Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nghiên cứu tình hình tàn tật trên bệnh nhân phong ở Nghệ An và một số yếu tố ảnh hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 85 trang )


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ xa xưa do thành kiến và quan niệm hoàn toàn sai lầm nên người ta
coi bệnh phong là một trong “tứ chứng nan y”. Nhưng từ khi nhà bác học
người Nauy G.H.A.Hansen tìm ra căn nguyên gây bệnh (Trực khuẩn phong:
Mycobacterium leprae) và đặc biệt là từ năm 1941 khi Guy Faget sử dụng
Dapson điều trị cho các bệnh nhân phong 5,34,57, thì bệnh phong được
coi là một bệnh nhiễm trùng và có thể điều trị khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên nếu
phát hiện muộn và điều trị không đúng, bệnh có thể để lại các di chứng trầm
trọng đó là tàn tật. Đây chính là nguồn gốc của những thành kiến về bệnh và
cũng là nỗi sợ hãi đối với người bệnh.
Trực khuẩn phong có ái tính với các dây thần kinh ngoại biên 526,
vì vậy nó có thể gây viêm, tổn hại các tế bào Schwann dẫn đến rối loạn, mất
cảm giác, liệt vận động, rối loạn dinh dưỡng Chính vì vậy, song song với đa
hóa trị liệu (MDT), phòng, chống tàn tật cũng là một nhiệm vụ vô cùng quan
trọng của chương trình phòng, chống bệnh phong. Theo thông báo của WHO,
cho tới nay trên thế giới hơn mười triệu bệnh nhân phong đã được điều trị khỏi
bằng MDT, nhưng trong số họ còn rất nhiều bệnh nhân bị tàn tật nặng. Vì vậy
tàn tật trong bệnh phong vẫn còn là vấn đề phải được quan tâm của y tế công
cộng
Ở Việt Nam chương trình chống phong được trở thành chương trình y
tế Quốc gia từ năm 1995 và đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ 19.
Tỷ lệ lưu hành đã giảm một cách đáng kể, hơn 30.000 bệnh nhân phong đã
được điều trị khỏi. Mặc dù vậy hiện nay vẫn còn có gần 20.000 bệnh nhân bị
tàn tật cần được chăm sóc 13. Đây là một gánh nặng không những về kinh tế
mà còn về tinh thần cho bản thân, gia đình bệnh nhân phong và xã hội. Ngoài
ra, tỷ lệ tàn tật trong số bệnh nhân phong mới phát hiện hàng năm vẫn còn rất
cao. Thực tế này làm cho cán bộ phụ trách công tác phòng, chống bệnh phong

2


cần phải đổi mới, cải tiến công tác giáo dục y tế và phát hiện bệnh nhân mới.
Tại Nghệ An, công tác phòng, chống phong trong những năm qua đã
đạt được kết quả tương đối tốt, đặc biệt là trong các hoạt động phát hiện bệnh
nhân phong mới, áp dụng đa hóa trị liệu và giáo dục y tế. Tuy nhiên, số bệnh
nhân tàn tật vẫn còn cao, hiện nay toàn tỉnh có trên 125 bệnh nhân cần phải
được chăm sóc tàn tật và phục hồi chức năng.
Công tác chăm sóc tàn tật tuy đã được chú ý từ lâu, song chưa có một
định hướng và phương pháp cụ thể cho từng đối tượng. Đến nay, trên địa bàn
tỉnh chưa có một nghiên cứu đầy đủ về tình hình tàn tật và các yếu tố liên
quan tới tàn tật ở bệnh nhân phong. Vậy làm thế nào để có thể giảm tỷ lệ tàn
tật trong cả bệnh nhân phong mới và cũ, đó là một nhiệm vụ và thách thức đối
với những người làm công tác phòng, chống phong ở Nghệ An.
Để góp phần vào nhiệm vụ ngăn ngừa tàn tật cho bệnh nhân phong
chúng tôi lựa chọn đề tài:
Nghiên cứu tình hình tàn tật trên bệnh nhân phong ở Nghệ An và
một số yếu tố ảnh hưởng.
VỚI CÁC MỤC TIÊU CỤ THỂ:
1. Xác định tỷ lệ tàn tật, độ tàn tật trên bệnh nhân phong đang
quản lý tại Nghệ An.
2. Tìm hiểu các yếu tố có liên quan tới tàn tật ở bệnh nhân phong.


3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử bệnh phong
Bệnh phong đã có từ lâu đời. Nhiều tài liệu cổ để lại có những nhận
định khác nhau. Người Hindu cổ xưa đã viết về bệnh phong từ 1400 trước
Công nguyên. Người Ấn Độ cũng mô tả bệnh này từ 600 năm trước Công
nguyên. Người Trung Quốc mô tả muộn hơn một chút. Bằng chứng cũng

được thấy sớm nhất ở các bộ xương của người Ai Cập vào thế kỷ thứ 2 trước
Công nguyên và 2 xác ướp của người Cop ở Ai Cập vào thế kỷ thứ 5 sau
Công nguyên. Hình như bệnh phong xuất hiện ở các nước Địa Trung Hải
khi quân đội của Alexander từ Ấn Độ trở về 327-326 trước Công nguyên,
bệnh phong lan một cách chậm chạp tới Hy Lạp và đế quốc La Mã. Quân
đội Hy Lạp và La Mã đưa bệnh phong vào Châu Âu và lan thành dịch lớn
vào thế kỷ 12-13 sau đó giảm dần. Bệnh phong được lây truyền vào Châu
Mỹ bởi những người khai hoang Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và
những người nô lệ của họ 26.
Tại Việt Nam, không có tài liệu nào nói rõ về lịch sử bệnh phong.
Người ta biết cách đây hơn 100 năm người Pháp và các nhà từ thiện đã xây
cất một số trại để thu dung, chăm sóc các bệnh nhân phong sống lang thang
không nơi nương tựa: Trại Vân Môn- Thái Bình (1898), Trại Quả Cảm- Bắc
Ninh (1913), Trại Cù Lao Riêng, Trại Quy Hòa, Trại Bến Sắn…Sau năm
1954, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng một số khu điều trị phong có quy mô
lớn như Quỳnh Lập (Nghệ An), Phú Bình (Thái Nguyên), Sông Mã (Sơn La)
và nhiều khu điều trị phong nhỏ ở các tỉnh khác.
Bệnh phong đã từng làm cho mọi người ghê sợ, kinh hãi là do liên
quan đến tàn tật, dị hình trên người bệnh phong. Bệnh phong không gây chết
người nhưng dị hình tàn tật của bệnh nhân phong mọi người đều nhìn thấy. Vì

