Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

thực trạng ốm đau của người dân tại hai xã có và không trồng, chế biến thuốc lá tại huyện võ nhai, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.65 KB, 99 trang )

B GIO DC V O TO B Y T

TRNG I HC Y H NI





NGUYN C THNH





THựC TRạNG ốM ĐAU CủA NGƯờI DÂN TạI HAI Xã
Có V KHÔNG TRồNG, CHế BIếN THUốC Lá TạI
HUYệN Võ NHAI, TỉNH THáI NGUYÊN






LUN VN THC S Y T CễNG CNG






H Ni 2010


B GIO DC V O TO B Y T

TRNG I HC Y H NI




NGUYN C THNH


THựC TRạNG ốM ĐAU CủA NGƯờI DÂN TạI HAI Xã
Có V KHÔNG TRồNG, CHế BIếN THUốC Lá TạI
HUYệN Võ NHAI, TỉNH THáI NGUYÊN



Chuyờn ngnh : Y t cụng cng
Mó s : 60.72.76

LUN VN THC S Y T CễNG CNG





Ngi hng dn khoa hc:
TS. KIM BO GIANG





H Ni - 2010
LỜI CẢM ƠN

Trước tiên em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sâu sắc tới:
• Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học trường Đại học Y
Hà Nội.
• Đảng ủy, Ban giám đốc Bệnh viện Bưu Điện Hà Nội.
• Các thầy, cô trong Khoa Y tế công cộng, trường Đại học Y Hà Nội đã
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và rèn
luy
ện hai năm vừa qua.
Đặc biệt em xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới:
Tiến sỹ Kim Bảo Giang, đã cho em ý tưởng của luận văn, giúp em tìm
được đề tài hay, thiết thực và tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em
trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Các bạn điều tra viên, giám sát viên của trường Đại học Y Hà Nội, đã
nhiệt tình giúp đỡ, phối hợp trong quá trình kh
ảo sát, phỏng vấn, thu thập số
liệu nghiên cứu tại Thái Nguyên một cách nhanh chóng và chính xác.
Đảng ủy, Ủy ban nhân dân và nhân dân hai xã Lâu Thượng và Phú
Thượng đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi thực hiện nghiên cứu này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn cùng khóa, đồng nghiệp, gia
đình và người thân đã giúp đỡ, động viên, để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
Học viên

Nguyễn Đức Thịnh
LỜI CAM ĐOAN


Kính gửi:
• Phòng Đào tạo sau đại học
• Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ
• Khoa Y tế công cộng, trường Đại học Y Hà Nội.
Tôi xin cam đoan đã thực hiện quá trình làm luận văn một cách khoa
học, chính xác, trung thực.
Các số liệu và kết quả trong luận văn này là của tôi và chưa được đăng
tải trên tài liệu khoa học.
Nếu có sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 10 n
ăm 2010
Học viên

Nguyễn Đức Thịnh

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương I: TỔNG QUAN 3
1.1. ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC LÁ 3
1.1.1.Ảnh hưởng của thuốc lá đối với sức khỏe 3
1.1.2. Ảnh hưởng của thuốc lá đối với môi trường 9
1.1.3. Ảnh hưởng của thuốc lá đối với kinh tế - xã hội 12
1.2. TÌNH HÌNH TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN THUỐC LÁ 15
1.2.1. Tình hình trồng và chế biến thuốc lá trên thế giới 15
1.2.2. Tình hình trồng và chế biến thuốc lá ở Việt Nam 19
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRỒNG THUỐC LÁ VÀ SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN TRỒNG THUỐC LÁ 21

1.3.1. Một số nghiên cứu của nước ngoài 21

1.3.2. Một số nghiên cứu trong nước 23
Chương II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 26
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 28
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu 28
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 28
2.3.3. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu: 30
2.3.4. Quy trình thu thập số liệu 30
2.3.5. Công cụ thu thập số liệu 31
2.3.6. Xử lý và phân tích số liệu 31
2.4. CHỈ SỐ NGHIÊN CỨU, PHƯƠNG PHÁP VÀ CÔNG CỤ THU
THẬP THÔNG TIN 32

2.5. MỘT SỐ KHÁI NIỆM, ĐỊNH NGHĨA VÀ TIÊU CHUẨN SỬ DỤNG
TRONG NGHIÊN CỨU 34
2.6. KHỐNG CHẾ SAI SỐ TRONG NGHIÊN CỨU 35

2.7. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU 35
2.8. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 36
2.9. HẠN CHẾ TRONG NGHIÊN CỨU 36
Chương III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 37
3.1. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 37
3.2. THÔNG TIN VỀ TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN THUỐC LÁ 42
3.3. THỰC TRẠNG ỐM ĐAU CỦA NGƯỜI DÂN 2 XÃ 48

3.3.1. Tình hình mắc các triệu chứng cấp tính 48
3.3.2. Tình hình mắc các bệnh mãn tính 51
3.4. MỐI LIÊN QUAN GIỮA ỐM ĐAU VỚI TRỒNG, CHẾ BIẾN
THUỐC LÁ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ DÂN SỐ, KINH TẾ XÃ HỘI VÀ

HÀNH VI 55

Chương IV: BÀN LUẬN 65
4.1. Thực trạng ốm đau của người dân 2 xã có và không trồng, chế biến
thuốc lá. 66

4.2. Mối liên quan giữa ốm đau và một số yếu tố dân số, kinh tế, văn hóa
xã hội và hành vi. 70

KẾT LUẬN 75
KHUYẾN NGHỊ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

CHỮ VIẾT TẮT
BAT
British American Tobacco

(Tập đoàn thuốc lá Anh-Mỹ)
CDC
Center for Diseases Control

(Trung tâm kiểm soát bệnh tật Mỹ)
CO
Oxyt Carbon
COPD
Chronic Obstructive Pulmonary Disease

(Bệnh tắc nghẽn lưu thông không khí trong phổi)
EPA

Enviroment Protection Agency

(Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ)
FDA
Food and Drug Administration

(Cơ quan kiểm soát dược và thực phẩm Mỹ)
FCTC
Framework Convention on Tobacco Control

(Công ước khung về kiểm soát thuốc lá)
GDP
Gross Domestic Product

(Tổng sản phẩm quốc nội)
GTS
Green Tobacco Sickness

(Hội chứng thuốc lá xanh)
KAD
Không áp dụng
HCBVTV
Hóa chất bảo vệ thực vật
IRR
Incident Rate Ratio

