Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

609 Mở rộng cho vay doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần á Châu chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.89 KB, 96 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian hơn ba tháng thực tập tại Công ty cho thuê tài chính -
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em đã nhận được sự giúp đỡ, tạo
điều kiện của Ban lãnh đạo công ty, đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của các
anh chị cán bộ phòng kinh doanh, chính sự giúp đỡ đó đã giúp em hoàn thiện và
nắm bắt những kiến thức thực tế về nghiệp vụ cho thuê tài chính nói riêng cũng
như nghiệp vụ tín dụng nói chung. Những kiến thức thực tế này sẽ là hành trang
ban đầu cho quá trình công tác, làm việc sau này của em. Vì vậy, em xin bày tỏ
lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban lãnh đạo công ty, tới toàn thể cán bộ công ty
về sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị trong thời gian em thực tập vừa
qua. Qua đây, em xin chúc Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam ngày càng phát triển, kính chúc các cô chú, các anh chị
luôn thành đạt trên các cương vị công tác của mình.
Em cũng xin đặc biệt cảm ơn tình cảm và sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình
của thầy giáo- TS Phạm Quang Trung. Nhờ sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy, em
đã có được những kiến thức quý báu về cách thức nghiên cứu vấn đề cũng như
nội dung của chuyên đề. Nhờ đó, mà em có thể hoàn thành tốt chuyên đề tốt
nghiệp này.
Cuối cùng, em xin trân trọng cảm ơn tình cảm và sự truyền thụ kiến thức
của tập thể giáo viên khoa Ngân hàng- Tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân trong
suốt quá trình em học tập và nghiên cứu.

LỜI NÓI ĐẦU
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước thì các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt.
Cộng với sự biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu
vực, các doanh nghiệp ngày càng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc mới. Các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phá sản hàng loạt, những doanh nghiệp ngấp nghé
đứng bên bờ vực phá sản cũng không ít. Con đường để tồn tại lúc này là phải
nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ để nâng cao chất
lượng sản phẩm.


Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, kỹ thuật
công nghệ lạc hậu với vốn đầu tư thấp, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả,
manh mún, chưa tạo lập được cho mình một cơ sở vật chất kĩ thuật đầy đủ, vững
chắc nhất định để nắm bắt những cơ hội phát triển kinh tế.
Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách về việc giải quyết vấn đề vốn cho
các doanh nghiệp. Trong điều kiện các nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, cho thuê
tài chính ra đời với những ưu điểm vốn có đã trở thành giải pháp kịp thời và
đúng đắn góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tuy buổi đầu hoạt động
cho thuê tài chính ở Việt nam đã có những thành công nhất định song do mơí đi
vào hoạt động chưa lâu nên các công ty cho thuê tài chính còn gặp nhiều khó
khăn, bất cập...Do vậy, việc nghiên cứu hoạt động của nó ra sao, tổ chức như thế
nào, hoàn thiện và phát triển hoạt động này như thế nào ... đang là những vấn đề
cấp bách, cần được quan tâm nghiên cứu.
Trên cơ sở kiến thức được học và nghiên cứu thực tế trong thời gian thực
tập tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,
nhằm góp phần giải quyết các vấn đề nêu trên, em đã mạnh dạn nghiên cứu đề
tài: Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty
cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam .
Kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về cho thuê tài chính.
2

Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty
cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài
chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
3

CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Lịch sử hình thành của hoạt động cho thuê
Cho thuê tài sản là một công vụ tài chính đã được sáng tạo ra từ rất sớm
trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch thuê tài sản
đã xuất hiện từ năm 2800 trước công nguyên tại thành phố Sumenan của người
UR. Các thầy tu giữ vai trò cùng cho thuê, người thuê là những nồng dân tự do.
Tài sản được đem ra giao dịch bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật
kéo, nhà cửa,đất ruộng, nói chung bao gồm rất nhiều tài sản rất đa rạng.
Trong nền văn minh cổ đại khác như Hy lạp - La mã hay Ai cập cũng đã
xuất hiện các hình thức thuê để tài trợ cho việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ
sản xuất. Có thể nói rằng, rất nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay
gặp phải đã được giải quyết từ nhiều thế kỷ trước.
Tuy nhiên các giao dịch thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê mua
kiểu truyền thống (Traditional Lease) Phương thức giao dịch của hình thức này
tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay và trong suốt lịch sử hàng
ngàn năm tồn tại cuả nó, đã không có 1 sự thay đổi lớn về tinh chất giao dịch
Phải cho đến thế kỷ 19, hoạt động cho thuê đã có sự giao tăng đáng kể về
số lượng và chủng loại thiết bị, trài sản cho thuê. Đến đầu thập niên 50 của thế
kỷ 20, giao dịch cho thuê đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là tại Hoa
kỳ. Nguyên nhân của sự phát triển này là do hoạt động cho thuê đã có những
thay đổi về tính chất của giao dịch. Vào năm 1952, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, một công ty tư nhân của Mỹ là
Unitedstates Lrasing Conpration đã sáng tạo ra nghiệpvụ cho thuê trung và dài
hạn (Finanial Lease, Capitl Lease). Sau đó nghiệp vụ này đã phát triển sang
Châu âu và với tên gọi "Credit Bail". Cũng năm 1960, hợp đồng cho thuê đầu
tiên được thảo ra ở Anh có giá trị 18000 bảng Anh.
Bước sang thập niên 70, nghiệp vụ cho thuê tài chính đã có những bước
phát triển mạnh mẽ ở Châu á và nhiều khu vực khác trên thế giới. Cho đến nay,
nó đã trở thành hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn có tính an toàn cao, tiện

