Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Điều tra thống kê diện tích thành phần lòai đánh giá hiện trạng phân bố hệ sinh thái rừng ngập mặn thảm cỏ biển ở vùng biển ven bờ tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 45 trang )


1
GIỚI THIỆU

Tỉnh Khánh Hòa nằm ở vùng Nam Trung bộ Việt Nam, có hơn 300 km bờ biển
chạy dài từ 11
0
40 đến 12
0
50 vĩ độ bắc. Từ lâu biển Khánh Hòa đã nổi tiếng với những
cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, hải đặc sản ngon, phong phú như: Cá,Yến sào, Tôm
hùm, Bào ngư, Hải sâm, Ốc… Sở dĩ như vậy là do tỉnh Khánh Hòa được thiên nhiên ưu
đãi với khí hậu thuận lợi, địa hình và chất đáy bờ biển khá đa dạng với nhiều đầm, vịnh
và các đảo tạo những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành các hệ sinh thái như hệ sinh
thái rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, cửa sông, đầm vịnh… Có thể nói ít có
vùng biển nào trong cả nước cùng tồn tại đầy đủ các hệ sinh thái nói trên và những mối
liên kết giữa chúng như ở Khánh Hòa. Đây là những hệ sinh thái đặc trưng của vùng
biển nhiệt đới, có tính đa dạng sinh học và năng suất cao. Rừng ngập mặn, thảm cỏ biển
đang thực hiện các chức năng và vai trò sinh thái quan trọng ở vùng biển ven bờ, như
làm ổn định tầng đáy chống xói lở bờ, cung cấp nơi trú ẩn, nơi sinh đẻ, tạo nguồn thức
ăn và là nơi ươm nuôi ấu trùng, con non các loài hải sản có giá trị. Nguồn lợi thủy sản
khai thác trong rừng ngập mặn, thảm cỏ biển duy trì sinh kế và đời sống của bộ phận
lớn cộng đồng cư dân sống trong khu vực phân bố của chúng.
Trong những năm gần đây sức ép của sự tăng nhanh dân số, phát triển kinh tế xã
hội, quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường chưa hợp lý ở Khánh Hòa đã
đe dọa thật sự đến các tài nguyên và môi trường biển. Các hệ sinh thái vùng ven bờ
đang đứng trước các nguy cơ bị hủy hoại, suy thoái hoặc mất cân cân bằng sinh thái,
giảm sút nguồn lợi và tính đa dạng sinh học gây nên những ảnh hưởng xấu cho mọi
chiến lược bảo vệ, khai thác bền vững và phát triển kinh tế biển.
Rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở Khánh Hòa vẫn còn chưa được điều tra,
nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ, trong khi đó những họat động kinh tế- xã hội


vùng ven bờ như xây dựng đường xá, cơ sở hạ tầng, phát triển làng mạc, gia tăng dân
số, xây dựng ao đìa nuôi tôm thiếu quy họach… đang diễn ra nhanh chóng đã làm mất
đi nhiều diện tích rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và đang đe dọa suy thóai các hệ sinh
thái biển nói chung. Trong những năm gần đây nhiều quốc gia trên thế giới, vùng
Đông Nam Á và nhiều địa phương trong cả nước đang rất quan tâm nghiên cứu nhằm
tiến tới quản lý, phục hồi rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và bảo vệ đa dạng sinh học.
Việc quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển yêu cầu phải thu thập có hệ

2
thống, đầy đủ thông tin về diện tích, thành phần loài, đánh giá hiện trạng phân bố, cấu
trúc quần xã, đa dạng sinh học, tầm quan trọng cũng như vai trò kinh tế- xã hội, xác
định những nguyên nhân đe dọa hoặc làm suy thoái các hệ sinh thái.
Do vậy, đề án "Điều tra, thống kê diện tích, thành phần lòai, đánh giá hiện
trạng phân bố hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và vai trò của chúng đối
với kinh tế- xã hội, môi trường ở vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa- Đề xuất giải
pháp quản lý và sử dụng bền vững" được thực hiện nhằm các mục tiêu sau:
- Xác định được hiện trạng phân bố, diện tích, thành phần lòai của rừng ngập
mặn, thảm cỏ biển ở vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa.
- Đánh giá được vai trò của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển đối với kinh tế, xã hội
tỉnh Khánh Hòa.
- Đề xuất được các giải pháp khả thi nhằm quản lý và sử dụng bền vững hệ sinh
thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển ở vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa phục vụ
công tác phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ đa dạng sinh học.



















3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1. Hệ sinh thái rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn (RNM) là một loại rừng đặc biệt ở vùng cửa sông, ven biển của
các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trong rừng ngập mặn chỉ có một số loài cây sống
được, đó là các cây ngập mặn bao gồm những cây gỗ, cây bụi và cây thân cỏ thuộc
nhiều họ khác nhau nhưng có một số điểm giống nhau về mặt sinh thái, sinh lý thích
nghi với môi trường lầy, mặn, thiếu oxy. Cây ngập mặn sinh trưởng và phát triển tốt
trên các các bãi bùn lầy ngập nước mặn, nước lợ ở cửa sông, ven biển và dọc theo các
sông, rạch, chịu tác động trực tiếp của thủy triều lên xuống hàng ngày, khác với cây
rừng trong đất liền và cây nông nghiệp chỉ sống được ở nơi có nước ngọt.
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái có tính đa dạng sinh học và năng suất cao ở vùng
nhiệt đới. Rừng ngập mặn thường thấy phân bố ở vùng cửa sông và ven bờ của đầm,
vịnh tạo nên môi trường thuận lợi cho sự duy trì và phát triển nguồn lợi sinh vật không
chỉ tại chổ mà còn cho cả vực nước lân cận.
Rừng ngập mặn không những cung cấp cho nhân dân trong vùng các loại lâm
sản như gỗ, củi, tanin, thức ăn, thuốc chữa bệnh mà còn là nơi cư trú, sinh sản và
kiếm ăn của nhiều loài thủy sản có giá trị, các loài chim nước, chim di cư và một số

động vật sống trên cạn. Rừng ngập mặn còn có những chức năng to lớn trong việc bảo
vệ đường bờ của sông, biển, chống sói lở, bảo vệ đê điều, ruộng vườn, nhà cửa, làng
mạc đồng thời điều hòa khí hậu cho khu vực.
Nhiều công trình khoa học cho thấy rằng có những mối quan hệ tương hỗ giữa
sự phong phú của nguồn lợi hải sản và năng suất đánh bắt vùng ven biển với "tình
trạng sức khỏe" của rừng ngập mặn. Điều đáng quan tâm là nguồn giống tôm, cua, cá
trong vùng rừng ngập mặn rất phong phú, đó là nơi cung cấp nguồn giống tôm, cua, cá
cho nghề nuôi thủy sản. Vì vậy, rừng ngập mặn đang thực hiện những chức năng và
vai trò sinh thái to lớn đối với tài nguyên, môi trường và sự phát triển kinh tế- xã hội,
đặc biệt là chúng đem lại đem lại sinh kế, nguồn thức ăn và những lợi ích lâu dài khác
cho đời sống của hàng ngàn người dân sống trong khu vực (Phan Nguyên Hồng,
1997).
Trên thế giới có khoàng 16.670.000 ha RNM với hơn 100 loài, trong đó phần
châu Á nhiệt đới và châu Úc 7.487.000ha, châu Mỹ nhiệt đới 5.781.000 ha và châu Phi