4
vậy, ngày xưa người bệnh bị đối xử tàn tệ, bị đày ải ở những nơi xa xôi hẻo
lánh thậm chí một số còn bị giết. Ngày nay người bệnh đang được chăm sóc
chu đáo và đối xử tận tình như những người mắc bệnh khác. Chính vì thế, gần
đây ở nhiều nước trên thế giới như ở Anh năm 1968, Hà Lan năm 1971 người
ta đã xoá bỏ trại phong. Ở Việt Nam hiện nay, bệnh phong được điều trị tại
nhà, các khu điều trị phong thu hẹp chỉ để dùng điều trị phục hồi chức năng cho
bệnh nhân phong bị tàn tật, thu dung điều trị những bệnh nhân có hoàn cảnh quá
nghèo và không còn khả năng lao động 26.

Năm 1982, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo điều trị bệnh phong bằng
cách phối hợp từ 2 đến 3 loại thuốc (MDT) nên đã rút ngắn thời gian điều trị,
giảm tỉ lệ tái phát và làm giảm đáng kể tỷ lệ bệnh nhân phong mới hàng năm.
1.2. Dịch tễ học bệnh phong
1.2.1. Tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh trong bệnh phong là trực khuẩn Mycobacterium
Leprae còn gọi là trực khuẩn Hansen (viết tắt: BH) 45, 56. Đây là một vi
khuẩn nội tế bào, có ái tính đặc biệt với tế bào Schwann của sợi thần kinh và các
tế bào thuộc hệ thống liên võng nội mô (có nhiều ở da) 3. Trực khuẩn gây
tổn hại thần kinh ngoại biên trong khi thần kinh trung ương không bao giờ bị
tổn thương 5. Trực khuẩn Hansen có hình que, khi nhuộm Ziehl-Neelsen bắt
màu đỏ. Cho đến nay, vẫn chưa nuôi cấy được trên môi trường nhân tạo4.
Năm 1960, Rees và Shepard đã tiêm truyền trực khuẩn Hansen vào gan chân
của chuột, trực khuẩn nhân lên và gây bệnh tại chỗ 56, 63. Năm 1971
Storrs đã gây bệnh toàn thân khi tiêm trực khuẩn trên con Armadillo 9
khoang, là loài gặm nhấm sống ở Trung Nam Mỹ 56,64. Nhờ đó các nhà
vi trùng học đã thu lượm được một lượng lớn trực khuẩn Hansen, trên cơ sở
đó giúp cho việc nghiên cứu trực khuẩn này một cách đầy đủ hơn.

5
Trực khuẩn Hansen phân chia 12-13 ngày 1 lần, nhiệt độ thích hợp
cho sự nhân lên của vi khuẩn từ 35
0
- 36
0
C, khi ra ngoài cơ thể nó có thể
sống được 1-7 ngày. Thời gian khi BH xâm nhập vào cơ thể đến khi xuất hiện
bệnh rất khó xác định, trung bình từ 2 đến 5 năm thậm chí lâu hơn 8.
1.2.2. Nguồn lây và cách lây truyền
1.2.2.1. Nguồn lây: Nguồn lây nhiễm là bệnh nhân mắc bệnh phong,

lây truyền từ người này qua người khác. Những bệnh nhân nhóm MB chưa
được điều trị là nguồn lây truyền quan trọng nhất 15. Không tìm thấy vật
chủ trung gian truyền bệnh như muỗi, rận, rệp và các côn trùng khác. Tuy
nhiên, người ta đã phát hiện một số con Armadillo sống hoang giã cũng mang
trực khuẩn Hansen.
1.2.2.2. Cách lây truyền: Trực khuẩn Hansen đột nhập vào cơ thể
người lành chủ yếu qua các vết xây xước, lở loét 45. Trực khuẩn Hansen được
bài xuất qua đường mũi họng và qua các vết lở loét ở da 45, 50, 56.
1.2.2.3. Yếu tố thuận lợi mắc bệnh phong
Miễn dịch trung gian tế bào (CMI) mạnh hay yếu có phần quyết định
trong việc có bị bệnh hay không và nếu bị bệnh thì sẽ thuộc thể bệnh nào
[20],[44],[65].
Yếu tố dinh dưỡng giảm làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Bệnh phong là bệnh lây nhưng khó lây, theo Lê Kinh Duệ tỷ lệ lây lan
giữa vợ và chồng là: 3%. Tỷ lệ lây khi tiếp xúc với thể L là: 6,23% [5],7.
Theo Badger tỷ lệ mẹ lây bệnh cho con ở Mỹ là 6,8%, bố lây cho con
chỉ có: 3%. Tác giả cho rằng con tiếp xúc với mẹ nhiều hơn 50,55.
Bệnh phong có thể gặp ở mọi lứa tuổi và mọi giới. Lứa tuổi hay gặp
nhất là 10-20 tuổi, hiếm gặp ở trẻ sơ sinh 56.
Hầu hết các nước trên Thế giới có tỷ lệ nam mắc bệnh cao hơn nữ.