lợi và hiệu quả đối với các bêntham gia và đối với toàn xã hội.Theo một thống
4

kê gần đây cho thấy ngành công nghiệp cho thuê tài chính có giá trịnh trao đổi
chiếm khoảng 350 tỷ USD vào năm 1994 và 450 tỷ USD vào năm 1998.
Ngày nay, hoạt động cho thuê tài chính đang phát triển rất mạnh mẽ ở các
quốc gia đang phát triển và tầm quan trọng của hình thức này ngày càng được
khẳng định
1.1.2 Các tiêu chuẩn xác định một giao dịch là cho thuê tài chính.
a. Theo Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC).
Hiện nay phần lớn các nước đưa ra các tiêu chuẩn dựa trên các tiểu chuẩn
mà Uỷ ban tiêu chuẩn kế troán quốc tế đã quy định để xác định một giao dịch
được gọi là thuê tài chính.
Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế đã đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ một
giao thuê nào thoả thuận ít nhất là 1 trong 4 tiêu chuẩn đó đều được gọi là thuê
tài chính. Bốn tiêu chuẩn đó như sau:
1- Quyền sở hữu tài sản được giao khi hết thời hạn hợp đồng.
2- Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua.
3. Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời hạn hoạt động của tài sản.
4. Hiệu giả của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài
sản.
Nguồn: Internationl Accountring Standards Conrittee, IAS 17, 1991/1992,
P236.
b. Theo Họiđồng tiêu chuẩn kế toán tài chính Mỹ (FASB)
Ở Mỹ hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính (FASB) đã quy định 4 tiêu
chuẩn như sau:
1. Quyền sở hữu của tài sản thuê được chuyển giao cho người đã thuê khi
chấm dứt hợp đồng thuê
2. Hợp đồng thuê cho phép người được thuê được quyền lựa chọn mua tài
sản thuê với giá thấp hơn ở thời điểm nào đó hoặc đến khi chấm dứt thời hạn

thuê.
3. Thời hạn thuê bằng 75% hoặc cao hơn so với đời sống hoạt động ước
tính của tài sản thuê.
5

4. Hiện giá của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% hoặc hơn
so với giá trị tài sản thuê.
c. Theo quyết định 1205 - CT/CĐKT ngày 14/12/1994 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính.
Ở Việt Nam, theo quyết định này, một giao dịch được gọi là thuê tài chính
phải thoả mãn 1 trong 4 tiêu chuẩn sau:
1. Chuyển sở hữu tài sản thuê cố định thuê được chuyển giao cho bên đi
thuê khi hết hạn hợp đồng.
2. Hợp đồng cho phép bên đi thuê lựa chọn mua tài sản cố định thuê với
giá thấp hơn giá trị của tài sản cố định tại một thời điểm nào đó hoặc vào lúc kết
thúc hợp đồng.
3. Ký hợp đồng ít nhất phải bằng 3/4 thời gian hoạt động của tài sản thuê.
4. Giá trị tài sản cố định hiện tại của các khoản chi theo hợp đồng ít nhất
bằng 90% giá trị của tài sản cố định thuê.
Cần lưu ý rằng, trong tiêu chuẩn bốn sử dụng cụm từ "giá trị tài sản cố
định hiện tại của các khoản chi" là hoàn toàn tối nghĩa mà thông thường người
ta dùng từ giá trị hiện tại và gọi tắt là hiện giá (The present valuc), có nghĩa là 1
khoản tiền trong tương lai được quy đổi về hiện tại được tính theo lãi suất.
Trong trường hợp thuê giá trị tương lai (Future Value) là số tiền mà người
đi thuê phải trả theo hợp đồng. Hiện giá của khoản thanh toán tiền thuê được
tính theo công thức sau:
f f f
P = ---------- + --------- +... ... + -----------
( 1 + i) (1 + i)
1