4
nhiệt đới 3.402.000 ha. Hai nước có diện tích RNM lớn nhất thế giới là Indonêxia và
Braxin. Ở các nước Đông Nam Á như Ma-lay-xia, Phi-líp-pin, Thái Lan, Việt Nam
RNM cũng phát triển tốt vì ở đó có những điều kiện như lượng mưa dồi dào trong
năm, nhiệt độ cao và ít biến động, bãi lầy rộng, giàu chất mùn và chất phù sa.
Hiện nay, tình trạng chung của rừng ngập mặn và thảm cỏ biển trên thế giới là
đáng lo ngại. Hiểu được vai trò và tầm quan trọng của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển,
hiện nay nhiều nước trên thế giới đã chú trọng phục hồi và bảo tồn rừng ngập mặn,
thảm cỏ biển, thành lập các vườn quốc gia, khu bảo tồn nhằm bảo vệ các loài động
thực vật, nơi nghiên cứu học tập và du lịch.
Trước năm 1945, tổng diện tích RNM ở Việt nam là 400.000 ha, tập trung
nhiều nhất là vùng bán đảo Cà mau với 150.000 ha. Thành phần loàii cây ngập mặn ở
Việt Nam rất phong phú với 35 loài cây ngập chủ yếu và hơn 40 loài cây tham gia
rừng ngập mặn. Các loài cây ưu thế tạo thành những quần xã đặc sắc là Mắm, Đước,
bần, sú, vẹt…Nhưng trong thời gian chiến tranh từ 1962- 1971 chất độc hóa học của

Mỹ đã phá hủy nhiều khu rừng rộng lớn ở bán đảo Cà mau và Cần Giờ ( T.P Hồ Chí
Minh). Sau chiến tranh mặc dù ngành lâm nghiệp cố gắng phục hồi rừng, nhưng nhiều
cơ quan và nhân dân lại phá rừng làm đầm nuôi tôm nên RNM ở nước ta bị thu hẹp
nhanh chóng. Năm 1962 còn 290.000ha, đến năm 1982 còn 252.000 ha ( Viện ĐTQH
rừng). Đến nay diện tích rừng ngập mặn còn đang tiếp tục bị giảm sút nghiêm trọng.
Rừng ngập mặn là nơi có tính đa dạng sinh học cao. Ở vùng cửa sông ven biển
Quảng Ninh đã phát hiện 193 loài với 86 loài có giá trị kinh tế, vùng nước lợ ở các cửa
sông Gành Hào, Bồ Đề, Bảy Háp ở Cà Mau đã phát hiện 69 loài cá với 40 loài có giá
trị kinh tế (Sở Kế hoạch Công nghệ và Môi trường Cà Mau). Các loài giáp xác trong
đó có tôm, cua, còng, ghẹ… phát triển ở vùng cửa sông Hồng là 59 loài, các loài thân
mềm, chân bụng có 30 loài và hai mảnh vỏ là 25 loài. Ở vùng cửa sông dọc Quảng
Ninh các loài giáp xác thống kê là 66, các loài chân bụng là 104 loài, hai mảnh vỏ 111
loài.
Các loài chim rất phong phú ở vùng RNM và hình thành một số sân chim lớn
như ở khu Ramsar Xuân Thủy, Bạc Liêu, Đầm Dơi - Mũi Cà Mau với nhiều loài quý
hiếm như Cò lao xám, Cò quăm lớn, Cò nhạn…
Tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái RNM đã tạo nên giá trị kinh tế to lớn của
rừng. RNM còn là nơi trú ngụ, bãi đẻ của nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế. Hệ sinh

5
thái RNM đã cung cấp nguồn sinh kế quan trọng và dồi dào cho người dân sống cạnh
rừng, đặc biệt là người nghèo. Ý nghĩa kinh tế-xã hội của RNM được khai thác dưới
dạng du lịch sinh thái, như thể hiện ở các dự án: Khu RNM Cần Giờ; vùng RNM Mũi
Cà Mau; Lâm ngư trường 184 huyện Ngọc Hiển (Cà Mau)… Tương lai nhiều khu bảo
tồn thiên nhiên khác hoặc vườn quốc gia RNM sẽ trở thành những khu du lịch sinh
thái hấp dẫn.
Về mặt môi trường hệ sinh thái RNM có vai trò to lớn trong việc cố định phù sa,
lấn biển, chống xói lở bờ biển, hạn chế tác hại của sóng, gió, bão. Điều đó thấy rõ tác
dụng các giải rừng phòng hộ ven biển ở các tỉnh phía Bắc và đặc biệt ở vùng đồng
bằng Sông Cửu Long, vai trò lấn biển bởi cố định phù sa của RNM (rừng Mắm trắng

tiên phong) ở phía Tây mũi Cà Mau là rất to lớn.
Rừng ngập mặn ở tỉnh Khánh Hòa hầu như chưa được quan tâm nghiên cứu.
Công trình đầu tiên của Barry, Le Cong Kiet và Vu Van Cuong (1961) đã công bố danh
mục 19 loài cây ngập mặn ở vịnh Cam Ranh. Theo Phan Nguyên Hồng (1994) rừng
ngập mặn Khánh Hòa thuộc tiểu khu III.2 (từ mũi đèo Hải Vân đến mũi Vũng Tàu).
Đặc trưng của khu vực này là sông ngòi nhỏ, đồng bằng nhỏ hẹp, khí hậu khá khắc
nghiệt, lượng mưa rất ít, mùa khô hạn kéo dài ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của thực
vật ngập mặn. Do vậy, rừng ngập mặn ở khu vực này thường phân bố trong các đầm
ven biển với diện tích nhỏ hẹp.
Theo Nguyen Xuan Hoa (2002) trước năm 1975 toàn tỉnh Khánh Hòa có diện
tích rừng ngập mặn ước khoảng 3.000 ha. Các dải rừng ngập mặn nhỏ thường thấy
phân bố trong các đầm, vịnh và vùng cửa sông, lạch nhỏ. Thành phần loài cây ngập
mặn khá phong phú với hơn 20 loài. Những loài cây ngập mặn mọc phổ biến là Đước
(Rhizophora apiculata), Đưng (Rhizophora murconata), Mấm trắng (Avicennia alba),
Mấm biển (Avicennia marina), Bần trắng (Sonneratia alba), Vẹt dù (Bruguiera
gymnorrhiza), Cóc vàng (Lumnitzera racemosa), Giá (Excoecaria agallocha) Các dải
rừng ngập mặn có diện tích tương đối lớn phân bố ở Tuần Lễ (huyện Vạn Ninh), ven
đầm Nha Phu (huyện Ninh Hòa), vùng cửa sông Cửa Bé, sông Lô (T.P Nha Trang), ven
đầm Thủy Triều, vịnh Cam Ranh ( Thị xã Cam Ranh).
Năm 1997, ven đầm Nha Phu còn khoảng 100 ha rừng phân tán, xen kẻ với các
ao đìa nuôi hải sản hoặc chỉ là những dải rừng hẹp phân bố dọc theo hai bên bờ và cửa
của các sông, rạch nhỏ ở phía tây và tây bắc của đầm thuộc các thôn Tân Đảo, Tam Ích,