6
Theo Noordeen, Ấn Độ có tỷ lệ bệnh nhân nam/nữ là 2/1 50.
1.2.3. Các cơn phản ứng phong
Một đặc điểm của bệnh phong là có thể xuất hiện các cơn phản ứng
phong. Những giai đoạn viêm là nguyên nhân gây tổn thương và hư hại thần
kinh. Hiện tượng viêm này là do hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công
M.leprae trong quá trình tiến triển của bệnh, có thể xuất hiện từng đợt cấp
tính, rầm rộ với nhiều biểu hiện khác nhau17. Bên cạnh tổn thương do viêm
các dây thần kinh, phản ứng phong còn gây chèn ép làm tổn hại dây thần

kinh. Phản ứng phong là một trong những nguyên nhân chính gây ra tàn tật
cho bệnh nhân 49. Vì vậy, hướng dẫn bệnh nhân phát hiện sớm và điều trị
đúng các cơn phản ứng phong là vô cùng quan trọng để phòng ngừa tàn tật.
Có 2 loại phản ứng phong: 3,38,45,[61].
- Phản ứng loại 1 hay còn gọi là phản ứng đảo ngược.
- Phản ứng loại 2 hay còn gọi là phản ứng hồng ban nút do phong.
Phản ứng loại 1(RR):
Có thể xảy ra trước, trong và sau khi được điều trị ở bệnh nhân phong
nhóm trung gian. Những triệu chứng chính của cơn phản ứng loại này là:
- Tổn thương cũ đang đáp ứng tốt với điều trị tự nhiên tấy đỏ, bờ tổn
thương nổi cao hơn, có thể phù nề, loét.
- Đôi khi xuất hiện thương tổn mới (thực chất là thương tổn cũ khó
phát hiện nay bị phản ứng phong hiện rõ hơn).
- Phù bàn chân, bàn tay.
- Dây thần kinh ngoại biên viêm to, đau dễ dẫn đến yếu, liệt cơ.
- Toàn thân có thể sốt, mệt mỏi, chán ăn.

7
Cơn phản ứng loại 1 rất dễ nhầm với bệnh phong tái phát.
Phản ứng loại 2 (ENL):
Có thể xảy ra trước, trong và sau khi điều trị ở những bệnh nhân
phong thể LL, BL.
Triệu chứng chính của loại này là:
- Xuất hiện các nút (nodule) ở dưới da, tính chất của nodule:
+ Nằm ở dưới da.
+ Xuất hiện đột ngột ở tứ chi hoặc ở mặt, lưng, đùi.
+ Kích thước bằng hạt lạc, ngô có thể loét.
+ Màu đỏ, sờ có cảm giác nóng.
+ Tồn tại khoảng 2 – 3 ngày, sau đó xẹp, bong vảy để lại vết thâm.
- Dây thần kinh bị viêm: To, đau, nhạy cảm.

- Dấu hiệu toàn thân:
+ Sốt, mệt mỏi, chán ăn.
+ Viêm hạch bạch huyết.
+ Viêm khớp, viêm tinh hoàn, viêm mống mắt thể mi,
1.2.4. Điều trị bệnh phong
Trước năm 1941: Người ta đã sử dụng các hóa chất, dầu thực vật để
điều trị, dầu đại phong tử (Chaulmoogra) và Sulfonamide hay được dùng
nhất. Tuy nhiên những thuốc này có hiệu quả kém, khó thực hiện và bệnh
nhân phải điều trị suốt đời [19].
Từ năm 1941 đến năm 1981: Faget, người Mỹ đã áp dụng Dapson
(DDS) điều trị hiệu quả bệnh phong tại Mỹ, Ấn Độ, Nigeria, Brazil. Năm
1948 thuốc này được sử dụng điều trị bệnh phong trên toàn Thế giới, tuy

8
nhiên thời gian điều trị bệnh quá dài. Năm 1964, DDS đã bị trực khuẩn phong
kháng lại với trường hợp đầu tiên được ghi nhận tại Malaysia, hơn nữa bệnh
nhân điều trị đơn thuần DDS lâu dài, tiêu diệt trực khuẩn phong chậm nên có
tỷ lệ tàn tật, tỷ lệ kháng thuốc cao.
Năm 1981 đến nay: Chính vì những nhược điểm của đơn hóa trị liệu
mà năm 1981, WHO đã khuyến cáo sử dụng đồng thời nhiều loại thuốc để
điều trị bệnh phong, đó là đa hóa trị liệu (MDT). MDT là biện pháp kết hợp
đồng thời từ 2 đến 3 loại thuốc để điều trị bệnh phong. Các thuốc sử dụng
trong MDT gồm: Rifampicin, Clofazimine và DDS [16],[19].
Ưu điểm của MDT [19]:
Rút ngắn thời gian điều trị từ hàng chục năm xuống chỉ còn 6

tháng
cho đến 1 năm.
Khỏi bệnh nhanh, cắt đứt nguồn lây nhanh (với liều Rifampicin
1500mg đã diệt được 99,9% trực khuẩn phong), MDT đã làm giảm nhanh

chóng tỷ lệ lưu hành ở nhiều Quốc gia. Đây là một ưu điểm cực kỳ quan trọng
của MDT vì tránh được lây nhiễm cho cộng đồng.
Phát hiện bệnh sớm, điều trị đúng phác đồ đa hóa sẽ giảm tàn tật, góp
phần làm xóa bỏ mặc cảm, thành kiến về bệnh phong trong cộng đồng.
1.2.5. Tình hình bệnh phong trên thế giới, Việt Nam và Nghệ An
1.2.5.1. Trên thế giới
Bệnh phong là bệnh lây truyền, lưu hành hàng nghìn năm trên khắp
các nước. Tính từ năm 1985 đến 2005 có khoảng trên 14 triệu người mắc
bệnh phong được điều trị khỏi [66].
Năm 1991 Tổ chức Y tế thế giới ra Nghị quyết loại trừ bệnh phong
với các mục tiêu cụ thể như sau 18:
- Phát hiện sớm.
- Đa hoá trị liệu đúng, đủ liều, kịp thời.