(1 + i )
n -1
Trong đó:
p- Hiện giá
f- Giá trị tươnglai tức là tiền thuê phải trả mỗi định kỳ
n- Số định kỳ thanh toán tiền thuê.
d. Theo quy định tạm thời về hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam ban hành
theo Nghị định 64CP của CP ngày 9/10/1995.
6

Tại điều 1 của quy chế này đã chỉ ra: cho thuê tài chính là một hoạt động
tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động
sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu
của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử
dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được 2 bên
thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn
thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó
theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Cũng theo quy chế này, một giao dịch cho thuê tài chính phải thoả mãn 1
trong những điều kiện sau đây:
1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai
bên.
2. Nội dung hợp đồng thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên
thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê theo giả danh nghĩa thấp hơn giá
trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
3. Thời hạn cho thuê 1 loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản thuê.
4. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hoạt động thuê, ít nhất
phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp

đồng.
Quốc gia
Tiêu thức
IAS Hoa kỳ Anh Hàn
Quốc
Indonexia Việt nam
- Chuyển giao
quyền sở hữu khi
ký kết thuê hợp
đồng
có có có Không
quy định
cụ thể

- Quyền chọn mua có có Không
bắt buộc
Không
bắt buộc
có có
- Quyền huỷ ngang
hợp đồng
Không
được
Không
được
Không
được
Không
được
Không

được
Không
được
- Thời hạn thuê
tỉnh theo đời sống
hữu dụng của tài
Phần lớn
≥ 15% tối
đa không
quá 30
Phần lớn Tài sản ?
5 năm:
60% tài
Tài sản
có đời
sống ≥ 2
≥ 75%
7

sản thuê năm
sản ≤ 5
năm:
70%
năm
- Hiện giá của các
khoản tiền thuê tối
thiểu so với giá trị
hợp lý của tài sản
thuê
Bằng

hoặc lớn
hơn
≥ 90% ≥ 90%
Trả đủ
tiền thuê
≥ 90%
Bảng 1.1: Bảng thống kê tiêu chuẩn để được coi là giao dịch cho thuê tài
chính của một số nước.
1.1.3. Những bên có liên quan trong một giao dịch cho thuê tài chính:
Trong quá trình giao dịch của nghiệp vụ cho thuê trung và dài hạn này
thường có sự tham gia rất nhiều chủ thể. Đồng thời giữa các bên có sự liên đới
trong nhiều lĩnh vực theo những chức năng và vai trò nhất định.
Thông thường, một giao dịch cho thuê tài chính thường có sự tham gia
của các bên sau đây, người cho thuê (công ty Leasing hay nhà chế tạo có trực
tiếp cho thuê sản phẩm của họ người thuê (các doanh nghiệp hay thể nhân),
người cho vay (ngân hàng hay các chế định tài chính khác), người cung cấp (nhà
chế tạo thiết bị hay nhà cung cấp). Sau đây, ta sẽ đi vào xem xét từng đối tượng
trên.
a. Người cho thuê (lessor).
Người cho thuê là nhà tài trợ vốn cho người thuê, là người sẽ thanh toán
toàn bộ giá trị mua bán thiết bị theo thoả thuận giữa người thuê và nhà cung cấp
và là chủ sở hữu tài sản về mặt pháp lý. Trong trường hợp cho thuê tài sản của
chính họ thì người cho thuê cũng đồng thời là nhà cung cấp thiết bị.
Theo điều 2 của quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính tại Việt Nam thì bên cho thuê là Công ty cho thuê tài chính có tư
cách pháp nhân, được cấp giấy phép hoạt động theo quy chế này.
Công ty cho thuê tài chính là một loại công ty tài chính, hoạt động chủ
yếu là cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác.
Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam bao
gồm:

- Công ty cho thuê tài chính do ngân hàng, Công ty tài chính hoặc ngân
hàng, công ty tài chính cùng với doanh nghiệp khác của Việt Nam thành lập.
8