6
Tân Thủy, Hà Liên, Tân Tế, Lệ Cam. Trong đó có khu rừng tập trung có mật độ cây
dày, độ che phủ cao chỉ còn khoảng 30 ha ở thôn Tân Đảo. Khu rừng này có số lượng
loài cây rừng ngập mặn và cây tham gia rừng ngập mặn phong phú nhất với 20 loài (
Nguyễn Xuân Hòa, 1997).
Rừng ngập mặn nguyên thủy ở đầm Nha Phu hầu như không còn, thay vào đó là
những dải cây ngập mặn nhỏ hẹp tái sinh tự nhiên dọc theo sông, lạch đổ ra đầm. Các

loài cây ngập mặn thường phân bố ở vùng triều trung bình cho đến vùng triều cao. Ở
vùng triều trung bình thấp thường gặp loài Mắm biển (Avicennia marina) phân bố tạo
thành đai hẹp, tiếp theo phía sau, cao hơn là vùng phân bố của các loài Đước
(Rhizophora apiculata), Đưng (Rhizophora murconata), Mắm trắng (Avicennia alba)
chiếm ưu thế. Ở vùng triều cao ít ngập nước trong năm thường gặp các loài cây Giá
(Excoecaria agallocha), Xu ổi (Xylocarpus granatum) và những loài cây thân thảo
tham gia rừng ngập mặn như Cúc hai hoa (Wedelia biflora), Lức (Pluchea indica)…(
Nguyễn Xuân Hòa, 1997).
Rừng ngập mặn ở xóm Tuần Lễ (huyện Vạn Ninh) có diện tích khoảng 10 ha với
hơn 10 loài cây ngập mặn. Trong đó ưu thế nhất là những cây Bần trắng (Sonneratia
alba), Đưng (Rhizophora mucronata), và nhiều loài Mắm (Avicennia spp.). Tuy nhiên,
cũng do hệ thống ao, đìa bao quanh, đắp đê, bờ, đổ đất làm nhà đang đe dọa nghiêm
trọng sự tồn tại của khu rừng này (Nguyễn Xuân Hòa, 2001).
Trước đây trong đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh cũng là nơi phân bố quan
trọng của rừng ngập mặn. Các dải rừng ngập mặn thấy phân bố nhiều nhất ở vùng đỉnh
đầm và bờ đông của đầm Thủy Triều. Do bị phá hủy để hình thành các khu dân cư, nhất
là phá rừng ngập mặn để xây dựng các ao, đìa nuôi tôm phát triển mạnh trong nhựng
năm gần đây nên rừng ngập mặn ở đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh đã bị suy giảm
nghiêm trọng. Hiện nay, chỉ còn thấy các dải cây ngập mặn nhỏ hẹp phân bố rãi rác dọc
theo bờ đông của đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh như Cam Hải đông, Cam Hòa,
vùng Cam Thịnh. Thành phần loài cây ngập mặn ở đây cũng khá phong phú với
khoảng hơn 20 loài. Tuy nhiên, phổ biến và chiếm ưu thế nhất vẫn là các loài thuộc Chi
Mắm (Avicennia) và Đước (Rhizophora), (Nguyễn Xuân Hòa, 2007).




7
2. Hệ sinh thái thảm cỏ biển
Cỏ biển là những thực vật bậc cao (có hoa, thân, rễ, lá và hệ thống mạch dẫn

bên trong thật sự) nhưng sống thích nghi trong môi trường biển. Trên thế giới, có
khoảng 58 loài cỏ biển thuộc 13 chi. Kích thước và hình dạng của chúng rất đa dạng,
từ những loài có lá hình oval, nhỏ hơn 10cm như Halophila minor cho đến loài có kích
thước rất lớn như Enhalus acoroides có lá dài đến 150cm. Tuy số lượng loài không
nhiều nhưng sự phát triển của chúng tạo nên những thảm cỏ biển chiếm diện tích rộng
lớn ở các vùng nước nông ven bờ, đầm, vịnh và các đảo.
Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy các thảm cỏ biển là hệ sinh thái có
năng suất và tính đa dạng sinh học cao ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cỏ biển với
hệ thống rễ và thân ngầm liên kết chặt với nền đáy có vai trò quan trọng trong việc ổn
định và chống sói lở bờ khỏi tác động của sóng gió. Lá già của các loài cỏ biển bị đứt
ra sẽ được phân hủy bởi các vi sinh vật là nguồn thức ăn cho các loài cá, giáp xác, thân
mềm… hoặc tham gia vào chuỗi thức ăn trong các hệ sinh thái ven bờ.
Giá trị kinh tế quan trọng nhất của các thảm cỏ biển là cung cấp thức ăn, nơi cư
trú và là vùng nuôi dưỡng ấu trùng, con non của các loài hải sản có giá trị. Vì vậy,
nhiều nghề đánh bắt hải sản truyền thống cung cấp nguồn giống cho nuôi trồng và làm
thực phẩm thường hoạt động gần những thảm cỏ biển.
Những nghiên cứu về mối quan hệ tương hỗ của các thảm cỏ biển và tập đoàn
động vật sống trong nó đã cho thấy rằng: Ở các thảm cỏ biển có sinh lượng trên mặt
đất cao thì tính đa dạng loài và mật độ cá thể của các loài động vật như cá, giáp xác,
thân mềm … cao hơn ở thảm cỏ biển có sinh lượng thấp, do chúng có được nguồn
thức ăn dồi dào hơn và được bảo vệ tốt hơn khỏi những động vật ăn thịt khác. Vì vậy,
chúng ưa thích đến cư trú trong những cánh đồng cỏ biển có sinh lượng cao, hơn là ở
những đồng cỏ có sinh lượng thấp hoặc vùng đáy cát.
Vùng ven biển Việt Nam nhiều đầm, vịnh, các đảo lớn nhỏ thuận lợi cho sự hình
thành các thảm cỏ biển. Cho đến nay đã thu thập và xác định 14 loài cỏ biển. Các thảm
cỏ biển quan trọng, diện tích lớn thấy phân bố ở đầm Đề Gi, đầm Thị Nại (Bình Định),
đầm Cù Mông (Phú Yên), vịnh Vân Phong, đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh
(Khánh Hòa), đảo Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa- Vũng Tàu), Phú Quốc
(Kiên Giang). Trong đó thảm cỏ biển ở Phú Quốc có diện tích lớn nhất nước với
khoàng 12.000 ha. Những kết quả khảo sát trong những năm gần đây đã cho thấy tính


8
đa dạng sinh học và nguồn lợi hải sản trong thảm cỏ biển ở Phú Quốc rất phong phú
với 91 loài cá, 71 loài Thân mềm, 26 loài Giáp xác, 15 loài Da gai, 113 loài rong biển.
Các thảm cỏ biển ở Phú Quốc, Côn Đảo còn là nguồn thức ăn của các loài động vật
quý hiếm như Bò biển (Dugong dugon) và Rùa biển. Các kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy các thảm cỏ biển cũng là nơi sinh sản của nhiều loài hải sản có giá trị và là nơi
ươm nuôi ấu trùng con non của chúng. Nguồn lợi hải sản có giá trị kinh tế cao được
khai thác chủ yếu trong các thảm cỏ biển như Cá, Ghẹ, Tôm, Cá Ngựa, Ốc nhảy, Hải
Sâm…Vì vậy, các thảm cỏ đem lại những lợi ích và sinh kế quan trọng cho cộng đồng
dân cư ven biển.
Báo cáo đầu tiên nghiên cứu cỏ biển (Dawson, 1954) đã mô tả 4 loài cỏ biển thu
thập ở vùng biển Nha Trang: Halophila beccarii, H. ovalis, Diplanthera uninervis,
Thalassia hemprichii.
Trong những năm gần đây Viện Hải Dương học đã có một số công trình nghiên
cứu về hệ sinh thái thảm cỏ biển ở tỉnh Khánh Hòa. Nguyễn Xuân Hòa và cs (1996)
bước đầu nghiên cứu thảm cỏ biển ở tỉnh Khánh Hòa đã thu thập và xác định 9 loài cỏ
biển: Enhalus acoroides (cỏ lá Dừa), Thalassia hemprichii (cỏ Vích, cỏ Bò biển),
Halophila ovalis (cỏ xoan), H. beccarii (cỏ xoan gân song song, cỏ nàn nàn), H. minor
(cỏ xoan nhỏ), Cymodocea rotundata (cỏ kiệu), C. serrulata (cỏ kiệu răng cưa),
Halodule uninervis (cỏ hẹ ba răng), Ruppia maritima (cỏ kim). Các kết quả khảo sát đã
cho thấy vùng biển ven bờ Khánh Hòa là nơi phân bố quan trọng của các loài cỏ biển.
Diện tích các thảm cỏ biển ở Khánh Hòa rất lớn so với cả nước, ước khoảng 1.300 ha.
Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra một số vùng phân bố quan trọng của cỏ biển trong
các đầm, vịnh và vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa như: Xuân Tự- Xuân Hà, Hòn Bịp,
Tuần Lễ- Xóm Mới, Hòn Khói, Mỹ Giang- Ninh Tịnh, đầm Nha Phu, Bãi Tiên- Hòn
Chồng, Cửa Bé- Sông Lô, đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh (Nguyễn Xuân Hòa và
cs, 1996).
Nhìn chung, những vùng nước nông ven biển, đầm, vịnh là nơi có điều kiện rất
thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển các loài cỏ biển, tạo nên những cánh "đồng

cỏ" ngầm dưới nước. Các thảm cỏ này phân bố từ vùng triều thấp đến sâu lớn hơn 10
mét, nhưng cỏ biển phân bố phổ biến nhất là ở vùng nước nông, trong khoảng mức
triều thấp nhất cho đến vài mét độ sâu.