(Tỷ lệ gia tăng nguy cơ)
NIOSH
National Institude for Occupational safety and Health


(Viện quốc gia an toàn - Sức khỏe nghề nghiệp Mỹ)
SD
Standard Deviation

(Độ lệch chuẩn)
OR
Odd Ratio

(Tỷ suất chênh)
TCYTTG
Tổ chức Y tế thế giới
TH
Tiểu học
THPT
Trung học phổ thông
WB
World Bank

(Ngân hàng thế giới)
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Thông tin về đối tượng điều tra theo giới 37
Bảng 3.2. Thông tin về đối tượng điều tra theo nhóm tuổi 37
Bảng 3.3. Thông tin về đối tượng điều tra theo trình độ học vấn 38
Bảng 3.4.
Thông tin về đối tượng điều tra theo nghề nghiệp chính 12
tháng qua
39
Bảng 3.5. Thông tin về đối tượng điều tra theo phân nhóm quintile 39
Bảng 3.6.
Nhà ở và một số điều kiện vệ sinh môi trường của các hộ

gia đình được điều tra
40
Bảng 3.7.
Thời gian trung bình tham gia trồng, chế biến thuốc lá của
người dân xã Lâu Thượng được điều tra theo giới, nhóm
tuổi, học vấn, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế
43
Bảng 3.8.
Thời gian dành cho việc trồng và chăm sóc các loại cây
trồng trong một tháng trước ngày phỏng vấn
44
Bảng 3.9.
Thời gian trồng và chế biến thuốc lá (trong tháng trước) tại
Lâu Thượng
45
Bảng 3.10.
Thực trạng việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, tăng
trưởng và hút thuốc lá, uống rượu/bia của người được điều
tra (trong một tháng trước ngày phỏng vấn)
46
Bảng 3.11.
Tỷ lệ mắc các triệu chứng của người được điều tra trong 1
tháng trước ngày điều tra
49
Bảng 3.12.
Số lần triệu chứng ốm đau xuất hiện trung bình của người
được điều tra trong 1 tháng trước ngày điều tra
50
Bảng 3.13.
Tình hình mắc các bệnh được nhân viên y tế chẩn đoán

của người được phỏng vấn trong 1 tháng trước ngày phỏng
vấn theo từng nhóm/bệnh
52
Bảng 3.14. Tự đánh giá tình trạng sức khỏe của người được điều tra 53
Bảng 3.15.
Mô hình hồi quy logistic về tình trạng ốm đau của các
nhóm theo các đặc điểm về dân số, kinh tế, văn hóa, hành
vi (không có nhóm trình độ học vấn): tỷ suất chênh và
khoảng tin cậy 95%
54
Bảng 3.16.
Mô hình Poisson về tỷ số tỷ lệ mắc ốm đau theo các đặc
điểm về dân số, kinh tế, văn hóa, hành vi (không có nhóm
trình độ học vấn)
56
Bảng 3.17.
Mô hình hồi quy logistic về tình trạng ốm đau của các
nhóm theo các đặc điểm về dân số, kinh tế, văn hóa, hành
vi (có nhóm trình độ học vấn)
59
Bảng 3.18.
Mô hình Poisson về tỷ số tỷ lệ mắc ốm đau theo các đặc
điểm về dân số, kinh tế, văn hóa, hành vi (có nhóm trình
độ học vấn)
62






DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1.
Tình hình tham gia trồng và chế biến thuốc lá của người được
điều tra xã Lâu Thượng
42
Biểu đồ 3.2.
Mức độ bảo vệ khi sử dụng trang bị bảo hộ của người được
điều tra khi tham gia lao động (trong tháng trước)
47
Biểu đồ 3.3.
Tỷ lệ có các triệu chứng ốm trong 1 tháng qua của người được
điều tra
48
Biểu đồ 3.4.
Tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính được nhân viên y tế chẩn đoán
trong một tháng trước ngày điều tra
51








1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tác hại của thuốc lá đã được khẳng định trong rất nhiều y văn và tài
liệu đã xuất bản ở nhiều nước trên thế giới. Tác hại của việc sản xuất và sử

dụng các sản phẩm thuốc lá đến sức khỏe cộng đồng, phát triển kinh tế, môi
trường và các vấn đề xã hội là mối quan tâm lo ngại đối với nhiều quốc gia
trên thế giớ
i trong đó có Việt Nam.
Các nghiên cứu dịch tễ học cũng chỉ rõ thuốc lá là nguyên nhân của
nhiều loại bệnh nguy hiểm như ung thư phổi, bệnh phổi mạn tính, nhồi máu
cơ tim và hàng loạt các vấn đề sức khỏe khác. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế
thế giới (TCYTTG), hàng năm có trên 4 triệu người chết do các bệnh liên
quan đến thuốc lá, dự tính đến năm 2030 sẽ có khoảng 10 triệu người chế
t vì
khói thuốc lá mỗi năm, trong đó 70% là ở các nước đang phát triển [1], [15].
Tại Việt Nam, theo dự báo của TCYTTG có khoảng 10% dân số Việt
Nam sẽ tử vong sớm do các bệnh liên quan đến thuốc lá và một nửa số các
trường hợp tử vong là ở độ tuổi lao động, dự báo đến năm 2020 số người chết
vì thuốc lá sẽ nhiều hơn tổng số người chết do HIV/AIDS, lao, tai nạn giao
thông đường b
ộ [6]. Theo ước tính của TCYTTG hàng năm có khoảng 40.000
người tử vong do thuốc lá, dự báo vào năm 2030, con số này sẽ tăng lên tới
70.000 người mỗi năm [25].
Mặt dù tỷ lệ tử vong vì thuốc lá ngày càng tăng, nhưng số lợi nhuận
khổng lồ đem lại cho ngành công nghiệp thuốc lá cũng như đóng góp cho ngân
sách nhà nước, giải quyết việc làm và thu nhập cho một bộ phận người lao
động là bài toán đặt ra với chính ph
ủ các nước, trong đó có Việt Nam.
Để tối đa hóa lợi nhuận, ngành công nghiệp thuốc lá luôn khuyến khích
các quốc gia nhất là các nước đang phát triển cũng như người nông dân những
nước này trồng ngày càng nhiều cây thuốc lá, coi thuốc lá là thứ có thể mang
lại sự thịnh vượng cho người nông dân, cộng đồng và đất nước. Theo thống kê
của Ngân hàng thế giới (WB), trên thế giới có khoảng hơn 100 quốc gia trồng