- Công ty cho thuê tài chính liên doanh giữ bên Việt Nam gồm một hoặc
nhiều ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp khác với bên nước ngoài gồm
một hoặc nhiều ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các
tổ chức tài chính quốc tế.
- Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài của ngân hàng công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính nước ngoài.
b. Người thuê (Lessee).
Người thuê là khách hàng thuê thiết bị, tài sản của người cho thuê hay là
người nhận sự tài trợ tín dụng của công ty cho thuê tài chính. Người thuê cũng
là người có quyền sử dụng, hưởng dụng những lợi ích do tài sản đem lại và có
trách nhiệm trả những khoản tiền thuê theo thoả thuận.
Theo quy định tại quy chế tạm thời về tổ chức hoạt động của các công ty
cho thuê tài chính ở Việt Nam, bên thuê (người thuê) là các doanh nghiệp được
thành lập theo pháp luật Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thuê theo mục đích
kinh doanh hợp pháp của mình, hiện nay bên thuê bao gồm doanh nghiệp nhà
nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân (sau đây gọi chung là doanh nghiệp).
c. Nhà cung cấp hay nhà chế tạo (Manufacturer or Supplier).
Nhà cung cấp là người cung cấp tài sản, thiết bị theo thoả thuận với người
thuê và các điều khoản mua bán thiết bị đã ký kết với người cho thuê.
d. Người cho vay (lender).
Người cho vay là một định chế tài chính hay là 1 người nào đó cho người
cho thuê vay một phần của khoản tiền mua sắm thiết bị để cho thuê.
1.1.4. Những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng tới hoạt động cho thuê.
a. Môi trường luật pháp:
- Hệ thống luật pháp: Là những văn bản luật chi phối cho hoạt động cho

thuê và các hoạt động có liên quan, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi
của các bên trong hoạt động cho thuê. Những văn bản này tạo ra môi trường
pháp lý để các giao dịch cho thuê hoạt động đem lại hiệu quả kinh tế xã hội.
- Các cơ quan quản lý nhà nước:
Là các cơ quan công quyền như Ngân hàng nhà nước, cơ quan công
chứng, Toà án, cơ quan thuế. Những cơ quan này có trách nhiệm giám sát và
9

kiểm soát việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Đồng thời công nhận tính
hợp pháp của giao dịch cho thuê, quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản và xét xử,
giải quyết các tranh chấp.
Hoạt động cho thuê cũng như hoạt động tín dụng khác rất nhạy cảm với
những thay đổi của môi trường pháp lý. Do đó, môi trường pháp lý vừa có tác
dụng thúc đẩy hoạt động cho thuê, nhưng đồng thời chính nó cũng có thể là
nguyên nhân ngăn cản sự phát triển của hoạt động này. Do vậy, nó có tính hai
mặt, bởi vậy sau khi công ty tài chính quốc tế (IFC) nghiên cứu cơ sở pháp lý
đưa đến thành công của dịch vụ cho thuê ở một số nước đã rút ra một số vấn đề
cơ bản có tính nguyên tắc sau:
+ Pháp luật về hợp đồng kinh tế và sở hữu tài sản:
Hệ thống luật pháp của nước đó phải định nghĩa rõ ràng về bản chất các
giao dịch cho thuê để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người thuê và người cho thuê.
Đưa ra các phương thức cho thuê cũng là điều cần thiết. Hơn nữa, cần phan biệt
rõ ràng giữa cho thuê với các giao dịch thương mại và các hình thức tín dụng
khác để tránh cho hoạt động này phải tuân thủ những điều khoản bất lợi trong
luật pháp điều chỉnh các hoạt động đó.
+ Pháp luật về thuế:
Luật thuế phải có các tham chiểu và các điều khoản cụ thể về nghĩa vụ
thuế và ưu đãi thuế đối với cả người thuê và người cho thuê. Điều này giúp
người thuê xác định được chi phí so với việc vay vốn ngân hàng để mua tài sản.
Về phía người cho thuê, chi phí của họ phải được ưu đãi tương đối mới có thể

thúc đẩy các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực này.
+ Pháp luật về khuyến khích đầu tư:
Hoạt động của công ty cho thuê làm gia tăng đáng kể đầu tư trong nước
nên luật khuyến khích đầu tư nên áp dụng cho hoạt động này. Luật phải thể hiện
thái độ bình đẳng đối với việc mua máy móc, thiết bị và thuê máy móc thiết bị.
+ Pháp luật về công ty cho thuê:
Thông thường trong giai đoạn đầu thì chỉ có việc công ty tài chính và
ngân hàng mới được thực hiện nghiệp vụ cho thuê. Công ty cho thuê nên là công
ty độc lập hay phụ thuộc, địa vị pháp lý của nó ra sao? ngoài ra là các quy định
cụ thể về hoạt động cụ thể của các công ty này.
10