9
Ở các vùng triều ven biển và các đảo nước thường trong, nhiều sóng, độ mặn ổn
định, nền đáy phổ biến là cát, cát bùn hoặc đáy cát pha lẫn vụn san hô chết nên loài cỏ
Vích (Thalassia hemprichii) thường mọc phổ biến và chiếm ưu thế trên nền đáy. Độ
phủ, mật độ và sinh lượng của chúng thường rất cao như ở vùng Đường Đệ- Nha Trang
(mật độ lên đến 962 cây/ m
2
, sinh lượng từ 52- 90 g.khô/m
2
, độ phủ 80- 100%). Các
loài cỏ biển khác cũng thường gặp ở vùng triều ven biển và các đảo là: Cỏ xoan
(Halophila ovalis), Cỏ kiệu tròn (Cymodocea rotundata), Cỏ kiệu răng cưa
(Cymodocea serrulata). Có nơi tương đối yên sóng như ở Đầm Già (đảo Hòn Tre- Nha
Trang), vùng Mỹ Giang (Ninh Hòa) còn gặp loài cỏ lá dừa (Enhalus acoroides) phân
bố tạo thành thảm cỏ khá lớn.
Trong những đầm, vịnh kín sóng, nền đáy bùn cát hoặc cát bùn như đầm Thủy
Triều, đầm Nha Phu, vịnh Văn Phong, vịnh Cam Ranh rất thích hợp cho sự sinh trưởng
và phát triển của các loài cỏ biển như Cỏ lá dừa (Enhalus acoroides), cỏ xoan
(Halophila ovalis), cỏ xoan nhỏ (H. minor), cỏ hẹ (Halodule uninervis), cỏ kiệu tròn
(Cymodocea rotundata), cỏ Vích (Thalassia hemprichii)… Đặc biệt là trong đầm, vịnh
yên sóng như đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh, loài cỏ lá Dừa thường chiếm ưu thế
làm thành những đồng cỏ ngầm dưới nước với tổng diện tích lên đến hàng trăm hecta,
bao phủ khắp các vùng nước nông ven bờ và các cồn trong đầm (Nguyễn Xuân Hòa và
cs, 1996).
Đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh có tổng diện tích thảm cỏ biển lớn nhất so
với toàn tỉnh với khoảng 800 ha (Nguyễn Xuân Hòa và cs, 1996, Nguyễn Hữu Đại và

cs, 1997) với ưu thế là Cỏ lá Dừa. Đây là loài có kích thước lớn nhất trong các loài cỏ
biển, có chiều dài lá từ 0,7- 1,2m, mật độ thảm cỏ lá Dừa dao động từ 60- 100 cây/m
2
,
sinh lượng từ 56- 306g.khô/m
2
, độ phủ từ 20- 80% phụ thuộc vào mùa vụ sinh trưởng
và địa điểm phân bố. Những loài cỏ biển khác như Halophila ovalis, H. minor,
Halodule uninervis tuy có kích thước nhỏ ( từ 0,5- 10cm) nhưng mật độ của chúng rất
lớn, có khi lên đến 3.000 cây/m
2
.
Ngoài những vùng cỏ biển phân bố tập trung tạo nên các “cánh đồng” cỏ biển
rộng lớn kể trên, các thảm cỏ biển còn thường thấy phân bố trong các ao, đìa nước
mặn, các kênh, rạch nhỏ dẫn nước mặn nhưng diện tích không lớn.
Các thảm cỏ biển ở Khánh Hòa là nơi có tính đa dạng sinh học cao. Đã thu thập
37 loài Thân mềm, 8 loài giáp xác, 12 loài Da gai, 88 loài cá sống trong vùng phân bố
10
của cỏ biển. Các thảm cỏ biển ở Khánh Hòa còn là nơi sinh sản và ươm nuôi ấu trùng,
con non quan trọng của nhiều loài thủy sản có giá trị như tôm, ghẹ, cá (Nguyễn Hữu
Đại và cs 1999, Nguyen Huu Dai et al., 2000).
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trong những năm gần đây đã nêu lên
được bức tranh cơ bản về thành phần loài, đặc điểm phân bố, đa dạng sinh học và một
số vai trò sinh thái của thảm cỏ biển ở tỉnh Khánh Hòa. Tuy nhiên, các kết quả nghiên
cứu chưa nêu đầy đủ hiện trạng phân bố, thành phân loài, diện tích chính xác của các
thảm cỏ biển và nhất là còn thiếu sót nhiều thông tin về các thảm cỏ biển phân bố ở độ
sâu lớn. Đồng thời các nghiên cứu cũng chưa đưa ra được các giải pháp quản lý và sử
dụng bền vững hệ sinh thái cỏ biển ở tỉnh Khánh Hòa.




















11
CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA,
KHẢO SÁT HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN
VÀ THẢM CỎ BIỂN

1. Phương pháp điều tra, khảo sát rừng ngập mặn, thảm cỏ biển
Các đợt điều tra, khảo sát hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển trên diện
rộng ở vùng biển tỉnh Khánh Hòa được thực hiện từ tháng 11/2008- tháng 10/2009.
1.1. Khảo sát thực địa
- Khảo sát rừng ngập mặn:
Khảo sát sự phân bố và cấu trúc của rừng ngập mặn được tiến hành dựa theo
các tài liệu “ Hướng dẫn điều tra nguồn lợi biển nhiệt đới” (English et al., 1994). Công
việc khảo sát thực địa rừng ngập mặn được tiến hành dọc theo vùng ven biển tỉnh