9
- Hạ thấp tỷ lệ lưu hành.
- Giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Mặc dù vậy, số bệnh nhân mới, tỷ lệ lưu hành ở các Châu lục vẫn còn cao:
Đến đầu năm 2001, trên thế giới đã có 113 nước đã đạt được chỉ tiêu
loại trừ bệnh phong ở cấp Quốc gia. Tuy nhiên, số bệnh nhân mới vẫn được
phát hiện một cách đều đặn hàng năm20. Đến năm 2005 vẫn còn 9 nước
chưa đạt tiêu chuẩn loại trừ bệnh phong: Công gô (TLLH:1,3), Tanzania
(TLLH:1,6), Ấn Độ (TLLH:2,4), Trung Phi (TLLH:2,6), Angola (TLLH:2,8),
Nepal (TLLH: 3,1), Madagasca (TLLH:3,4), Mozambic (TLLH:3,4), Brazil
(TLLH: 4,6) [66].
Lý do chưa đạt được mục tiêu loại trừ bệnh phong ở một số nước do:
- Tỷ lệ lưu hành ở một số nước còn quá cao.
- Nội chiến
- Vùng đặc biệt khó đến
- Mạng lưới chống phong ở một số vùng còn yếu.

- Phục hồi chức năng và phòng ngừa tàn tật chưa được chú ý.
Bảng 1.1. Phân bố bệnh phong trên thế giới năm 2005 [66]
Châu lục/ Vùng
Bệnh nhân điều
trị
Bệnh nhân mới
Châu Phi
47.596
42.814
Châu Mỹ
36.977
41.780
Đông Địa Trung Hải
5.398
3.133
Đông Nam Châu Á
186.182
201.635
Tây Thái Bình Dương
10.010
7.137
Cộng
286.163
296.499
1.2.5.2. Tại Việt Nam
Bệnh phong đã có từ lâu đời và là một trong những vấn đề xã hội trầm

10
trọng. Bệnh phong có rải rác ở các tỉnh trong cả nước. Qua nhiều thời kỳ, giai
đoạn, với nhiều chiến lược khác nhau, tỷ lệ lưu hành đã giảm một cách đáng

kể.Năm 1994: “Tuyên ngôn Hà Nội”: Tăng nhanh tốc độ công tác chống
phong bằng các đề án đặc biệt. Năm 1995, chương trình loại trừ bệnh phong
đã trở thành chương trình y tế Mục tiêu Quốc gia. Mặc dù vậy, số bệnh nhân
phong mới phát hiện hàng năm ở một số nơi vẫn còn nhiều. Cuối năm 2000
chỉ tính riêng 7 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Bình
Phước, Tây Ninh, Kiên Giang đã có 149/637 xã có ổ phong, những vùng này
phải tập trung sức người, sức của, thực hiện các dự án đặc biệt thì mới có khả
năng dập tắt được nguồn lây 11.
Bệnh phong không gây chết người, nhưng lại gây nên tàn tật/dị hình,
người bệnh bị hắt hủi, xa lánh. Sự thành kiến đó đã làm cho người bệnh trốn
tránh, dấu bệnh không đi điều trị, từ đó phát sinh ra tàn tật và lại gây thêm
thành kiến trong xã hội. Điều đó đã tạo nên vòng luẩn quẩn làm cho bệnh tồn
tại và lây truyền trong cộng đồng.
Bảng 1.2. BN phong mới, tỷ lệ lưu hành, tỷ lệ phát hiện ở Việt Nam
Năm
BN mới
Tỷ lệ
Lưu hành
Tỷ lệ
Phát hiện
Năm
BN mới
Tỷ lệ
Lưu hành
Tỷ lệ
Phát hiện
1996
2.883
0,63
3,83

2001
1.336
0,20
1,73
1997
1.808
0,61
3,65
2002
1.158
0,16
1,48
1998
2.162
0,44
2,74
2003
940
0,15
1,18
1999
1.795
0,27
2,35
2004
858
0,10
1,05
2000
1.477

0,23
1,94
2005
746
0,10
0.9
1.2.5.3. Tình hình bệnh phong ở tỉnh Nghệ An
Nghệ An là tỉnh đất rộng, người đông, có 10/19 huyện Miền núi, bệnh

11
nhân phong có ở rải rác tại tất cả các huyện, thành, thị trong tỉnh. Hoạt động
phòng, chống bệnh phong đã có từ những năm 60 của thế kỷ trước, có Trại
phong Quỳnh Lập là nơi thu dung điều trị bệnh nhân.
Năm 1987, Nghệ An áp dụng đa hoá trị liệu, rút ngắn được thời gian
điều trị cho bệnh nhân. Sau khi có chương trình Mục tiêu Quốc gia loại trừ
bệnh phong, một số huyện trong tỉnh vẫn còn là ổ phong. Từ năm 1996 đến
2004:
Số huyện có 5 năm liên tục phát hiện được phong mới: 3 huyện.
Số huyện trên 5 năm không liên tục phát hiện được phong mới: 4 huyện.
Số huyện có 4 năm liên tục phát hiện được phong mới: 1 huyện.
Bảng 1.3. Tỷ lệ lưu hành và tỷ lệ phát hiện từ 1991-2005 tại Nghệ An
Năm
TLLH
1/10.000
TLPH
1/100.000
Năm
TLLH
1/10.000
TLPH