Môi trường luật pháp là nhân tố ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động cho
thuê. Những thay đổi về mặt pháp lý như sửa đổi quy định và hợp đồng, luật
thuê, các quy định về khấu hao v.v... có thể dẫn tới phá vỡ hợp đồng hoặc đem
lại sự thua lỗ cho người cho thuê và cả người thuê.
b. Môi trường kinh tế:
- Môi trường kinh tế vĩ mô: Hoạt động tín dụng gắn liền với môi trường
kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, sự tăng trưởng kinh tế...
Một thay đổi nhỏ của môi trường kinh tế vĩ mô có thể dẫn tới những thay đổi rất
lớn trong ngành công nghiệp cho thuê tài sản.
- Môi trường kinh tế vi mô: Tác động chủ yếu của môi trường kinh tế vi
mô là sự cạnh tranh trong ngành công nghiệp cho thuê tài sản. ở mức độ phát
triển cao, hoạt động cho thuê tài sản chịu sự cạnh tranh rất lớn, cạnh tranh trong
nội bộ ngành, cạnh tranh với các hình thức tài trợ khác. Tại nhiều nước phát
triển, vào những năm mới thập kỷ 80, để duy trì khối lượng kinh doanh lớn và
khả năng cạnh tranh, nhiều công ty cho thuê đã tiến hành các giao dịch cho thuê
với mức lãi suất phi thực tế và những rủi ro tín dụng rất cao v.v.. dẫn đến hậu
quả là vào những năm đầu của thập kỷ 90, nhiều công ty đã rơi vào tình trạng
phá sản.

Những rủi ro đối với hoạt động cho thuê liên quan đến môi trường kinh tế
thường xuyên xảy ra. Có thể kể tới như:
+ Rủi ro do môi trường kinh doanh đem lại: Do tình hình biến động xấu
của nền kinh tế dẫn tới đình trệ sản xuất và làm giảm nhu cầu thuê thiết bị, máy
móc phục vụ sản xuất.
+ Rủi ro do thay đổi tỷ giá (Exchange rate risk): Do sự thay đổi tỷ giá hối
đoái theo hưởng bất lợi cho người cho thuê (người thuê) đối với loại thiết bị
nhập khẩu hay cho thuê quốc tế.
+ Rủi ro do thay đổi lãi suất (Interest rate risk): Do sự biến động lãi suất
trên thị trường vốn dẫn đến có sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất
tài trợ, gây bất lợi cho người cho thuê (hay người thuê).
c. Môi trường kỹ thuật công nghệ:
Một số hình thức giao dịch cho thuê chuyên biệt tương đối nhạy cảm với
những thay đổi trong giá cả và tính năng kỹ thuật của tài sản cho thuê (máy tính,
phương tiện giao thông v.v...). Trong hoạt động cho thuê, tài sản cho thuê
11

thường được cung cấp thông qua nhà chế tạo hay nhà cung cấp. Vì thế, để đảm
bảo cho một giao dịch cho thuê diễn ra thuận lợi, cả người cho thuê và người đi
thuê cần phải có những kiến thức nhất định về đặc điểm kỹ thuật, công nghệ, giá
cả của tài sản cho thuê.
Những rủi ro đối với hoạt động cho thuê liên quan tới môi trường kỹ thuật
- công nghệ có thể kể tới như:
- Tài sản cho thuê được thu hồi không thể cho thuê tiếp hay bán chúng.
+ Tài sản tồn tại những khuyết tật tiềm ẩn.
+ Tài sản đã lỗi thời, không thể tái chế nâng cấp.
+ Tài sản bị hư hỏng, mất phẩm chất.
- Tài sản do nhà cung cấp giao cho người thuê không đúng theo hợp đồng,
là tài sản không được phép kinh doanh.
Nhìn chung, những rủi ro liên quan đến tài sản thuê diễn ra rất đa dạng,

đòi hỏi cả người cho thuê và người thuê cần nghiên cứu, đánh giá chính xác để
có biện pháp phòng ngừa, hạn chế.
12

1.2. Các phương thức cho thuê tài chính:
1.2.1. Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên (hợp đồng cho thuê trực
tiếp).
Theo phương thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản
được dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua
tài sản hoặc tự xây dựng.
Phương thức tài trợ này thường do các công ty kinh doanh bất động sản và
công ty sản xuất máy móc, thiết bị thực hiện, như các nhà đầu tư xây dựng cao
ốc văn phòng, các chung cư, sau đó ký các hợp đồng cho thuê với khách hàng.
Các tổ chức tài chính rất ít áp dụng phương thức tài trợ này.
Hình thức tài trợ này có những đặc điểm căn bản sau:
- Hàng hoá thường là những loại tài sản có giá trị không quá lớn và thuộc
các loại máy móc thiết bị.
- Chỉ có 2 bên tham gia trực tiếp vào giao dịch: Người cho thuê và người
thuê.
- Vốn tài trợ hoàn toàn do người cho thuê đảm nhiệm.
- Người cho thuê có thể mua lại thiết bị khi chúng bị lạc hậu.
Phương thức tài trợ này có sự tham gia của 2 bên được thực hiện như sau:
Sơ đồ 1: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên
(2a)
(1)
(2b)
(3)
(1) Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê.
13
Người cho

