết khấu:
Sau khi xác định được dòng tiền của dự án qua các mốc thời gian trong
chu kỳ hoạt động của dự án, nhưng không thể so sánh giá trị tiền ở các các
năm với nhau vì tiền có giá trị theo thời gian, giải quyết vấn đề này người ta
thường quy đổi dòng tiền xuất hiện trong tương lai của dự án về thời điểm
hiện tại để xác định hiệu quả tài chính của dự án theo một mức lãi suất chiết
khấu nhất định (r) gọi là chi phí vốn của dự án.

Lãi suất chiết khấu (r) được các nhà đầu tư lựa chọn như thế nào? suất
sinh lời tối thiểu mà nhà đầu tư yêu cầu có thể dùng làm lãi suất chiết khấu dự
án. Chi phí vốn sẽ được xác định trên thị trường vốn và phụ thuộc vào rủi ro
của doanh nghiệp hay rủi ro của dự án, phụ thuộc vào nguồn vốn tài trợ của
dự án. Mỗi nguồn vốn tài trợ cho dự án có chi phí vốn khác nhau, lãi suất
chiết khấu cho từng dự án phụ thuộc vào nguồn và tỷ lệ tài trợ vốn cho dự án,
cụ thể như sau:
+ Vốn đầu tư là nợ: nhà đầu tư vay nợ từ các tổ chức tín dụng hoặc phát
hành trái phiếu để đầu tư dự án. Trường hợp vay nợ của các tổ chức tín dụng,
23
hàng năm phải trả lãi vay theo quy định, chính khoản lãi vay này được hạch
toán vào chi phí trước thuế làm giảm bớt một phần thu nhập chịu thuế, doanh
nghiệp được lợi ra một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp bằng lãi vay phải
trả (x) thuế suất; khi này chi phí vốn được tính như sau: nếu ký hiệu chi phí
nợ trước thuế là K
d
, và T
c
là thuế suất thuế thu nhập của doanh nghiệp thì chi
phí nợ sau thuế tính bằng = (1- T
c
)x K
d
. Trường hợp vay nợ thông qua phát
hành trái phiếu, thì lãi suất huy động nợ chính là lãi suất trái phiếu khi đáo
hạn với giả định những khoản đầu tư mới có mức độ rủi ro tương tự các tài
sản hiện có.
+ Vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu: xem xét dưới góc độ một doanh
nghiệp thì lợi tức kỳ vọng chính là chi phí vốn chủ sở hữu. Để xác định chi
phí vốn chủ sở hữu, thông thường hay áp dụng mô hình CAPM. Theo mô

hình CAPM, thì suất sinh lời của khoản đầu tư xác định như sau:
Lãi suất phi rủi ro: R
f
; chênh lệch lợi tức kỳ vọng thị trường và lợi tức
phi rủi ro: (R
m
– R
f
); hệ số Bêta của cổ phiếu: β.
Lợi tức kỳ vọng được xác định: R = R
f
+ (R
m
– R
f
) β.
Lãi suất phi rủi ro (R
f
) có thể lấy bằng lãi suất trái phiếu Kho bạc được
xác định thông qua kết quả đấu thầu; lãi suất đền bù phi rủi ro được xác định
bằng chênh lệch giữa đầu tư danh mục thị trường và lãi suất phi rủi ro; hệ số β
do các công ty tư vấn dịch vụ cung cấp.
+ Vốn đầu tư dự án gồm vay nợ và vốn chủ sở hữu:
Khi dự án đuợc tài trợ bởi cả vốn chủ sở hữu và vay nợ thì chi phí sử
dụng vốn là chi phí sử dụng vốn bình quân gia quyền hay chi phí trung bình
trọng số của vốn đầu tư (ký hiệu là WACC).
24
Các ký hiệu: số vốn nợ để tài trợ dự án: S; số vốn của chủ đầu tư cho
dự án: B; tỷ lệ chi phí vốn nợ: R
b

; tỷ lệ chi phí vốn chủ sở hữu: R
s
; tỷ lệ thuế
thu nhập doanh nghiệp phải nộp: T
c
WACC =
S
x R
s
+
B
x R
b
(1 – Tc)
- (S + B) (S + B)
Trong quá trình thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng Phát triển luôn
quan tâm đến khả năng trả nợ của dự án, đồng nghĩa với việc thẩm định xem
xét kỹ dòng tiền của dự án. Tuy nhiên để khẳng định chắc chắn về hiệu quả
của dự án, khi thẩm định tài chính dự án cũng cần quan tâm đến các chỉ tiêu
hiệu quả tài chính dự án làm cơ sở tham khảo cho việc ra quyết định cho vay.
- Thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án:
Quá trình thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng Phát triển với tư cách
là nhà cho vay tài trợ thường quan tâm nhiều đến dòng tiền để xác định khả
năng và mức độ trả nợ của dự án. Bên cạnh đó, cũng quan tâm phân tích các
chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án làm cơ sở tham khảo để ra quyết định tài trợ
dự án, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án chủ yếu được quan tâm gồm:
* Chỉ tiêu giá trị hiện tại dòng (NPV): giá trị hiện tại dòng của dự án là
tổng hiện giá của giá trị dòng tiền của dự án với tỷ lệ lãi suất chiết khấu (r).
NPV >0, dự án có suất sinh lời cao hơn chi phí vốn, NPV = 0 dự án có suất
sinh lời bằng chi phí vốn, NPV < 0 dự án có suất sinh lời thấp hơn chi phí

vốn; chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của dự án cao hay thấp.
* Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR): tỷ suất hoàn vốn nội bộ là lãi suất
chiết khấu mà tại đó NPV bằng 0. IRR chính là suất sinh lời thực tế của dư án
đầu tư, một dự án có hiệu quả tài chính khi tỷ suất sinh lời thực tế của dự án
(IRR) lớn hơn hoặc bằng lãi suất chiết khấu (r) của dự án.
25

×