1/100.000
Năm
TLLH
1/10.000
TLPH
1/100.000
1991
0,80
0,96
1996
0,33
1,44
2001
0,09
0,3
1992
0,49
0,75
1997
0,26
0,73
2002
0,08
0,3
1993
0,36
0,81
1998
0,21
0,74

2003
0,07
0,13
1994
0,32
1,01
1999
0,14
0,28
2004
0,04
0,13
1995
0,68
1,42
2000
0,09
0,28
2005
0,02
0,06


12
Bảng 1.4. Số bệnh nhân phong mới từ 1996 - 2005 tại Nghệ An.
Năm
BN phong mới
Năm
BN phong mới
1996

41
2001
9
1997
21
2002
9
1998
20
2003
4
1999
8
2004
4
2000
8
2005
2
Bảng 1.5. Số bệnh nhân đang điều trị hàng năm tại Nghệ An.
Năm
BN điều trị
trong năm
Năm
BN điều trị
trong năm
Năm
BN điều trị
trong năm
1991

208
1996
94
2001
26
1992
132
1997
75
2002
23
1993
99
1998
61
2003
22
1994
90
1999
42
2004
13
1995
193
2000
28
2005
7



13














Sơ đồ 1.1. “Vòng luẩn quẩn” liên quan đến tàn tật trong bệnh phong
(Lê Kinh Duệ, 1998)

6

.
1.3. Tàn tật trong bệnh phong
1.3.1. Căn nguyên
Sơ đồ 1.1 và 1.3 có thể giải thích nhiều lý do dẫn đến tàn tật trong bệnh
phong. Tuy nhiên người ta chia tàn tật trong bệnh phong thành 2 loại sau 2:
1.3.1.1. Tàn tật tiên phát
Tàn tật tiên phát là loại tàn tật do trực khuẩn phong trực tiếp gây ra tổn
thương dây thần kinh ngoại biên dẫn đến mất chức năng thần kinh.
- Viêm dây thần kinh do trực khuẩn phong 60,[54].

Viêm dây thần kinh là đặc điểm quan trọng nhất của bệnh phong và sự
xâm nhập vào thần kinh cũng là nét độc đáo của M.leprae 26.
Mắc bệnh phong
Không chữa trị
Dấu bệnh,
trốn tránh
Tâm lý sợ hãi
Bị tà n tật
Tạo thà nh kiến
Bắt đi tập trung
tại trại phong

14
Ngay từ khi bắt tay vào nghiên cứu mô bệnh học của bệnh phong,
Danielssen và Boeck (1848) đã xác định ái tính đặc biệt của trực khuẩn
Hansen với hệ thần kinh ngoại vi và coi đó gần như một nguyên lý.
Khanolkar 1954 và nhiều tác giả khác đã nhấn mạnh bệnh phong là một bệnh
của dây thần kinh ngoại vi ngay từ lúc bắt đầu 5,26.
M.leprae có thể vào dây thần kinh bằng các đường khác nhau:
+ Thứ nhất: M.leprae vào cơ thể qua sợi thần kinh trần trong biểu bì
và lan theo đường hướng tâm dọc theo các sợi trục thần kinh.
+ Thứ hai: M.leprae vào da bị thực bào bởi tế bào Schwann ở thượng
bì. Chúng nhân lên trong tế bào Schwann rồi tới các tế bào Schwann khác.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng M.leprae có ái lực đặc biệt với tế bào
Schwann và là tế bào túc chủ quan trọng của M.leprae.
+ Thứ ba: Các đại thực bào ở thượng bì bắt M.leprae, các đại thực
bào chứa M.leprae xâm nhập vào bao bó thần kinh rồi xâm nhập vào nội
mô thần kinh.
+ Thứ tư: Qua đường máu M.leprae di chuyển vào dây thần kinh.
Viêm dây thần kinh ngoại biên đóng một vai trò quan trọng trong

quá trình tiến triển của bệnh phong. Diễn biến có thể rầm rộ, cấp tính
hoặc có thể âm thầm, lặng lẽ. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị
kịp thời, nó sẽ gây tàn tật và để lại hậu quả trầm trọng cho người bệnh
25.
- Các giai đoạn viêm dây thần kinh 24
Khi trực khuẩn Hansen xâm nhập vào các dây thần kinh ngoại biên,
chúng sẽ gây tổn thương, huỷ hoại toàn bộ hay từng phần dây thần kinh.
Viêm dây thần kinh diễn biến có thể rầm rộ cấp tính hoặc có thể âm thầm lặng
lẽ, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời nó sẽ gây tàn tật. Tuy nhiên,

15
tuỳ theo từng giai đoạn mà có các tổn thương khác nhau.
Giai đoạn 1: Giai đoạn viêm
Đây là giai đoạn sớm, biểu hiện bằng các triệu chứng:
+ Dây thần kinh to hơn bình thường.
+ Tăng nhạy cảm (sờ vào cảm thấy đau).
+ Đau liên tục (đau tự nhiên, không sờ vào cũng đau).
Ở giai đoạn này, chưa có biểu hiện mất chức năng của các cơ quan
chịu sự chi phối của dây thần kinh.
Giai đoạn 2: Dây thần kinh bị tổn thương
Giai đoạn này các cấu trúc của dây thần kinh bị tổn thương nên các
chức năng của nó bị ảnh hưởng. Các cơ quan được dây thần kinh chi phối bị
ảnh hưởng: Cơ bị yếu hoặc liệt, da bị khô và mất cảm giác.
Điều quan trọng là phát hiện sớm trong thời gian không quá 9
tháng. Nếu tại thời điểm này bệnh nhân được điều trị đúng phác đồ, uống
thuốc đều thì các chức năng có thể hồi phục, tránh được các hậu quả trầm
trọng.
Giai đoạn 3: Dây thần kinh bị hủy hoại
Đây là giai đoạn cuối của quá trình viêm dây thần kinh. Các dấu hiệu
chính của dây thần kinh bị hủy hoại:

+ Liệt thần kinh hoàn toàn.
+ Các chức năng thần kinh không thể phục hồi mặc dù được điều trị.
- Hậu quả của tàn tật tiên phát 48
Ở thể nhiều vi khuẩn, trực khuẩn Hansen có thể thấy ở trong tất cả các
thân thần kinh và hạn hữu trong hạch rễ tuỷ sống, nhưng sự tổn hại chỉ hạn

16
chế ở ngoại vi, không có bằng chứng có sự tổn hại ở hệ thần kinh trung ương,
não hoặc tuỷ sống. Đối với thần kinh ngoại vi, sự tổn hại đưa đến mất cảm
giác, liệt vận động, rối loạn vận mạch, da khô 26.
+ Rối loạn hoặc mất cảm giác: Do tổn thương nhánh thần kinh cảm
giác nên bệnh nhân không biết đau, không biết nóng, lạnh, sờ mó.
+ Da khô, dinh dưỡng kém: Do sợi thần kinh thực vật bị tổn thương
gây rối loạn vận mạch làm teo mạch máu, giảm hoặc không bài tiết mồ hôi
dẫn đến làm khô da.
+ Yếu cơ/ liệt cơ, biến dạng khớp: Các sợi thần kinh vận động bị tổn
thương làm cho yếu cơ, liệt cơ không hoàn toàn hoặc hoàn toàn. Bình thường
các cơ gấp, duỗi hoạt động bình thường, khi cơ bị yếu, liệt dần dần làm cho
khớp bị biến dạng do vận động quá tầm.
+ Tổn thương mắt: Tổn thương dây thần kinh V làm mất cảm giác
giác mạc, viêm dây thần kinh VII gây yếu hoặc liệt cơ vòng mi làm mắt nhắm
không khít, tổn thương giác mạc do bụi hậu quả sẽ gây mù mắt.
1.3.1.2. Tàn tật thứ phát
- Nguyên nhân của tàn tật thứ phát
Tàn tật thứ phát là loại hình tàn tật do hậu quả của tàn tật tiên phát. Bản
thân bệnh nhân không được giáo dục y tế, kém hiểu biết về bệnh, không có ý
thức tự giác trong chăm sóc bàn tay, bàn chân mất cảm giác, không biết sử
dụng bàn tay có ngón tay cò, không biết phòng ngừa thương tích ở mắt nên bị
nhiễm trùng, lở, loét gây thương tích, cụt, mù lòa.
- Hậu quả tàn tật thứ phát

Loét lỗ đáo, cụt ngón tay, ngón chân, bàn tay, bàn chân.
Mắt bị sang chấn, viêm nhiễm dẫn đến giảm sút thị lực, mù lòa.

17
Thương tổn thứ phát thường nhiều và vô cùng nghiêm trọng.
Đây là loại hình tàn tật gây hậu quả nghiêm trọng nhất nhưng cũng có
khả năng đề phòng được bằng cách giáo dục y tế cho người bệnh và người
nhà của họ biết cách giữ gìn, chăm sóc mắt, bàn tay, bàn chân khi có biểu
hiện của tàn tật tiên phát.
BH  Tổn thương thần kinh ngoại biên


Liệt sợi TK vận động TK cảm giác TK giao cảm

Tàn tật tiên phát: Teo cơ, yếu liệt cơ Mất cảm giác Khô da


Di lệch, co rút Bỏng/chấn thương Nứt rạn da


Nhiễm trùng


Tàn tật thứ phát: Loét + Cụt rụt ngón tay/ chân, bàn tay/ chân
Giảm thị lực, loét giác mạc, mù
Sơ đồ 1.2. Nguyên nhân dẫn đến tàn tật trong bệnh phong
(Kelly Ellen Davis Ph.D)

47





18
1.3.2. Phân độ tàn tật của WHO [2], [26], [40], [59]
1.3.2.1. Bàn tay, bàn chân
Độ 0: Không mất cảm giác, không có tàn tật.
Độ 1: Mất cảm giác lòng bàn tay, bàn chân, không có tàn tật nhìn thấy.
Độ 2: Có các tàn tật nhìn thấy được (cò ngón, rụt ngón, teo cơ, loét,
cụt, rụt ).
1.3.2.2. Mắt
Độ 0: Không có tổn thương, thị lực không bị ảnh hưởng.
Độ 1: Có tổn thương nhưng thị lực ảnh hưởng không nghiêm trọng (có
thể đếm được ngón tay ở khoảng cách 6 mét )
Độ 2: Thị lực bị ảnh hưởng nghiêm trọng: Không đếm được ngón tay
ở khoảng cách 6 mét, có mắt thỏ, đục giác mạc, viêm mống mắt thể mi.
1.3.3. Các yếu tố liên quan đến xuất hiện tàn tật
1.3.3.1. Thời gian từ khi mắc bệnh cho đến khi phát hiện bệnh
Càng phát hiện bệnh sớm càng ít bị tàn tật, điều này phụ thuộc vào
giáo dục y tế cho bệnh nhân và cán bộ y tế. Nếu người bệnh biết các dấu
hiệu sớm của bệnh phong sẽ tự tìm đến thầy thuốc sớm để phát hiện sớm và
điều trị sớm.
Thời gian phát hiện bệnh càng muộn, tàn tật xuất hiện càng nhiều.
Tàn tật xuất hiện ở phong củ: Từ khi có dấu hiệu bệnh đến khi phát
hiện tối thiểu là 1 năm, tối đa là 11 năm trung bình là 4 năm.
Tàn tật xuất hiện ở phong u: Tối thiểu là 3 năm tối đa là 15 năm trung
bình là 9 năm [26].
Thời gian phát hiện sớm hay muộn đóng một vai trò vô cùng quan