2
thuốc lá và khoảng 33 triệu người tham gia công việc trồng cây thuốc lá [15].
Việt Nam là quốc gia đang phát triển có điều kiện khí hậu nhiệt đới thuận lợi
cho việc trồng thuốc lá và cũng đang là đích đến của các công ty thuốc lá.
Theo thống kê, hiện nay Việt Nam có trên 200.000 nông dân trồng thuốc lá và
hàng trăm ngàn lao động trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại liên quan đến
thuốc lá [2].
Do những tác động tiêu cực c
ủa thuốc lá tới mọi mặt của đời sống con
người, nên hiện nay hầu hết chính phủ các nước đã xây dựng chính sách
quốc gia về kiểm soát thuốc lá, trong đó mối quan tâm hàng đầu của các
quốc gia là bảo vệ đến sức khỏe mọi người. Mặc dù với mức độ quan tâm
khác nhau do có điều kiện khác nhau về kinh tế, văn hóa, chính trị, nhưng
đều với mục đích làm giả
m sự đau đớn về thể xác và những mất mát về tinh
thần tạo ra bởi gánh nặng bệnh tật và tử vong do thuốc lá gây nên. Tại Việt
Nam, một loạt các văn bản pháp quy về kiểm soát thuốc lá đã được Chính
phủ phê duyệt, trong đó đặc biệt quan trọng là Việt Nam đã tham gia ký
Công ước khung của Tổ chức Y tế thế giới về kiểm soát thuốc lá đưa ra ngày
11/11/2004 [11].
Hiện nay nh
ững nghiên cứu về thuốc lá tại Việt Nam vẫn chủ yếu là
nghiên cứu về vấn đề tác hại của hút thuốc lá, vẫn còn rất ít nghiên cứu đề cập
đến nguy cơ sức khỏe liên quan đến trồng và chế biến thuốc lá. Để góp phần
cung cấp các thông tin đáng tin cậy về nguy cơ sức khỏe liên quan đến trồng,
và chế biến thuốc lá, chúng tôi thực hiện đề tài: “Thực trạ
ng ốm đau của
người dân tại 2 xã có và không trồng và chế biến thuốc lá tại huyện Võ Nhai,
tỉnh Thái Nguyên”, nhằm mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng ốm đau của người dân 2 xã có và không trồng, chế

biến thuốc lá tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, năm 2010.
2. Phân tích mối liên quan giữa ốm đau với trồng, chế biến thuốc lá và
một số yếu tố dân số, kinh tế vă
n hóa xã hội và hành vi của người
dân 2 xã huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

3
Chương I
TỔNG QUAN
1.1. ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC LÁ
1.1.1. Ảnh hưởng của thuốc lá đối với sức khỏe
Thuốc lá là lá của cây nicotinana tabacum hay các loại cây tương tự
được phơi khô, dùng hút, nhai hoặc làm thuốc hít. Thuốc lá được tìm ra ở
Châu Mỹ từ thế kỷ XV, đến đầu thế kỷ XIX thuốc lá đã được sản xuất và sử
dụng rộng rãi trên toàn cầu. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XX ảnh hưởng c
ủa
thuốc lá đến sức khỏe con người mới được phát hiện [15].
Theo điều tra, hiện nay trên thế giới có trên 33 triệu người làm việc
trong ngành trồng cây thuốc lá. Bệnh nghề nghiệp đặc trưng cho những
người này là bệnh “say lá thuốc” hay còn gọi là hội chứng thuốc lá xanh
(green tobacco sickness-GTS), là một dạng nhiễm độc nicôtin qua da do
chạm phải lá cây thuốc lá còn ướt trong quá trình chăm sóc cây trồng. Do
nicôtin là loại alkaloid dễ hòa tan trong nước nên thường tích tụ trong các
hạt sương hoặc nước mưa đọng trên lá cây, khi người công nhân chạm phải
các lá cây còn ướt, họ sẽ hấp phụ nicôtin trực tiếp qua da của mình. Các
triệu chứng nhiễm độc xảy ra trong vòng vài giờ sau khi tiếp xúc và giảm
dần sau 1 - 3 ngày, các triệu chứng thường thấy gồm đau bụng, buồn nôn,
nôn oẹ, tiêu chảy, ốm yếu, nhức đầu chóng mặt cảm lạnh, tăng tiết nước bọt
và mồ
hôi, thậm chí co thắt vùng bụng, khó thở, rối loạn huyết áp và nhịp

tim [30]. Theo báo cáo của McBride JS và cộng sự, GTS xuất hiện ở 1-10%
người trồng thuốc lá tại Mỹ [45]. Nghiên cứu của NIOSH tiến hành phỏng
vấn 40 người bệnh làm việc trong ngành trồng thuốc lá bị GTS thấy rằng
thời gian trung bình từ khi làm việc đến khi bắt đầu xuất hiện các triệu
chứng là 10 tiếng (từ 3-17 giờ), cũng theo báo cáo thì tỷ lệ
xuất hiện các
triệu chứng là: mệt mỏi (100%), buồn nôn (98%), nôn (91%), hoa mắt chóng

4
mặt (91%), đau bụng (70%), đau đầu (60%), khó thở (60%), thời gian xuất
hiện các triệu chứng trung bình là 2,4 ngày [45]. Ngày nay GTS đang trở
thành vấn đề của toàn cầu mà việc sản xuất thuốc lá phải đối mặt, TCYTTG
đang đi đầu trong nghiên cứu các vấn đề về sức khỏe, xã hội và môi trường
dưới tác động của việc phát triển thuốc lá trong mối liên quan đến sự phát
triển của thế gi
ới, trong đó GTS là một yếu tố cần được tính đến [58].
Ngoài nguy cơ nhiễm độc nicôtin, người trồng thuốc lá còn phải đối
mặt với một nguy cơ về sức khỏe khác, đó là các loại hóa chất bảo vệ thực
vật và phân bón hóa học được sử dụng trong ngành trồng cây thuốc lá. Trong
một vụ thuốc lá, người ta phải sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật nhiề
u lần; ở
một số nơi tại Kenya (châu Phi) con số đó là 16 lần. Trồng và chăm sóc cây
thuốc lá tốn rất nhiều công sức và thường là phải làm bằng tay. Một héc ta
trồng cây thuốc lá cần tới 3000 giờ công lao động, trong khi đối với cây ngô
chỉ cần 265 giờ công. Càng cần nhiều giờ công lao động có nghĩa là thời gian
phải tiếp xúc với cây thuốc lá và các loại hóa chất bảo vệ thực vật tă
ng lên.
Trên thế giới, các loại hóa chất bảo vệ thực vật như: aldicarb, chlorpyrifos,
và 1,3 - dichloropropen (1,3-D) thường được sử dụng cho cây thuốc lá.
Ngoài ra, chất acephat cũng được sử dụng nhiều. Aldicarb là loại thuốc trừ