thuê
Người đi thuê

(2a) Người cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho người đi
thuê.
(2b) Người cho thuê giao tài sản cho người đi thuê.
(3) Theo định kỳ người đi thuê thanh toán tiền thuê cho người cho thuê.
Ngoài những đặc điểm chung của phương thức cho thuê, loại hợp đồng
này còn có những đặc điểm chính như sau:
Ngoài những đặc điểm chung của phương thức cho thuê, loại hợp đồng
này còn có những đặc điểm chính như sau:
Người cho thuê Người thuê
1. Sử dụng các loại máy móc, thiết bị
của chính họ để cho thuê
1. Thuê máy móc, thiết bị từ người có
tài sản đó
2. Đảm nhiệm toàn bộ vốn tài trợ 2. Ký kết với nhà cung cấp 1 phụ kiện
hợp đồng về cung cấp
3. Cung cấp các loại phụ tùng và dịch
vụ bảo tín cùng với thiết bị theo một
hợp đồng phụ.
3. Trả tiền thuê theo định kỳ và trả
tiền phụ tùng và dịch vụ
4. Nhận các khoảng tiền thuê những
khoản tiền dịch vụ thu hợp đồng phụ
4. Bán lại thiết bị khu chúng bị lạc hậu
và nhận thuê thiết bị mới
5. Nhận lại tài sản đã lỗi thời và cung
cấp thiết bị thay thế.
1.2.2. Cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên:

Theo hình thức này, người thuê sẽ thoả thuận với nhà cung ứng về các
điều khoản mua tài sản mình có nhu cầu và sau đó người cho thuê sẽ tiến hành
mua tài sản để cho người cho thuê thuê. Hình thức này thường được các công ty
cho thuê tài chính sử dụng để tài trợ cho các doanh nghiệp. Rõ ràng, theo
phương thức này, người cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu
của người đi thuê và đã được hai bên thoả thuận theo hợp đồng thuê. Quy trình
tài trợ có sự tham gia của ba bên, bao gồm: Người cho thuê, người đi thuê và
người cung cấp.
14

Sơ đồ 3: Tài trợ cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên:
2c 2a 1b 1a 2d 3
1c
2b
1a. Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê tài sản.
1b. Người cho thuê và người cung cấp ký hợp đồng mua tài sản.
1c. Người cung cấp và người đi thuê ký hợp đồng bảo hành bảo dưỡng
9có thể người cho thuê ký với người cung cấp về việc bảo hành và bảo dưỡng
cho người đi thuê).
2a. Người cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho người cho
thuê.
2b. Người cung cấp chuyển giao tài sản cho người đi thuê.
2c. Người cho thuê thanh toán tiền mua tài sản.
2d. Người cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho người đi
thuê.
3. Theo định kỳ người đi thuê thanh toán tiền thuê cho người cho thuê.
Phương thức tài trợ có sự tham gia của ba bên còn được gọi là phương
thức thuê mua thuần (net lease) là phương thức cho thuê tài chính được áp dụng
phổ biến nhất, vì có các ưu điểm sau:
- Người cho thuê không phải mua tài sản trước và như vậy sẽ làm cho

vòng quay của vốn nhanh hơn vì không phải dự trữ hàng tồn kho.
- Việc chuyển giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa người cung cấp
và người đi thuê và giữa họ cũng chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng hoạt
15
Người cho thuê
( Lessor)
Người cung
cấp
(Supplier)
Người đi thuê
( Lessee)

động của tài sản, cũng như thực hiện việc bảo hành và bảo dưỡng tài sản. Như
vậy người cho thuê có thể trút bỏ gánh nặng về tình trạng hoạt động của tài sản.
- Người cho thuê không trực tiếp nhận tài sản rồi sau đó chuyển giao cho
người đi thuê và như vậy sẽ hạn chế được rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận
hàng của người đi thuê, vì do có sự nhầm lẫn về mặt kỹ thuật.
Xuất phát từ các ưu điểm trên đây mà các ngân hàng và các tổ chức tài
chính đã áp dụng chủ yếu phương thức này để tài trợ cho các doanh nghiệp, đặc
biệt đối với cho thuê thiết bị. Trên thế giới 80% hợp đồng cho thuê tài chính áp
dụng theo phương thức này.
* Các phương thức tài trợ cho thuê tài chính đặc biệt.
1.2.3. Tái cho thuê (lease back):
Tái cho thuê hay còn gọi là bán và thuê lại (Sale and lease back) là một
dạng đặc biệt của phương thức cho thuê có sự tham gia của hai bên. Trong hoạt
động kinh doanh có nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản
cố định hiện có, nhưng lại không đủ uy tín để vay vốn lưu động ở các ngân
hàng. Trong trường hợp đó họ buộc phải bán lại một phần tài sản cố định cho
ngân hàng hoặc công ty tài chính, sau đó thuê lại tài sản đó để sử dụng và như
vậy sẽ có thêm nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Đôi lúc ngâ