Khánh Hòa. Kết hợp với bản đồ viễn thám, tại mỗi địa điểm có rừng ngập mặn, xác
định tọa độ và lập các tuyến khảo sát dọc theo đường bờ. Ở những nơi rừng ngập mặn
có bề ngang rộng, lập thêm các tuyến khảo sát thẳng góc với đường bờ. Trên các tuyến
khảo sát ghi chép thành phần cây ngập mặn và những nhận xét, đánh giá về hiện trạng,
đặc điểm phân bố. Các kết quả khảo sát thực địa được cung cấp cho bộ phận viễn thám
để chỉnh lý và tính toán chính xác diện tích phân bố của rừng ngập mặn.
Định loại cây ngập mặn dựa theo các tài liệu của Viên Ngọc Nam, Nguyễn Sơn
Thụy (1999), Shozo et al. (1998).
Thiết lập bản đồ phân bố và tính diện tích rừng ngập mặn dựa trên kết quả phân
tích ảnh viễn thám và điều tra thực địa.
- Khảo sát thảm cỏ biển:
Khảo sát sự phân bố và cấu trúc của thảm cỏ biển được tiến hành dựa theo các
tài liệu “ Hướng dẫn điều tra nguồn lợi biển nhiệt đới” (English et al., 1994) và “các
phương pháp nghiên cứu cỏ biển” ( Philips and McRoy,1990). Công việc thực địa
được thực hiện chủ yếu bằng phương tiện ghe thuyền máy kết hợp với lặn có khí tài
(SCUBA). Tại mỗi điểm khảo sát cỏ biển tiến hành lặn điểm theo các tuyến thẳng góc
đường bờ từ vùng triều đến hết độ sâu phân bố của cỏ biển để xác định sự phân bố và
thành phần loài cỏ biển. Sử dụng các khung vuông có diện tích 1/16 m
2
( 25cm X
25cm) để thu mẫu sinh lượng và mật độ của cỏ biển. Tại mỗi điểm khảo sát lấy từ 3
12
đến 5 khung sinh lượng tùy theo diện tích phân bố của thảm cỏ. Đánh giá độ phủ cỏ
biển theo cấp bậc từ 1- 5 (English et al., 1994). Mật độ cỏ biển là số lượng thân đứng
trung bình của cỏ biển trong khung được quy ra đơn vị 1 m
2
(cây/m
2
). Sinh lượng cỏ
biển là trọng lượng trung bình của cỏ biển trong khung được quy ra đơn vị 1 m

2

(g.khô/m
2
) sau khi cỏ biển được rửa sạch, sấy khô ở nhiệt độ 60
0
C trong 24 giờ và cân
ở phòng thí nghiệm.
Sử dụng máy định vị vệ tinh cầm tay để xác định tọa độ của các điểm điều tra
cỏ biển. Xác định phân bố và diện tích phân bố của thảm cỏ biển dựa theo bản đồ giải
đoán ảnh viễn thám kết hợp với điều tra thực địa và phần mềm Mapinfo.
Định lọai cỏ biển dựa theo tài liệu của Philips, R.C. and E.G. Menez (1988) và
Fortes (1993).
Sơ đồ các điểm khảo sát chính rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở vùng biển tỉnh
Khánh Hòa được trình bày ở phần phụ lục.
1.2. Phương pháp điều tra bằng viễn thám
1.2.1. Nguồn tài liệu
1.2.1.1. Tài liệu khảo sát thực tế:
- Tiến hành khảo sát thực địa (2 đợt: tháng 10 năm 2008 và tháng 3 năm 2009)
để ghi nhận vị trí các dải rừng ngập mặn ở Tuần Lễ (vịnh Bến Gỏi), Vạn Ninh, đỉnh
đầm Nha Phu (Ninh Hòa), Cửa bé (Nha Trang) và đỉnh đầm Thủy Triều (Cam Ranh)
bằng định vị GPS – Garmin 2. Kết hợp đánh giá đa dạng sinh học của rừng ngập mặn
ở các khu vực nêu trên.
- Tiến hành khảo sát ngầm, lặn có khí tài nhằm đánh giá thành phần loài, độ
phủ, sinh khối thực vật và ghi nhận các thảm cỏ biển ở đầm Thủy Triều, vịnh Cam
Ranh, vịnh Nha Trang, đầm Nha Phu và vịnh Văn Phong – Bến Gỏi.
1.2.1.2. Tài liệu ảnh vệ tinh: Đã thu thập các nguồn ảnh vệ tinh đa phổ, đơn
sắc vào các thời kỳ khác nhau, cụ thể là
o Nguồn tư liệu ảnh viễn thám củ do hiệp hội địa chất Hoa Kỳ (USGS
– US Geologic Survey ) cung cấp bao gồm :

 Một cảnh Landsat MSS (60m) chụp ngày 16/5/1973 ở khu vực Quy
Nhơn – Bình Thuận
 Một cảnh Landsat TM (30m) chụp ngày 05/07/1992 ở khu vực
Quy Nhơn – Nha Trang
13
 Một cảnh Landsat TM (30m) chụp ngày 19/06/1989 ở khu vực
Nha Trang – Phan Rí
 Một cảnh Landsat ETM+ (30m) chụp ngày 04/04/2002 ở khu vực
Quy Nhơn - Nha Trang
 Một cảnh Landsat ETM+ (30m) chụp ngày 14/01/2002 ở khu vực
Nha Trang – Phan Rí
o Nguồn tư liệu ảnh viễn thám SPOT4,5 thu thập từ các đề tài trước
đây, bao gồm
 Một cảnh SPOT4 (20m) chụp ngày 13/8/2000 ở khu vực Văn
Phong – Nha Trang.
 Một cảnh SPOT5 (10m) chụp ngày 11/03/2004 ở khu vực Nha
Trang – Cam Ranh.
o Nguồn tư liệu ảnh viễn thám AVNIR2 thu thập từ các đề tài trước
đây, bao gồm
 Một cảnh AVNIR2 (10m) chụp ngày 14/10/2006 ở khu vực Văn
Phong – Nha Trang.
 Hai cảnh AVNIR2 (10m) chụp ngày 17/07/2007 ở khu vực Văn
Phong – Nha Trang và Nha Trang – Cam Ranh
 Hai cảnh AVNIR2 (10m) chụp ngày 19/05/2008 ở khu vực Văn
Phong – Nha Trang và Nha Trang – Cam Ranh.
o Nguồn tư liệu ảnh viễn thám Formosat2 thu thập từ các đề tài trước
đây, bao gồm
 4 cảnh Formosat2 (8m) chụp tháng 5 tháng 6 năm 2008 từ tuần tự
từ vịnh Văn Phong đến vịnh Cam Ranh
o Nguồn ảnh tổ hợp màu thật (True color composit) của ảnh Quickbird

(0.65m) thu thập và xử lý trực tiếp từ mạng Google Earth, bao gồm
 Ba cảnh Quickbird (0.65m) chụp ngày 24/3/2002 và 04/04/2002
chụp ở các khu vực Văn Phong, Nha Trang và Cam Ranh
 Hai cảnh Quickbird (0.65m) chụp ngày 13/8/2003chụp ở các khu
vực Văn Phong, Nha Trang và Cam Ranh
 Một cảnh Quickbird (0.65m) chụp ngày 26/8/2006 chụp ở các khu
vực Nha Trang
14
 Một cảnh Quickbird (0.65m) chụp ngày 03/9/2007 chụp ở các khu
vực Nha Trang
Thực tế, đối với nguồn ảnh từ mạng Google Earth, chúng tôi không chọn toàn
cảnh, mà chỉ phân tích, xử lý ở những nơi có thảm cỏ biển và cây ngập mặn. Phương
pháp xử lý chúng sẽ được trình bày ở phần tiếp theo.
1.2.2. Phương pháp xử lý
Các phương pháp và kỹ thuật viễn thám khác nhau đã được sử dụng nhằm nhận
dạng sự phân bố và biến động của các thảm cỏ biển và rừng ngập mặn ở Khánh Hòa,
cụ thể là
1.2.2.1. Phương pháp tính chỉ số bất biến theo độ sâu – (DII – Depth
Invariance Index) là kỹ thuật chính để nhận dạng sự phân bố hiện nay của các thảm cỏ
biển.
Dựa trên nguyên lý của việc giải đóan rạn san hô bằng phương pháp tính toán chỉ
số bất biến theo độ sâu (Tống Phước Hoàng Sơn, 2004, 2007a, 2007b), một quy trình
giải đóan rạn san hô và các hợp phần nền đáy khác trong điều kiện thực tế ở vùng ven
bờ Khánh Hòa đã được đề xuất. Quy trình này cũng được tiến hành để nhận dạng các
thảm cỏ biển và được tiến hành theo các bước sau:
a) Nắn chỉnh hình học: nhằm đưa dữ liệu ảnh vệ tinh (ở đây là bộ ảnh AVNIR2
và ảnh Formosat2) về tọa độ địa lý thực tế ở khu vực Khánh Hòa theo hệ lưới chiếu
VN2000, múi 3
o
, kinh độ chuẩn 108