sâu diệt được cả rệp và giun có hại; triệu chứng nhiễm độc cấp tính aldicarb
là chóng mặt, tiêu chảy, nôn mửa, mắt mờ và thở dốc. Chlorpyrifos là hóa
chất bảo vệ thực vật gốc photpho hữu c
ơ, có thể gây chứng đau đầu, mắt mờ,
rớt nước dãi, làm yếu cơ bắp và loạn nhịp tim. Chất 1,3 - D được dùng để
diệt giun có hại; triệu chứng nhiễm độc 1,3 - D là đau đầu, buồn nôn, chóng
mặt, đường thở bị kích thích. Theo một cơ quan nghiên cứu, 1,3-D có thể
gây ung thư. Acephat là hóa chất bảo vệ thực vật photpho hữu cơ có thể gây
các triệu chứng như: co giật, đau
đầu, chảy nước dãi, tiêu chảy, khó thở, nếu
nặng có thể dẫn đến tử vong. Mặc dù acephat không có độc tính cao nhưng
Cơ quan Bảo vệ môi trường của Mỹ (EPA) lại xếp nó vào loại hóa chất có

5
thể gây ung thư. Đối với cây thuốc lá, người ta cũng dùng maleic hyđrazit để
kích thích cho chồi phát triển; chất này cũng có thể gây kích thích da và mắt.
Các thống kê ở Braxin cho thấy, trong thời gian từ 1979 đến 1995 tỷ lệ
các trường hợp tự tử ở nông dân trồng thuốc lá cao gấp 7 lần so với mức trung
bình của cả nước này. Tuy nhiên, người ta chưa có một bằng chứng cụ thể nào
về mối liên hệ
giữa những trường hợp tự tử nói trên với việc bị nhiễm độc bởi
các hóa chất bảo vệ thực vật.
Để bảo đảm an toàn cho người lao động làm việc trong ngành trồng cây
thuốc lá, việc quan trọng là phải huấn luyện an toàn lao động cho họ, khuyến
khích việc sử dụng các loại hóa chất bảo vệ thực vật ít độc hại hơn như
imidacloprid, clomazon và acephat, đồng thời gi
ảm lượng sử dụng các hóa
chất bảo vệ thực vật đến mức thấp nhất [17].
Theo một nghiên cứu mới cho thấy, lá thuốc lá có chứa hàng trăm
chủng vi khuẩn khác nhau, trong đó có nhiều loại gây bệnh, nhất là bệnh phổi

và bệnh nhiễm trùng đường hô hấp [55].
Theo các nghiên cứu, trong khói thuốc lá chứa hơn 4000 loại hoá chất,
có hơn 200 loại có hại cho sức khoẻ, bao gồm chất gây nghiện và các chấ
t
gây độc, trong đó có 43 chất gây ung thư, bao gồm các chất khí kích thích,
axit hữu cơ, kim loại và các chất hoá học [5], [49]. Các chất hoá học trong
khói thuốc lá tồn tại dưới hai dạng: dạng khí và dạng hạt. Dạng hạt bao gồm
các chất gây nghiện điển hình là nicôtin, chất quyết định mấu chốt của việc
gây nghiện và phụ thuộc vào thuốc lá, nicôtin là một chất không màu,
chuyển thành màu nâu khi cháy và có mùi thuốc khi tiếp xúc với không khí,
nicôtin được hấ
p thụ qua da, miệng và niêm mạc mũi hoặc hít vào phổi [5],
[20]. Cơ quan Kiểm soát Dược và thực phẩm Mỹ (FDA) xếp nicôtin vào
nhóm các chất có tính chất dược lý gây nghiện chủ yếu, tương tự như các

6
chất ma tuý Heroin và Cocain [9]. Tác dụng gây nghiện của nicôtin chủ yếu
là trên hệ thần kinh trung ương với sự có mặt của các thụ thể nicôtin trên các
cấu trúc não. Chất alcaloide này tác động lên các thụ thể ở hệ thống thần
kinh với chất dẫn truyền thần kinh dopamine. Dopamine là một hóa chất
chính trong não điều chỉnh mong muốn sử dụng các chất gây nghiện, gây bài
tiết adrenaline (nhịp tim nhanh, co mạch ngoại vi, ức chế co bóp và chế tiế
t
dịch vị dạ dày) [20].
Các chất độc ở dạng khí của khói thuốc lá gồm có Monoxit carbon (khí
CO), khí CO có nồng độ cao trong khói thuốc lá và sẽ được hấp thụ vào máu,
gắn với hemoglobine với ái lực mạnh hơn 20 lần oxy. Với người hút trung
bình một bao thuốc mỗi ngày thì hàm lượng hemoglobine khử có thể tới 7-
8%. Sự tăng hemoglobine khử làm chuyển dịch đường cong phân tách oxy-
hemoglobine dẫn đến giảm lượng oxy chuyển đế

n tổ chức gây thiếu máu tổ
chức và có lẽ góp phần hình thành các mảng xơ vữa động mạch. Ngoài ra
trong khói thuốc lá chứa nhiều chất kích thích dạng khí khác như: amoniac,
diethylnnitrosamin, formaldehyt, hydrogen, cyanide,v.v. các chất kích thích
này gây nên các thay đổi cấu trúc của niêm mạc phế quản dẫn đến tăng sinh
các tuyến phế quản, các tế bào tiết nhầy và làm mất các tế bào có lông chuyển.
Các thay đổi này làm tăng tiết nhày và giảm hiệu quả thanh lọc của thảm
nhày-lông chuy
ển [5], [16].Trong khói thuốc lá còn có trên 40 chất gây ung
thư, trong số đó gồm cả các hợp chất thơm có vòng đóng như Benzopyrene có
tính chất gây ung thư, các hoá chất này tác động lên tế bào bề mặt của đường
hô hấp gây nên tình trạng viêm mạn tính, phá huỷ tổ chức, biến đổi tế bào dẫn
đến dị sản, loạn sản rồi ác tính hoá [10], [27].
Theo nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học thuộc Mayo Clinic tại
Rochester, Mỹ, đã nghiên c
ứu hơn 1.500 tài liệu thu thập từ các công ty lớn
sản xuất thuốc lá của nước này và phát hiện ra các công ty sản xuất thuốc lá
lớn của Mỹ trong đó có Phillip Morris (sở hữu thương hiệu Marlboro), RJ