hàng cũng áp dụng phương thức tài trợ này như là 1 biện pháp giải quyết nợ quá
hạn mà không cần phải dùng đến biện pháp thanh lý tức là đề nghị tuyên bố phá
sản doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng khó khăn tài chính. Cần lưu ý rằng khu
dùng phương thức này như là một biện pháp giải quyết nợ quá hạn ngân hàng
còn kèm theo các biện pháp như kiểm soát các khoản thu, khuyến cáo về việc
bán các tài sản chưa cần dùng, tham gia vào quản trị doanh nghiệp.
Phương thức tái cho thuê áp dụng trong hai trường hợp trên đây là sự
chuyển hoá từ cho vay ngắn hạn sang tài trợ trung và dài hạn. Nhưng tại sao
ngân hàng lại chấp nhận tài trợ trung và dài hạn hơn là cho vay ngắn hạn? vì cho
thuê tài chính là kỹ thuật cấp tín dụng ít rủi ro, do đó ngân hàng có thể sử dụng
nó để thay thế cho vay ngắn hạn khi mà không còn cách nào khác để giúp cho xí
nghiệp có thể giải quyết được khó khăn về tài chính. Nếu không giải quyết bằng
cách này doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng phá sản và trong trường hợp đó
ngân hàng có thể bị thiệt hại lớn hơn.
16

17

Sơ đồ 3: Tái cho thuê.
2a
2b
1a
1b
2c
3
1a) Người cho thuê (ngân hàng hoặc công ty tài chính) ký hợp đồng mua
tài sản của doanh nghiệp).
1b) Người cho thuê và người đi thuê ký hợp đồng thuê.
2a) Doanh nghiệp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho ngân hàng.
2b) Ngân hàng lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho doanh nghiệp

được phép sử dụng tài sản.
2c) Ngân hàng trả tiền mua tài sản cho doanh nghiệp là biện pháp giải
quyết nợ quá hạn thì khoản thanh toán này được thu hồi khoản nợ quá hạn.
3. Theo định kỳ doanh nghiệp thanh toán tiền thuê cho ngân hàng.
1.2.4. Hợp đồng cho thuê thực hiện kết (Syndicate Leases):
Hợp đồng cho thuê liên kết là loại hợp đồng gồm nhiều bên tài trợ cho
một người thuê. Sự liên kết này có thể xảy ra theo chiều ngang hoặc theo chiều
dọc tuỳ theo tính chất của loại tài sản hay khả năng tài chính của các nhà tài trợ.
Trong trường hợp tài sản có giá trị lớn, nhièu định chế tài chính hay các nhà chế
tạo cùng nhau hợp tác để tài trợ cho người thuê tạo thành sự liên kết theo chiều
ngang. Còn đối với trường hợp các định chế tài chính hay các nhà chế tạo lớn
giao tài sản của họ cho chi nhánh của họ thực hiện giao dịch tài trợ cho khách
hàng thì hình thành sự liên kết theo chiều dọc. Các bước và đặc điểm trong giao
dịch với người thuê của loại hợp đồng này không có khác biệt lớn so với phương
thức cho thuê điển hình.
18
Người cho
thuê ( NH hoặc
công ty t ià
chính )
Người đi thuê
( doanh nghiệp)

Sơ đồ 4: Hợp đồng cho thuê liên kết.
Người cho thuê Người thuê
1. Có thể là sự liên kết giữa các định
chế tài chính và các nhà sản xuất hay
giữa công ty mẹ và các chi nhánh
1. Là một doanh nghiệp nhận tài sản
thuê

2. Các loại tài sản dùng trong giao
dịch thường là những loại có giá trị
cao
2. Thực hiện các nghĩa vụ trả tiền
thuê, bảo quản tài sản, chịu rủi ro,
mua bảo hiểm... như trong phương
thức cho thuê
3. Các công ty con chuyên doanh cho
thuê có trình độ chuyên môn cao,
chuyên sâu trong từng lĩnh vực công
nghệ hay loại thiết bị cụ thể
4. Các đặc điểm khác tương tự phương
thức cho thuể.
1.2.5. Hợp đồng cho thuê bắc cầu:
Đây là hình thức đặc biệt của phương thức cho thuê tài chính, chỉ mới
được phổ biến trong thời gian gần đây, xuất phát từ thực tế là các công ty
Leasing có những hạn chế về nguồn vốn không đủ khả năng tự tài trợ cho khách
hàng.
Theo thể thức cho thuê này, người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê
từ một hay nhiều người cho vay nào đó. Theo luật pháp của 1 số quốc gia khoản
19
Các định
chế t ià
chính
Các nhà
chế tạo
Các chi
nhánh
Quyền sở hữu t ià
sản