19

trọng trong việc phòng, chống tàn tật cho bệnh nhân phong. Tuy nhiên, điều
này hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết của cộng đồng cũng như cán bộ y tế
về những triệu chứng sớm của bệnh. Vì vậy, giáo dục y tế là một hoạt động
chủ chốt trong phòng, chống bệnh phong nói chung và phòng, chống tàn tật
nói riêng.
1.3.3.2. Số lượng, vị trí tổn thương
Càng nhiều tổn thương trên da càng có nhiều nguy cơ gây tàn tật. Trên
10 tổn thương tỷ lệ phát ra tàn tật khoảng trên 15%. Có 1 tổn thương tỷ lệ
phát ra tàn tật khoảng 3%.
Thương tổn ở gần mắt dễ gây các tàn tật ở mắt. Thương tổn ở gần vị
trí dây thần kinh đi qua dễ bị tàn tật vận động.
1.3.3.3. Thể bệnh
Nhóm nhiều vi khuẩn nguy cơ tàn tật cao hơn nhóm ít vi khuẩn.
1.3.3.4. Phản ứng phong
Phản ứng loại 1 tàn tật diễn ra nhanh và mạnh sau phản ứng nhưng chỉ
gây tổn hại 1 hoặc 2 thần kinh chọn lọc. Phản ứng loại 1 xảy ra ở thể BB là
nguy hiểm nhất vì thần kinh bị tổn thương nhanh và nặng.
Phản ứng loại 2 tàn tật xảy ra chậm, có khi nhiều đợt phản ứng
trong nhiều năm mới xuất hiện tàn tật và thường bị tổn hại nhiều thần kinh
và đối xứng.
1.3.3.5. Tuổi, giới và nghề nghiệp
Tuổi: Tuổi càng cao tàn tật càng nhiều.
Giới: Nam bị tàn tật nhiều hơn hơn nữ.
Nghề nghiệp: Làm nhiều nghề nặng nhọc, các nghề lao động chân tay
dễ phát tàn tật [62].

20
1.3.3.6. Điều kiện kinh tế và trình độ văn hoá
Người có điều kiện kinh tế khá, có trình độ văn hoá cao họ sẽ ý thức
giữ gìn vì vậy tàn tật ít và nhẹ hơn.

1.3.3.7. Kiến thức, thái độ và thực hành (KAP) của bệnh nhân
KAP đóng một ai trò quan trọng trong phòng chống tàn tật trong suốt
quá trình điều trị và chăm sóc tàn tật của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân hiểu biết
( K: Knowledge), có thái độ (A: Attitute) đúng đắn và thực hành (P: Practice)
tốt theo hướng dẫn của thầy thuốc thì sẽ tránh được tàn tật. Thực tế cho thấy
thiếu hiểu biết về nguyên nhân tàn tật, lơ là trong việc chăm sóc bàn tay, bàn
chân mất cảm giác thì chắc chắn tàn tật sẽ xẩy ra.
1.3.4. Tình hình tàn tật trong bệnh phong
1.3.4.1. Tình hình tàn tật ở bệnh nhân phong trên thế giới
Hoạt động loại trừ bệnh phong đã có nhiều tiến bộ rút ngắn được thời
gian điều trị, hạ được tỷ lệ lưu hành, tỷ lệ phát hiện ở nhiều vùng, khu vực
trên thế giới. Mặc dù vậy số bệnh nhân mới được phát hiện hàng năm vẫn còn
bị tàn tật.
Bảng 1.6. Tỷ lệ tàn tật độ 2 trên BN phong mới năm 2005 [66] .

Tỷ lệ tàn tật độ 2 ở BN phong mới
Châu Mỹ
Argentina: 1,7%.
Mexico: 11,1%.
Châu Phi
Comoros: 3%.
Benin: 21,7%
Đông Nam Á
Ấn Độ: 1,9%.
Đông Timo: 21,2%
Tây Á Thái Bình Dương
Trung Quốc: 21,3%
1.3.4.2. Tình hình tàn tật trên bệnh nhân phong ở Việt Nam

21

Bảng 1.7. Tàn tật độ 2 ở BN phong mới của VN từ 1996 - 2005
Năm
Tàn tật
độ 2 ở
phong
mới
Tỷ lệ
tàn tật
độ 2
(%)
BN được
chăm sóc
phòng,
chống tàn
tật
Năm
Tàn
tật độ
2 ở
phong
mới
Tỷ lệ
tàn tật
độ 2
(%)
BN được
chăm sóc
phòng,
chống tàn
tật

1996
909
31,53
7.006
2001
267
19,99
15.300
1997
854
30,40
6.321
2002
225
19,43
16.208
1998
626
28,95
7.500
2003
179
18,86
16.500
1999
450
25,07
7.679
2004
145

16,90
16.500
2000
309
20,92
8.598
2005
121
16,22
10.230

Bảng 1.8. Tàn tật độ 2 ở BN phong mới của một số tỉnh năm 2005.