7
Reynolds (sở hữu Camel), British American Tobacco (sở hữu State Express
555 và Dunhill, tất cả đều là những thương hiệu hiện diện và một số rất phổ
biến ở Việt Nam) trong suốt 40 năm qua đã che giấu việc trong lá thuốc, điếu
thuốc và khói thuốc của các sản phẩm do họ sản xuất có chất Polonium 210
(210Po). Polonium 210 là một chất phóng xạ đặc biệt nguy hiểm và không ổn
định, đến mức người ta c
ấm sử dụng nó trong các hoạt động y tế. Nó đọng lại
ở các nhánh phế quản và từ đó gây ra ung thư, tại Mỹ, nó là nguyên nhân của
1% các ca ung thư phổi. Sở dĩ Polonium 210 hiện diện trong khói thuốc là do
người ta sử dụng phân bón giàu phốt phát khi trồng thuốc lá, loại phân bón

này được lấy từ các mỏ apatít, một thứ đá có chứa radium và polonium. Chính
loại phân bón này góp phần tạo nên hương vị đặc biệt của lá [44].
Khi hút thuốc các ch
ất đó đều được tung vào không khí. Ngoài ra các
chất độc này còn tỏa ra không khí ngay cả khi trồng trọt, chế biến thuốc lá, do
vậy người trực tiếp tham gia quá trình trồng trọt và chế biến thuốc lá cũng chịu
ảnh hưởng của các chất độc có trong khói thuốc lá.
Có 3 kiểu khói thuốc lá:
dòng khói chính, dòng khói phụ và khói thuốc môi trường [5]. Dòng khói phụ
có thành phần chất độc hại cao hơn dòng khói chính rất nhiều: nồng độ cacbon
monoxyt cao gấp 15 lần, nicôtin cao gấp 21 lần, formaldehyt gấp 50 lần,
dimethylnitrosamin cao gấp 130 lần,v.v. Chính vì vậy mà những người không
hút thuốc lá nhưng thường xuyên phải hít thở trong môi trường có khói thuốc lá
(trong đó bao gồm những người tham gia sản xuất thuốc lá)và chịu những tác
hại tương tự như
những người hút thuốc lá, tuy nhiên dòng khói phụ được pha
loãng với không khí nên mức độ gây hại phụ thuộc vào một số yếu tố liên quan
[40], [41]. Cơ quan bảo vệ môi trường của Mỹ đã xếp khói thuốc lá vào nhóm
A trong bảng danh sách các chất gây ung thư và là nguyên nhân gây ra 3.000 ca
chết vì ung thư phổi do hút thuốc thụ động [8]. Người không hút thuốc nhưng
thường xuyên phải hít khói thuốc lá có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn 26% so
với người không hít phả
i khói thuốc lá, nghiên cứu còn cho thấy sự tiếp xúc với
khói thuốc lá thụ động của vợ hoặc chồng trong gia đình là nguyên nhân gây

8
bệnh suy mạch vành tim và tăng nguy cơ mắc bệnh này tới 30% [55]. Tương tự
như vậy theo cơ quan kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC), những người không hút
thuốc nhưng thường xuyên phải hít khói thuốc lá có nguy cơ bị ung thư phổi
cao hơn từ 20-30% và nguy cơ bị bệnh về tim mạch cao hơn từ 25-30% so

với người không hít phải khói thuốc lá [34]. Khói thuốc lá thụ động làm tăng
22% nguy cơ trẻ
sinh nhẹ cân (dưới 2500g) [43].
Sử dụng thuốc lá có thể gây ra tới 25 bệnh nguy hiểm như: ung thư
phổi, các bệnh tim mạch, các bệnh đường hô hấp, v.v.[49], [57]. Theo tổ
chức Y tế thế giới, ước tính mỗi năm trên thế giới có khoảng 5 triệu người
chết vì thuốc lá và trong 10 trường hợp người lớn tử vong thì có một trường
hợp tử vong nguyên nhân do thuốc lá, ước tính đến năm 2023 con số t
ử vong
do thuốc lá là khoảng 6-10 triệu người/năm. Số lượng tử vong do thuốc lá
lớn hơn bất kỳ nguyên nhân tử vong nào khác, nhiều hơn cả số tử vong do
viêm phổi, lao, tiêu chảy, v.v. Nếu gánh nặng do thuốc lá gây ra không giảm
thì khoảng 500 triệu người hiện đang sống sẽ chết do thuốc lá, một nửa trong
số đó sẽ chết ở độ tuổi trung niên và tuổi thọ giảm m
ất 20-25 năm. Tử vong
do thuốc lá trước đây phổ biến ở các nước có thu nhập cao, ngày nay nó
đang dần chuyển sang các nước có thu nhập trung bình và thấp [15].
Ở các nước đang phát triển, thuốc lá là nguyên nhân chính gây tử vong,
khoảng 20% tổng số chết trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX ở Trung Quốc là do
hút thuốc lá trong đó 1/3 tử vong là do ung thư phổi, 1/3 do các loại ung thư
khác và 1/3 còn lại do các bệnh khác [35]. Dự tính đến năm 2020, khoảng
70% t
ử vong do thuốc lá sẽ xảy ra ở các nước đang phát triển so với hiện tại là
50%. TCYTTG dự báo sẽ có khoảng 10% dân số Việt Nam ngày nay sẽ tử
vong sớm do các bệnh liên quan đến sử dụng thuốc lá và một nửa trong số họ
tử vong ở độ tuổi lao động [9].