o
15’ E.
b) Hiệu chỉnh bức xạ: là phép chuyển ảnh từ giá trị thô (DN – Digital number)
trên ảnh sang bức xạ phổ. Phương trình chuyển đổi từ giá trị DN (0 ÷ 255) sang bức
xạ phổ ở đầu dò biểu diễn ở dạng
Rad = a * DN + b (a: gain – độ dốc; b: offset – kinh độ gốc)
Gain và offset của từng băng phổ của ảnh AVNIR2 được thể hiện trên leader file
đi kèm theo ảnh.
c) Hiệu chỉnh khí quyển: cho phép hiệu chỉnh giá trị bức xạ phổ sau khi loại trừ
các ảnh hưởng của khí quyển, chuyển đổi bức xạ phổ sang phổ phản xạ trên bề mặt
nước.
Ở đây chúng tôi đã sử dụng bộ công cụ “dark substract” trong phần mềm ENVI
4.2 nhằm hiệu chỉnh khí quyển. Nguyên lý và các thuật tóan cụ thể của phương pháp
lọai bỏ ảnh hưởng khí quyển theo phương pháp lọai trừ điểm tối đã được chúng tôi
15
giới thiệu cụ thể trong báo cáo tổng hợp “Sử dụng công nghệ viễn thám trong giải
đóan phân bố rạn san hô ở ven bờ Ninh Thuận” (Tống Phước Hoàng Sơn, 2004).
d) Hiệu chỉnh cột nước: cho phép chuyển đổi phổ phản xạ bề mặt về phản xạ nền
đáy. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong phép xử lý ảnh nhằm giải đoán phân bố
rạn san hô và các hợp phần nền đáy khác.
Quan hệ tuyến tính (logarit) giữa phổ phản xạ bề mặt của băng thứ i và băng thứ
j theo các điểm nền đáy cát chọn ngẫu nhiên ở các độ sâu khác nhau là cơ sở của phép
tính chỉ số bất biến theo độ sâu (D.I.I – Depth Invariance Index).
D.I.I
ij
= a * Ln(i) - Ln(j) + b
Trong đó:
i, j : là phổ phản xạ bề mặt của cặp băng (i,j) lấy từ các điểm nền đáy cát.
a, b : là hệ số góc và kinh độ gốc thu được từ đường hồi quy tuyến tính thể hiện
quan hệ giữa phổ phản xạ bề mặt giữa băng i và băng j.

e) Che khuất (mask) khu vực không nghiên cứu : Khu vực lục địa và vùng nước
sâu được che khuất (bằng phép gán gía trị DN = 0) nhằm lọai bỏ phổ của các đối
tượng không nằm trong phạm vi nghiên cứu và làm tăng cường độ rõ nét của các đối
tượng cần thiết trong phép phân lập.
f) Phân lọai có giám sát (supervised classification): sử dụng phép phân lọai
“khoàng cách Mahalobich” trong phần mềm ENVI 4.2 dựa trên các điểm khảo sát trên
các hợp phần nền đáy khác nhau nhằm nhận dạng các đối tượng nền đáy cần phân lập.
g) Xử lý phổ phản xạ nền đáy và tách phổ nhằm phân biệt sự khác nhau giữa các
thảm cỏ biển và thảm rong ở vùng ven bờ Khánh Hòa.
g) Chuyển đổi dữ liệu dạng raster sang dữ liệu GIS: cho ta bức tranh phân bố của
các thảm cỏ biển ở vùng ven bờ Khánh Hòa.
b) Đánh giá sự phân bố chi tiết của thảm cỏ biển – thảm rong ở vùng ven bờ từ
ảnh Google – Earth:
1.2.2.2. Sử dụng nguồn dữ liệu từ tài nguyên mạng (Google Earth) trong phân
tích đánh giá sự phân bố rừng ngập mặn.
Việc nhận dạng các đám cây ngập mặn ở ven bờ Khánh Hòa (cũng như ở khu
vực khác ở Miền Trung – Việt Nam) đang là một thách thức đối với các nhà khoa học.
Hiện tại do phong trào nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, rừng ngập mặn bị chặt phá
nhiều và chỉ còn sót lại các mảng rừng nhỏ bé hoặc thậm chí chúng chỉ tồn tại ở dạng
16
từng đám vài ba cây Đước, Đưng, Mắm mọc lưa thưa. Ngay cả các ảnh viễn thám độ
phân giải cao như Landsat ETM+(30m), ASTER (15m), SPOT5 (10m), AVNIR2
(10m), Formosat2 (8m) cũng khó phát hiện được chúng. Bằng sử dụng ảnh Google
Earth (với các ảnh QuickBird - 0.65 m), chúng tôi đã giải quyết vấn đề này như sau:
- Định vị vị trí các mảng rừng từ số liệu khảo sát thực địa, chuyển tiếp vào
Google Earth.
- Số hóa trực tiếp trên màn hình (Screen Digitizer) bằng công cụ Add Path
(hoặc Add Polygon) ở những mảng rừng nhỏ bé (phóng to) từ Google Earth.
- Chuyển đổi từ file dạng *.kml thuộc Google Earth sang dạng GIS (*.shp,
*.tab, *.bln,…) bằng công cụ kml2shp hoặc kml2x.

- Chuyển đổi hệ chiếu từ UTM, WGS84 đới 49 về hệ tọa độ địa phương (VN
2000, múi 3
o
, kinh tuyến trục 108
o
15’ E)
- Biên tập bản đồ, tính diện tích.
1.2.2.3. Phương pháp gộp ảnh (Fusion method) sử dụng kết hợp giữa ảnh
Formosat2 đa phổ (8m) và ảnh Formosat2 toàn sắc (2m) trong nhận dạng các mảng
cây ngập mặn ở Khánh Hòa.
Rất tiếc, mạng Google Earth không phủ toàn bộ khu vực Khánh Hòa, ở đỉnh
Vịnh Bến Gỏi do thiếu ảnh chụp.chúng tôi phải phân tích bổ sung bằng kết hợp
phương pháp gộp (Fusion) ảnh đa phổ Formosat (8m) kết hợp ảnh Formosat toàn sắc
(2m), theo một kỹ thuật đặc biệt như sau:
- Fusion PC Sharperness giữa ảnh Formosat đa phổ 8m và toàn sắc 2m (ảnh
Formosat chụp ngày 19 -5 -2008).
- Chọn băng PC1 và PC2 từ ảnh gộp.
- Tạo ảnh tổ hợp màu giữa PC1, PC2 và băng hồng ngọai (băng 4) của ảnh
Formosat ta sẽ thấp rõ các mảng rừng ngập mặn tương phản hoàn toàn với vùng nước,
đất nuôi trồng thủy sản và cả các đối tượng khác.
- Số hóa, biên tập lớp bản đồ GIS
1.2.2.4. Đánh giá biến động lịch sử của rừng ngập mặn ở Khánh Hòa từ tư liệu
ảnh Landsat lịch sử: Sự thay đổi diện tích rừng ngập mặn là điều quan tâm của các
nhà quản lý, các nhà nghiên cứu môi trường học và sinh thái học. Cho đến nay, chưa
ai xác định chính xác được rừng ngập mặn ở Khánh Hòa bị tàn phá nhiều do đâu
17
(chiến tranh, nuôi trồng thủy sản, khai thác làm gỗ ), chúng xãy ra ở khu vực nào và
phạm vi bị tàn phá ở mức độ ra sao?
Bằng sử dụng nguồn tư liệu ảnh viễn thám cũ do hiệp hội địa chất Hoa Kỳ
(USGS – US Geologic Survey ) cung cấp như đã nêu ở phần tài liệu sử dụng, chúng