Tàn tật độ 2 ở bệnh nhân phong mới phát hiện
Số bệnh nhân
Tỷ lệ (%)
Lai Châu
2/5 BN
40%
Thanh Hóa
1/3 BN
33,3%
Quảng Nam
1/7 BN
14,3%
Gia Lai
11/75 BN
14,7%
Kon Tum
5/39 BN

12,8%
Bình Thuận
11/51BN
21,6%
Hậu Giang
5/15 BN
33,3%

1.3.4.3. Tình hình tàn tật trên bệnh phong ở Nghệ An

22
Bảng 1.9. Tàn tật ở BN phong của Nghệ An từ 1996 - 2005
Năm
Tàn
tật
độ1+2
ở BN
phong
mới
Tỷ lệ
tàn tật
độ 2
(%)
BN được
chăm
sóc
phòng,
chống
tàn tật
Năm

Tàn tật
độ 1+2
ở BN
phong
mới
Tỷ lệ
tàn
tật
độ 2
(%)
BN được
chăm sóc
phòng,
chống
tàn tật
1996
19
41,4
213
2001
3
22,2
152
1997
13
52,3
191
2002
5
40,0

134
1998
8
23,8
154
2003
0
0
142
1999
3
12,5
146
2004
2
0
129
2000
4
12,5
153
2005
0
0
128

1.3.5. Các biện pháp cơ bản phòng chống tàn tật
Để ngăn ngừa phòng tránh tàn tật cho bệnh nhân phong cần phải có sự
kết hợp giữa cán bộ y tế, bản thân người bệnh và cả cộng đồng để cùng hợp
tác trong phát hiện sớm bệnh nhân, quản lý và chăm sóc người bệnh.

1.3.5.1. Phát hiện sớm bệnh nhân
Bệnh nhân được phát hiện sớm thường là thể nhẹ, chưa có tàn tật nên
điều trị khỏi nhanh, tuy nhiên người cán bộ y tế phải đôn đốc nhắc nhở bệnh
nhân uống thuốc đều, đủ liều và giám sát theo dõi họ trong thời gian đang
uống thuốc, sau uống thuốc giúp phát hiện điều trị ngăn chặn các yếu tố nguy
cơ/ ảnh hưởng dẫn đến tàn tật [5],[6],[19].
Các phương pháp phát hiện bệnh nhân phong mới có rất nhiều, song
có thể quy tụ vào 2 phương pháp chính: Thụ động và chủ động [6].
Phương pháp thụ động: Là phương pháp bệnh nhân tự đến với thầy

23
thuốc khi nghi ngờ mình bị bệnh. Đây là kết quả của công tác tuyên truyền
giáo dục y tế. Giáo dục y tế là một nhiệm vụ quan trọng cần phải xã hội hóa
[13], ngành y tế là nòng cốt tuyên truyền giúp mọi người biết được các biểu
hiện sớm của bệnh để họ tự giác đến khám tại các cơ sở y tế. Thông qua tuyên
truyền, các cán bộ y tế đa khoa có kiến thức về bệnh phong, nên khi nghi ngờ
họ sẽ chuyển bệnh nhân khám chuyên khoa nhờ đó phát hiện được bệnh nhân
sớm hơn.
Phương pháp chủ động: Là phương pháp thầy thuốc tìm kiếm bệnh
nhân thông qua khám toàn dân, khám từng cụm dân cư, khám người tiếp
xúc.
1.3.5.2. Quản lý theo dõi bệnh nhân
Mục đích của nhiệm vụ này là đánh giá tình trạng của bệnh, xác định
được “nhóm nguy hiểm”. Đây là nhóm bệnh nhân đã có tàn tật và các tàn tật
đang tiến triển xấu hoặc có nguy cơ xuất hiện tàn tật mới. “Nhóm nguy cơ” là
nhóm chưa có tàn tật nhưng dễ xuất hiện tàn tật bất cứ lúc nào [19], [24]. Cán
bộ y tế của 3 tuyến (tỉnh, huyện, xã) có lịch định kỳ khám kiểm tra tại nhà
bệnh nhân.
Song song với việc đánh giá tình trạng của bệnh nhân, điều trị cho họ,
người bệnh cần được hướng dẫn biết cách tự chăm sóc hàng ngày, tự theo dõi

và khi thấy các dấu hiệu bất thường phải báo ngay cho thầy thuốc.
Chương trình phòng ngừa tàn tật có hiệu quả thì phải có sự phối hợp
giữa cán bộ y tế và bệnh nhân. Bệnh nhân cần được biết [19]:
Biết các dấu hiệu sớm của bệnh, phát hiện tiến triển xấu của tàn tật.
Biết cách phát hiện các dấu hiệu của cơn phản ứng phong, đặc biệt là
viêm dây thần kinh [49].
Biết cách tự chăm sóc, bảo vệ bàn tay, bàn chân mất cảm giác, các

24
thương tích tại bàn tay, bàn chân.
Biết cách bảo vệ, chăm sóc mắt.
Có hành động phù hợp và kịp thời khi phát hiện ra các dấu hiệu
bất thường.
1.3.5.3. Bệnh nhân cần thực hiện
- Phòng ngừa tàn tật cho bàn tay, bàn chân:
+ Biện pháp ngăn ngừa tàn tật ở bàn tay, bàn chân mất cảm giác:
Thực hiện 3 không và thực hiện 4 nên.
+ Biện pháp ngăn ngừa tàn tật ở bàn tay, bàn chân đã có biến dạng:
Bệnh nhân cần phải luyện tập các động tác do thầy thuốc chuyên khoa
hướng dẫn, đi dày dép thích hợp, hạn chế đi nhiều nhất là trên đường gồ ghề,
không đứng quá lâu.
- Phòng ngừa tàn tật cho mắt :
Biện pháp bảo vệ mắt: Thường xuyên rửa mặt bằng khăn sạch nước
sạch, khi đi nắng phải mang kính râm, soi gương kiểm tra mắt hàng ngày.
Biện pháp bảo vệ mắt khi có tổn thương: Khi có dấu hiệu yếu cơ cần
tập luyện chớp mắt mỗi ngày 3-4 lần mỗi lần 30-40 chớp, che mắt khi ngủ.
Khi bàn tay, bàn chân, mắt có các dấu hiệu bất thường phải nhanh
chóng thông báo cho cán bộ y tế để xử lý kịp thời.



25
Sơ đồ 1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tàn tật trong bệnh phong








×