9

1.1.2. Ảnh hưởng của thuốc lá đối với môi trường
Cho đến nay, không ít người đã nhận thức được tác hại to lớn của
thuốc lá tới sức khoẻ con người, song có lẽ còn chưa đánh giá đầy đủ những
ảnh hưởng xấu của thuốc lá tới môi trường. Từ khâu trồng thuốc lá, qua
khâu chế biến, sản xuất cho đến khi tiêu thụ, vòng đời của một đi
ếu thuốc lá
sản sinh biết bao tác nhân gây ô nhiễm cho môi trường sống của con người.
Rừng bị tàn phá cho mục đích lấy đất để trồng thuốc lá, lấy gỗ phục
vụ sấy thuốc lá và xây lò sấy, ngoài ra rừng còn bị phá cho mục đích sản
xuất giấy cuốn thuốc lá và bao bì thuốc. Qua thống kê, người ta thấy mỗi
năm có khoảng 200.000 héc ta rừng trên thế giới đã bị phá để l
ấy đất trồng
thuốc lá. Sau khi thu hoạch, thuốc lá phải được sấy khô và gỗ là một trong
những nguồn nguyên liệu sấy chủ yếu, mỗi năm người ta phải chặt tới 5
triệu héc ta rừng hay 600 triệu cây xanh để lấy gỗ làm củi sấy thuốc lá.
Các
nhà khoa học đã thực hiện một cuộc điều tra về tình hình sử dụng gỗ củi để
sấy thuốc lá ở 23 quốc gia, kết quả cho thấy cứ trung bình để sấy được 1 kg
thuốc lá khô, người ta phải sử dụng 5,5 kg củi. Rừng bị tàn phá cho mục
đích sấy thuốc lá chiếm tới 1,7% diện tích rừng toàn cầu và khoảng 4,6%
diện tích rừng của 66 nước trồng thu
ốc lá trên thế giới (hầu hết là các nước
đang phát triển) [39]. Nếu tính theo mức độ phá rừng vì mục đích sản xuất
thuốc lá, Việt Nam được xếp ở hạng trung bình với khoảng 1,4% diện tích
rừng bị phá mỗi năm [18].
Quá trình sản xuất thuốc lá tạo ra lượng chất thải rất lớn, trong đó
ngoài những chất hữu cơ thông thường như bụi than, giấy vụ
n, v.v., còn có
rất nhiều các chất thải hoá học độc hại khác
ở dạng rắn, dạng lỏng (thể

sương) hoặc dạng khí có trong bụi thuốc lá và môi trường không khí tại nơi
sản xuất và khu vực lân cận, bao gồm chất dầu, chất dẻo và nhiều hoá chất
như amoniac, etylen, glycol, axit sunfuric, hydrofluorit, nicôtin, v.v.[28].
Theo thống kê năm 1995 ngành công nghiệp thuốc lá thế giới thải ra 2.262

10
triệu kg rác, 209 triệu kg chất thải hóa học. Ở Mỹ, các nhà máy thuốc lá
đứng thứ 18 trong danh sách các ngành công nghiệp có chất thải hoá học độc
hại. Mỗi năm ngành công nghiệp thuốc lá trên thế giới thải ra khoảng 300
triệu kilogam nicôtin, một trong những chất mà Cơ quan Bảo vệ môi trường
Mỹ cho rằng rất độc hại. Đây là một sự thật hiển nhiên mà ngay các công ty
sản xuất thuốc lá có tên tuổi trên thế gi
ới cũng không thể chối bỏ. Báo cáo
của Công ty thuốc lá BAT cũng đã khẳng định: "Chúng tôi thừa nhận rằng
hoạt động của Công ty chúng tôi có ảnh hưởng xấu đến môi trường" [32].
Trong khi đó, ở nước ta vẫn còn nhiều nhà máy sản xuất thuốc lá nằm
trong các khu vực đông dân cư. Mặc dù doanh nghiệp đã chú ý giảm thiểu ô
nhiễm như lắp đặt các hệ thống thiết bị hút gió, thông gió, song hoạt
động
của các nhà máy này vẫn ảnh hưởng xấu tới môi trường sống và sức khoẻ
của người dân địa phương [3].
Các chất thải trong quá trình sản xuất và sử dụng thuốc lá như đầu
mẩu thuốc lá, vỏ bao thuốc lá và vỏ kiện thuốc lá. Chỉ tính đến năm 1995,
ước tính có tới 5.535 triệu tỷ đầu mẩu thuốc lá, 27.675 triệu vỏ kiện thuốc lá
và 276.753 triệu vỏ bao thuốc lá
được bán trên phạm vi toàn cầu. Đầu mẩu
thuốc lá là thành phần chính được vớt lên trong chiến dịch làm sạch nước
biển. Lao công ở Mỹ lên tiếng phàn nàn rằng, họ phải làm thêm giờ hàng
tháng vì quét đầu mẩu thuốc trên đường. Đầu mẩu thuốc lá cần 5 đến 7 năm
để phân huỷ hết. Các đầu mẩu thuốc lá còn gây ra tác hại tới sức khoẻ động

vật, nếu chúng ăn phải đầu lọc thuố
c lá sẽ không thể tiêu hoá được các hoá
chất trong đó và chúng có thể chết vì những chất hoá học này [32].
Thuốc lá là cây sử dụng nhiều chất dinh dưỡng trong đất. Không có
loại cây nào hấp thụ nhiều chất dinh dưỡng trong đất (kali, phốtpho và nitơ)
nhiều như cây thuốc lá dẫn đến hiện tượng xói mòn đất ngày càng nhanh do
đất bị bạc màu, đặc biệt ở những địa phương nơi mà thuốc lá chủ yếu được

11
trồng ở vùng đất dốc, ngoài ra cây thuốc lá là loại cây “khát nước” nên
người trồng phải sử dụng rất nhiều nước để tưới cho nó.
Thuốc lá là một loại cây sử dụng nhiều loại hóa chất bảo vệ thực vật,
bao gồm các chất độc hại mà các chất này tích tụ ở bồn nước ngầm, nước
mặt (sông, suối, ao ), nước mưa, nước ăn, trung bình mỗi v
ụ trồng thuốc lá
dài ba tháng, người nông dân phải sử dụng tới 16 loại hóa chất bảo vệ thực
vật và nhiều loại phân bón hoá học, về lâu dài việc sử dụng nhiều hoá chất
sẽ càng làm đất bị chai cứng, ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khoẻ
nông dân. Một khía cạnh khác của việc sử dụng nhiều loại hóa chất bảo vệ
thực vật là nó làm cho việc ki
ểm soát các bệnh ở người do côn trùng gây ra
sẽ khó khăn hơn, ví dụ như việc phòng chống sốt rét gặp khó khăn do muỗi
và ruồi vẫn tiếp tục phát triển do các loài thiên địch đã bị tiêu diệt [31].
Hút thuốc còn là nguyên nhân gây nên cháy, nổ. Tại nước Anh, hầu
hết các vụ chết người do cháy gây ra là do hút thuốc lá và sử dụng diêm,
người hút thuốc gây nên hơn 9.000 vụ cháy nghiêm trọng ở Anh mỗi năm,
làm chết 200 người và bị thươ
ng 2.000 người. Cháy rừng ở Trung Quốc đã
quét sạch rừng Đông Bắc năm 1985, cán bộ lâm nghiệp bị bắt do vứt đầu
mẩu thuốc lá xuống cỏ. Trong vụ cháy này, 1,3 triệu ha đất bị tàn phá, 300