tôi đã phân tích biến động rừng ngập mặn ở toàn tỉnh Khánh Hòa từ 1973 đến 2003
bằng phương pháp phân tích chỉ số NDVI và độ xanh của lớp phủ (chỉ sổ Taselled
Cap) được sử dụng để đánh giá mức độ biến động rừng.
Bằng việc tổ hợp ảnh NDVI (hoặc Taselled Cap) vào các thời kỳ khác nhau sẽ
cho ta bức tranh biến động của rừng ngập mặn theo thời gian. Màu đỏ sẽ chỉ rõ biến
động theo chu kỳ dài (từ 1973 – 2003) còn màu vàng thể hiện biến động ở chu kỳ ngắn
từ (1989 – 2003), màu trắng thể hiện sự không biến động.
2. Tài liệu và phương pháp điều tra đa dạng sinh học
2.1. Phương pháp điều tra thành phần loài cá
Thực hiện 2 đợt thu mẫu thành phần loài cá đánh bắt được của các loại nghề
khai thác thủy sản trong đầm như: Rớ, lưới cước, đăng, chài,… vào tháng 6 và tháng 8
năm 2009.
Việc thu mẫu được thực hiện trực tiếp từ các phương tiện đánh bắt của ngư dân.
Tiến hành chụp ảnh toàn bộ thành phần loài cá thu được làm cơ sở phân tích và đối
chiếu. Đã thu thập được khoảng 150 mẫu vật với khoảng 200 ảnh chụp các mẫu vật
nói trên.
Đồng thời bổ sung thêm một số loài bắt gặp từ những nghiên cứu trước đây
(năm 2006) có liên quan đến thành phần loài cá trong đầm thủy triều.
- Xác định thành phần loài chủ yếu dựa vào các tài liệu phân loại Myers (1991),
Shen et al (1993), Allen (1997), FishBase (2004), Nakabo (2002).
- Sắp xếp hệ thống phân loại theo Lindberg (1971), FishBase (2004).
- Đối chiếu và xác định tên tiếng Việt theo danh mục cá biển Việt Nam của
Nguyễn Hữu Phụng và cs (1994, 1995, 1997, 1999).
2.2. Phương pháp điều tra thành phần loài động vật giáp xác
Nguồn lợi nhóm Giáp Xác, với thành phần chính là Tôm, Ghẹ, được đánh giá
theo phương pháp điều tra và thu mẫu trực tiếp các phương tiện khai thác thủy sản
trong đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh và tại các bến cá thuộc phạm vi đầm Thủy
Triều và vịnh Cam Ranh.
18
Các mẫu vật thu được sẽ được xử lý, chụp ảnh và bảo quản trong dung dịch cồn

75%.
Phân tích mẫu vật được thực hiện trong phòng thí nghiệm Viện Hải Dương Học
với sự trợ giúp của các trang thiết bị (kính lúp, kính hiển vi…)
Tài liệu sử dụng cho việc phân loại: Banner and Banner (1975), Dai Ai-yun and
Yang Si-liang (1991), Gurjanova (1972), Holthuis (1980, 1993, 2002), Nguyễn Văn
Chung (2003), Nguyen Van Chung và cs (2000), Poore Gary (2004).
2.3. Phương pháp điều tra thành phần loài động vật thân mềm
Mẫu Thân mềm được thu thập tại hai khu vực có cỏ biển phân bố nhiều đó là
Vịnh Vân Phong và Vịnh Cam Ranh năm 1996 và 2009 (chỉ thu mẫu định tính ở đầm
Thủy Triều và vịnh Cam Ranh).
Mẫu định lượng được thu bằng phương pháp lặn, khung thu mẫu có diện tích là
0,25 m
2
. Mỗi khu vực điều tra được thu 05 điểm. Ngoài ra, mẫu định tính cũng được
thu trong khu vực điều tra nghiên cứu.
Toàn bộ mẫu vật được thu thập được ngâm trong cồn 70
o
và đưa về phòng thí
nghiệm. Việc phân tích mẫu và sử lý số liệu được dựa vào " Qui phạm điều tra biển -
Phần Sinh vật đáy".
Việc giám định tên loài Động vật Thân mềm được dựa vào các tài liệu: Kira
(1962); Habe & Kosuge (1966); Cernohorsky (1972); Kay (1979) Hirase (1984);
Springsten & Leobrera (1986); Abbott & Dance (1986); Abbott (1991).
3. Phương pháp điều tra nguồn lợi thủy sản
Điều tra nguồn lợi thủy sản và hiện trạng khai thác nguồn lợi liên quan đến
rừng ngập mặn, thảm cỏ biển bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp cộng đồng ở các
xã ven đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh gồm: Cam Hòa, Cam Hải đông, Cam Hải
tây, Cam Đức, Cam Phúc bắc, Cam Phúc nam, Cam Nghĩa. Những ngư dân được mời
phỏng vấn gồm đại diện cho các nghề khai thác thủy sản ven bờ như lưới cước, rớ,
chài, lờ dây, lặn hoạt động chủ yếu trong vùng phân bố cỏ biển. Các số liệu điều tra

được thống kê và xử lý bằng bảng tính Exel.
4. Phương pháp thu mẫu và phân tích môi trường
4.1. Thu mẫu
Theo kế hoạch của đề tài, 3 mẫu nước và trầm tích đã được thu vào tháng 6/2009
tại 3 trạm trong khu vực Mỹ Giang, vịnh Vân Phong. Bên cạnh đó, mẫu cỏ biển (cỏ
19
Vích Thalassia hemprichii và cỏ Lá dừa Enhalus acoroides) cũng được thu. Vị trí các
trạm thu mẫu được trình bày ở hình 1.

Hình 1: Vị trí các trạm thu mẫu phân tích, đánh giá vai trò của thảm cỏ biển đối với môi
trường ở vùng Mỹ Giang.
Ví trí các trạm thu mẫu môi trường được chọn có đặc điểm sau:
Trạm 1: Nam đảo Mỹ Giang, thảm cỏ biển phát triển.
Trạm 2: Bắc đảo Mỹ Giang, không có thảm cỏ biển.
Trạm 3: Gần khu dân cư, gần nhà máy đóng tàu Huyndai – Vinashin
4.2. Phương pháp thu, bảo quản và phân tích mẫu
Các mẫu nước, trầm tích và cỏ biển được thu, xử lý, bảo quản và phân tích theo
các phương pháp tiêu chuẩn hiện hành trong APHA, 2005 và FAO, 1975. Cụ thể là:
- Thu mẫu:
Mẫu nước được thu trực tiếp vào can nhựa hoặc lọ nhựa PE đã được xử lý trước
bằng dung dịch HNO
3
PA và nước cất 2 lần, được tráng kỹ bằng nước mẫu tại chỗ trước
khi đựng mẫu.
Mẫu trầm tích (lớp 5 cm trên cùng) được thu bằng cuốc chuyên dùng.
- Bảo quản mẫu:
Mẫu nước phân tích các yếu tố dinh dưỡng được giữ lạnh và phân tích trong
ngày.
20
Mẫu nước phân tích kim loại nặng được cố định bằng HNO