người bị chết, và 5.000 người bị mất nhà. Trên phạm vi toàn cầu, hút thuốc
gây nên thiệt hại ước tính khoảng 100.000 triệu đô la Mỹ và khoảng một
triệu vụ cháy mỗi năm. Hút thuốc gây nên khoả
ng 30% tổng số người chết ở
Mỹ vì cháy và 10% trên toàn thế giới, với tổng chi phí 5,34-22,8 tỷ đô la Mỹ
cho nước Mỹ, và 8,2-89,2 tỷ đôla Mỹ cho toàn thế giới [9], [56].
Ngoài ra thuốc lá còn gây ô nhiễm không khí bằng 2 hình thức: Do sử
dụng nhiên liệu để sấy thuốc lá, trong số các loại nhiên liệu được sử dụng,
than là nguồn nhiên liệu chủ yếu (chiếm 67,1%) trong sấy thuốc lá ở nhiều
nước có sản l
ượng thuốc lá lớn như: Trung Quốc, Ấn Độ, Zimbabuê, v.v.
Củi gỗ (chiếm 15,7%) được sử dụng phổ biến ở Pakistan, Lào, Campuchia,

12
v.v. Khí ga (chiếm 17,2%) được sử dụng rộng rãi ở khu vực Bắc Mỹ, dầu
được sử dụng nhiều ở Indonexia và điện được sử dụng phổ biến ở Pháp. Hút
thuốc lá là nguyên nhân chính gây nên ô nhiễm không khí trong nhà và
ngoài trời do thải ra ngoài không khí hàng ngàn chất hóa học độc hại. Khi
tiến hành các hoạt động nhằm giảm ô nhiễm không khí thì không thể không
tính đến ô nhiễm không khí trong nhà, v.v.[13].
Rõ ràng việc trồng và sản xuất thuốc lá đ
ã hủy hoại môi trường
nghiêm trọng và gây ra hàng loạt những vấn đề sức khỏe liên quan đến
người nông dân và gia đình của họ. Song, các công ty sản xuất thuốc luôn
lẩn tránh và lờ đi các khoản chi phí bù đắp về môi trường và sức khỏe liên
quan đến hoạt động trồng thuốc lá [33].
1.1.3. Ảnh hưởng của thuốc lá đối với kinh tế - xã hội
Thuốc lá mang lại lợi nhuận cho các công ty thuốc lá, chứ không ph
ải
cho chính phủ hay người nông dân trồng thuốc lá của nước họ. Mặc dù ngành

công nghiệp thuốc lá đã có những đóng góp đáng kể cho ngân sách của nhiều
quốc gia, tuy nhiên cũng cần thừa nhận thực tế là các quốc gia cũng đang phải
gánh chịu những tổn thất kinh tế to lớn do ngành công nghiệp thuốc lá gây ra
như: tăng chi phí y tế để chữa trị các bệnh có liên quan đến thuốc lá và năng
suấ
t lao động giảm sút do bệnh tật và tử vong, gia tăng ô nhiễm môi trường,
các chi phí cơ hội trong trồng trọt và sản xuất thuốc lá, v.v.[9], [12]. Nhiều
quốc gia còn mất hàng triệu đô la mỗi năm cho việc nhập khẩu thuốc lá, cũng
như từ thuế do vấn nạn buôn lậu thuốc lá [9].
Ngành công nghiệp thuốc lá tại Việt Nam đã tạo ra việc làm cho gần
16.000 lao động công nghiệp, trên 200.000 lao động nông nghiệp (tại các
vùng nguyên li
ệu) và hàng trăm ngàn lao động dịch vụ phục vụ ngành thuốc
lá. Theo thống kê từ năm 1995 đến năm 2004 tổng nộp ngân sách nhà nước là
30.233 tỷ đồng, năm 2004 nộp 6.177 tỷ đồng tăng gần gấp 4 lần so với năm
1995, ước tính năm 2005 nộp ngân sách khoảng 6.782 tỷ đồng [2].

13
Cho đến nay hầu hết thuốc lá được tiêu thụ (bao gồm cả thuốc lá nhập
lậu và sản xuất nội địa) được sản xuất bởi các công ty đa quốc gia, vì vậy lợi
nhuận chính thu được từ kinh doanh thuốc lá rơi vào túi các công ty đa quốc
gia này. Ngay tại Mỹ các công ty cũng lao vào kiếm tiền, theo thống kê năm
1998 trung bình canh tác thuốc lá mang lại cho người nông dân trồng thuốc lá
19.597 đô la, trong khi số tiền các công ty thuốc lá chi cho quả
ng cáo và
khuyến mại để tăng cường tiêu thụ sản phẩm là 5,6 tỷ đô la, mặc dù Mỹ chỉ
chiếm 5% số người hút thuốc trên thế giới [9].
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, thuốc lá ngoại tiêu thụ trên thị
trường Việt Nam chiếm từ 15-18%, đồng thời lượng thuốc lá buôn lậu vào
Việt Nam ước tính chiếm khoảng 10% lượng thuốc lá được tiêu thụ trên thị

tr
ường [8]. Năm 1999, chính phủ Việt Nam ước tính mỗi ngày có khoảng
10 triệu điếu thuốc lá trị giá 350.000 đô la Mỹ được buôn lậu từ Campuchia
vào Việt Nam gây thất thu cho ngân sách nhà nước 37 triệu đô la Mỹ mỗi
năm [42].
Các chi phí và ảnh hưởng do thuốc lá đến sức khỏe, kinh tế và môi
trường là rất lớn. Những thiệt hại có thể thấy rất rõ bao gồm: Thời gian nghỉ
để hút thuốc lá (để hút hết m
ột điếu thuốc lá cần 7-10 phút, thời gian hút
không tập trung làm việc được), hút thuốc lá gây mệt mỏi và bệnh tật nhiều
hơn dẫn đến thời gian nghỉ việc do bệnh tật nhiều hơn, sức khỏe kém nên
năng suất và chất lượng lao động giảm, hút thuốc lá còn ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe và kinh tế gia đình (tại các nước đang phát triển số tiền chi cho
mua thuốc lá chiếm khoảng 25% thu nhập có thể sử dụng của người hút thuốc,
chi phí này chiếm mất quỹ chi tiêu cho các nhu cầu cá nhân khác), chi phí cho
bệnh tật, chi phí do mất thu nhập, làm bẩn cảnh quan môi trường, mặt khác
những người xung quanh cũng bị ảnh hưởng bởi hút thuốc lá thụ động [12].
Những yếu tố này dẫn tới giảm năng suất lao động; tăng chí phí chữa bệnh,
chi phí xã hội; giảm chi cho thực phẩ
m, giáo dục, y tế, vừa trực tiếp, vừa gián
tiếp làm thiết hại kinh tế cho xã hội.

14
Trên thế giới, thuốc lá gây thiệt hại 200 tỷ đô la mỗi năm cho nền kinh
tế thế giới. Ước tính chi phí cho y tế để điều trị các bệnh liên quan đến thuốc
lá, giảm năng suất lao động và các chi phí xã hội khác chiếm 1-3% GDP.
Theo thống kê ở Trung Quốc chi phí trực tiếp và gián tiếp do thuốc lá là
khoảng 6,1 tỷ đô la mỗi năm, chi phí cho thuốc lá tại một số nước như sau
(chiế
m % GDP): Australia 1,4%; Canada 1,9%; Nhật Bản 1,1%; Nam Phi

0,7%; Mỹ 2,0% .
Tại Việt Nam, theo điều tra mức sống dân cư năm 1998, số tiền cả nước
chi cho việc mua thuốc lá là 5.834 tỷ đồng, nếu quy đổi ra lượng gạo tính ở
thời điểm năm 1998 thì số tiền này có thể mua được 1,6 triệu tấn gạo đủ nuôi
sống 10,6 triệu người trong một năm. Còn tổng số tiền chi cho thuốc lá năm
2002 là 10.400 tỉ
đồng, chi thuốc lá trung bình của một người hút thuốc năm
2002 là 682.800 đồng/năm, còn chi cho 3 bệnh (COPD, ung thư phổi, NMCT)
hơn 1.160 tỉ đồng. Tổng số tiền chi cho thuốc lá năm 2007 là 14.000 tỉ đồng.
Hiện nay ước tính tổng số tiền người dân chi cho mua thuốc lá mỗi năm là
8.213 tỷ đồng, số tiền này đủ mua 2,4 triệu tấn gạo đủ nuôi 15,6 triệu người
trong một năm. Các hộ gia đình chi cho thuốc lá tươ
ng đương với chi cho giáo
dục, y tế. Ở hộ nghèo, chi thuốc lá bằng 1,5 chi giáo dục. Nếu tiền chi cho
thuốc lá dùng mua thực phẩm thì 11,2% hộ nghèo sẽ thoát nghèo. Ước tính
phần đóng góp của ngành công nghiệp cho ngân sách chỉ chiếm 1/3 số tiền
(khoảng 6.000 tỷ đồng) mà người dân dùng để hút thuốc lá [21].
Theo Vũ Xuân Phú và cộng sự nghiên cứu chi phí bệnh viện cho việc điều
trị 3 bệnh liên quan đến thuốc lá cho thấy chi phí trung bình cho một đợt n
ằm
viện vì các bệnh liên quan đến thuốc lá (ung thư phổi, các bệnh không ung thư và
bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính) là 11.762.000 đồng, trong đó nhà nước phải trả
18,5%, cá nhân phải trả 43,5%, bảo hiểm trả 38% chi phí. Chi phí trung bình cho
một đợt nằm viện vì bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là 3.744.000 đồng, cho người
bị ung thư phổi là 12.358.000 đồng, và bệnh thiếu máu cục bộ cơ tim là
31.399.000 đồng, tổng số tiền điề
u trị hàng năm cho 3 bệnh là vào khoảng 429,8

15
tỷ đồng. Thời gian điều trị bệnh nhân ở bệnh viện cho 3 bệnh này từ 8,6 đến 43,3

ngày cho một đợt điều trị. Đối với xã hội, chỉ tính riêng 3 bệnh được lựa chọn
trong nghiên cứu này, thuốc lá gây ra khoảng 50% chi phí xã hội liên quan đến
bệnh nhân nội trú và 804 tỷ đồng (khoảng 50 triệu đô la Mỹ), và 0,11% tổng sản
phẩm quốc nội của Việt Nam hay18% kinh phí chính phủ dành cho y t
ế và 19%
kinh phí do các công ty thuốc lá đóng góp cho nhà nước. Nói cách khác nếu
ngừng hút thuốc, Việt Nam có thể tiết kiệm được 804 tỷ cho điều trị bệnh nhân
nội trú mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, ung thư phổi và nhồi máu cơ tim [26].
Đối với người nông dân trồng thuốc lá tại Việt Nam, nghiên cứu bước đầu
cho thấy việc trồng cây thuốc lá mặc dù có vẻ đem lại cho người nông dân thu
nhập cao hơ
n so với cây trồng khác, nhưng nó cũng không giúp cho người nông
dân cải thiện được tình trạng kinh tế gia đình của họ. Mặt khác, những người nông
dân trồng cây thuốc lá phải đối mặt với nhiều nguy cơ về sức khỏe do việc trồng
cây thuốc lá đem lại, và hay ốm đau hơn so với những người nông dân khác [46].
Theo NIOSH chi phí trung bình trong một đợt điều trị cho một người
trồng thuốc lá đ
iều trị các triệu chứng của GTS như sau: chi phí cho điều trị
250 đô la, chi phí cho bệnh viện là 566 đô la và 2.041 đô la cho công tác chăm
sóc tăng cường [47].
Nói chung ngành công nghiệp thuốc lá về mặt nào đó đã đóng góp một
phần đáng kể vào ngân sách quốc gia, nhưng xét về mặt tác hại thì sản xuất và
hút thuốc lá gây ra những tổn thất lớn cho xã hội. Những chi phí dễ nhận thấy
là tiền dùng để mua thu
ốc lá, các chi phí cho sức khỏe, chi phí do hỏa hoạn,
tai nạn, môi trường, bên cạnh đó còn có nhiều chi phí mang tính dài hạn, lớn,
khó lường là các chi phí do giảm khả năng lao động, bệnh tật [9].
1.2. TÌNH HÌNH TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN THUỐC LÁ
1.2.1. Tình hình trồng và chế biến thuốc lá trên thế giới
Cây thuốc lá hoang dại đã có cách đây khoảng 4.000 năm, cùng với

nền văn minh của người da đỏ vùng Trung và Nam Mỹ. Lịch sử chính thức

×