3
đậm đặc
(1ml/lmẫu).
Mẫu trầm tích được giữ lạnh ở nhiệt độ -5
o
C.
Mẫu cỏ biển được để mát trong tủ lạnh.
Các chỉ tiêu phân tích gồm :
Mẫu nước: pH, Nhiệt độ, Độ muối, DO, BOD, COD, Vật lơ lửng, Ammonia,
Nitrite, Nitrate, Phosphate, Silicate, N hc, P hc, Fe, Zn, Cu, Pb và Coliform
Mẫu trầm tích: Độ hạt, C hữu cơ, N hữu cơ, P tổng số, Fe, Zn, Cu, Pb và
Coliform.
- Phân tích mẫu
* Phân tích mẫu nước:
- pH được đo bằng máy đo chuyên dùng.
- TSS: phương pháp khối lượng (dùng màng lọc 0,45µm).
- DO: phương pháp chuẩn độ (Winkler).
- COD bicromate: oxi hóa bằng hỗn hợp sunfochromic, lượng bicromate thừa
được chuẩn độ bằng dung dịch muối Mohr.
- Ammonia:phương pháp xanh indophenol (trắc quang phức màu xanh của
amonia với hypoclorit và phenol, đo ở bước sóng 630 nm).
- Nitrite: phương pháp trắc quang phức azo màu hồng (sử dụng axit sunphanilic
và α-naptylamin ở pH 2,0 đến 2,5), đo độ hấp thụ quang ở bước sóng 543 nm.
- Nitrate: khử nitrate thành nitrite qua cột khử Cd mạ Cu, nitrite tạo ra được xác
định bằng phương pháp trên.
- Phosphate: ammoni molybdat và kali antimonyl tartrat phản ứng với
phosphate tạo thành axit dị đa phosphomolybdic, axit này bị khử bằng axit ascorbic
tạo ra sản phẩm màu xanh, đo độ hấp thụ quang ở bước sóng 885 nm (phương pháp
xanh molibden).
- Silicate: phương pháp xanh molibden.

- N hữu cơ: phá mẫu theo phương pháp Kjeldahn, ammonia được chưng cất và
xác định bằng phương pháp chuẩn độ (hàm lượng cao) hoặc phương pháp xanh
indophenol (hàm lượng thấp).
- P tổng: phá mẫu bằng hỗn hợp axit mạnh, phosphate tạo ra được phân tích
bằng phương pháp xanh molibden.
21
- Kim loại nặng được phân tích bằng phương pháp quang phổ hấp thu nguyên
tử (AAS).
- Coliform được phân tích bằng phương pháp cấy nhiều ống.
* Phân tích mẫu trầm tích
- Độ hạt: phương pháp rây và phương pháp pipet.
- C hữu cơ: oxi hóa mẫu hổn hợp sunfochromic, lượng bicromate thừa được
chuẩn độ bằng muối Mohr.
- N hữu cơ: phương pháp Kjeldahn.
- P tổng: phá mẫu bằng hỗn hợp axit mạnh, phosphate tạo ra được phân tích
bằng phương pháp xanh molibden.
- Kim loại nặng: phân tích bằng phương pháp quang phổ hấp thu nguyên tử
(trong dịch chiết axit nitric 10%).
- Coliform: phương pháp cấy nhiều ống.

* Phân tích mẫu cỏ biển: lá cỏ biển được rửa sạch bằng nước cất 2 lần, sấy khô ở
nhiệt độ 105
o
C, tro hóa ở 550
o
C và được hòa tan trong dung dịch acid 10% HNO3.

















22
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1. Hiện trạng hệ sinh thái rừng ngập mặn ở tỉnh Khánh Hòa
1.1. Thành phần loài cây ngập mặn
Kết quả khảo sát đã thu thập và xác định 34 loài cây ngập mặn ở tỉnh Khánh
Hòa, trong đó có 20 loài cây ngập mặn chủ yếu và 14 loài cây tham gia rừng ngập mặn
(bảng 1). Các loài cây ngập mặn mọc phổ biến là Đước (Rhizophora apiculata), Đưng
(Rhizophora mucronata), Bần trắng (Sonneratia alba), Mắm trắng (Avicennia alba),
Mắm biển (Avicennia marina), Giá (Excoecaria agallocha)
Đặc biệt cây Cóc đỏ (Lumnitzera littorea) được thấy phân bố ở vùng Cam Lập
và Mỹ Ca (vịnh Cam Ranh) là loài cây ngập mặn quý hiếm, có tên trong sách đỏ Việt
Nam cần được bảo tồn.

Bảng 1: Thành phần loài cây ngập mặn ở tỉnh Khánh Hòa
TT Tên khoa học Tên Việt Nam
Các loài ngập mặn chủ yếu (true mangroves)
Họ Rau đắng (AIZOACEAE)

1 Sesuvium portulacastrum L. Sam biển
Họ Mắm (AVICENNIACEAE)
2 Avicennia alba Blume Mắm trắng
3 Avicennia marina (Forsk.) Vierh. Mắm biển
4 Avicennia officinalis L. Mắm đen
5 Avicennia lanata Ridl Mắm quăn
Họ Dơn nem (MYRSINACEAE)
6 Aegiceras corniculatum (L.) Blanco Sú
Họ Cau dừa (PALMAE)
7 Nypa fruticans Dừa nước
8 Phoenix paludosa Chà là
Họ Ráng (PTERIDACEAE)
9 Acrostichum aureum Ráng đại
Họ Bàng (COMBRETACEAE)

23
10 Lumnitzera littorea Cóc đỏ
11 Lumnitzera racemosa Willd. Cóc trắng (Cóc vàng)
Họ Xoan (MELIACEAE)
12 Xylocarpus granatum Koenig Xu ổi
Họ Đước (RHIZOPHORACEAE)
13 Bruguiera gymnorrhiza Vẹt dù
14 Rhizophora apiculata Bl. Đước, Đước đôi
15 Rhizophora mucronata Poir. In Lamk Đưng, Đước bộp
16 Ceriops decandra (Griff.) ( Ceriops zippeliana) Dà quánh
Họ Cà phê (RUBIACEAE)
17 Scyphiphora hydrophyllacea Côi
Họ Thầu dầu (EUPHORBIACEAE)

18 Excoecaria agallocha Giá

Họ Bần (SONNERATIACEAE)

19 Sonneratia alba J. Sm in Rees Bần trắng
20 Sonneratia caseolaris (L.) Engl Bần chua
Những loài tham gia rừng ngập mặn (associate mangroves)
Họ Na (ANNONACEAE)
21 Annona glabra L. Na biển
Họ Thiên lý (ASCLEPIADACEAE)
22 Gymnanthera nitida Lõa hùng
Họ Cúc (COMPOSITAE)
23 Pluchea indiaca (L.) Leres Cúc tần, Lức
Họ Cói (CYPERACEAE)
24 Cyperus malaccensis Lam Cói
Họ Đậu (FABACEAE)
25 Derris trifoliata Lour Cốc kèn
Họ Đinh (BIGNONIACEAE)
26 Dolichandrone spathacea Quao nước
Họ Bông (MALVACEAE)
27 Thespesia populnea (L.) Sd.ex.Corrs Tra lâm vồ, Tra biển
24
28 Hibiscus tiliaceus L. Tra, Tra nhớt
Họ Bìm bìm (CONVOVULACEAE)
29 Ipomoea pes-caprae (L.) Rau muống biển
Họ Sim (MYRTACEAE)
30 Melaleuca cajeputi Powell Tràm
Họ Cỏ roi ngựa (VERBENACEAE)
31 Clerodendron inerme (L.) Gaertn. Ngọc nữ, Chùm gọng
Họ Gai me (SALVADORACEAE)
32 Azima sarmentosa (Bl.) Benth.& Hook. Chùm lé
Họ Dứa dại (PANDANACEAE)

33 Pandanus tectorius L. Dứa dại
34 Pongamia pinnata Bánh dày











25
Hình 1: Cây Đước (Rhizophora apiculata
Hình 2: Cây Đưng (Rhizophora
mucronata)

Hình 3: Cây Mắm (Avicennia sp.) Hình 4: Cây Bần trắng (Sonneratia
alba)
Hình 5: Cây Vẹt dù (Bruguiera
gymnorrhiza).
Hình 6: Cây Giá (Excoecaria
agallocha).

×