Tiền thuê
Các mối quan hệ
tương tự thuê
mua t i chínhà
Người
thuê

tiền vay này không được vượt quá 80% tăng giá trị tài sản tài trợ. Vật thế chấp
cho khoản vay này là quyền sở hữu tài sản cho thuê và các khoản tiền thuê mà
người thuê sẽ trả trong tương lai. Hình thức cho thuê này đem lại lợi nhuận và
mở rộng khả năng tài trợ ra khỏi phạm vi nguồn vốn của người cho thuê.
Sơ đồ 5: Thoả thuận cho thuê bắc cầu:
Người cho vay Người cho thuê Người thuê
1. Cấp tín dụng trung và
dài hạn cho người cho
thuê
1. Sở hữu tài sản cho
thuê và nhận được sự
miễn giảm thuế
1. Trả tiền thuê tài sản
cho người cho thuê
2. Nhận tiền trả nợ vay
bằng tiền thuê do người
thuê trả theo yêu cầu của
người cho thuê
2. Mượn đối ứng bằng
phần lớn giá trị tài sản
và bảo đảm khoản nợ
vay bằng cả tài sản cùng
với các khoản tiền cho

thuê tài sản đó
2. Ngoài ra không có sự
khác biệt so với một giao
dịch cho thuê điển hình.
3. Khoản cho vay được
bảo đảm bằng tài sản và
tiền thuê
3. Trả nợ bằng tiền thuê
tài sản. Phần tiền thuê
vượt số tiền vay được
giữ lại
20
Người cho vay
Tiề
n
trả
nợ
Tiề
n
cho
vay
Người cho thuê T i sà ản
Tiền thuê
Người thuê

Hình thức cho thuê này thường được sử dụng trong những giao dịch cho
thuê đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, chẳng hạn cho thuê một máy bay thương
mại hay một tàu chở hàng hoặc 1 tổ hợp chuyên ngành lớn v.v..
VD: Trong thời gian qua Tổng công ty hàng không Việt Nam đã thực
hiện một số hợp đồng theo phương thức cho thuê này với các tổ chức tài chính

nước ngoài. Năm 1989 hãng hàng không Việt Nam đã thuê mua hai máy bay
hành khách ATR 72 với giá 20 triệu USD của Công ty Stook Leasing LTD và
công ty này lại được 4 ngân hàng của Pháp cho vay để thực hiện hợp đồng thuê
này với hãng hàng không Việt Nam.
Cần chú ý rằng trong hình thức cho thuê này, vốn vay thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ, người cho thuê vẫn đóng vai trò chủ sở hữu
tài sản cho thuê và thông thường người cho thuê phải thế chấp chính tài sản mà
họ đã cho thuê cho người cho vay. Hình thức thế chấp tài sản cho thuê này sẽ
làm giảm nhẹ rủi ro cho người cho vay.
1.2.6. Cho thuê giáp lưng (Under lease):
Mặc dù phương thức cho thuê có thể tài trợ được cho cả nhưng doanh
nghiệp mà ngân hàng hoặc công ty tài chính chưa có độ tin tưởng cao, nhưng
không có nghĩa là tài trợ cho bất cứ ai. Vì vậy trong nhiều trường hợp người cần
tài sản muốn đi thuê nhưng không thể thực hiện trực tiếp từ những người cho
thuê chuyên nghiệp. Lý do có thể rất nhiều, có thể là người đó đã không thực
hiện những hợp đồng kinh tế trong quá khứ (hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng
thu mua), có thể là hoạt động yếu kém theo cách đánh giá của các tổ chức tài
chính hoặc đơn giản là vì doanh nghiệp đó chưa có được người cho thuê biết
đến, như những công ty cho thuê nước ngoài họ chỉ chấp nhận tài trợ cho những
công ty lớn của Việt Nam. Trong những trường hợp như thế đòi hỏi phải áp
dụng phương thức cho thuê giáp lưng.
Cho thuê giáp lưng là phương thức mà trong đó, thông qua sự đồng ý của
người cho thuê, người đi thuê thứ nhất cho người đi thuê thứ hai thuê lại tài sản
đó. Trên thực tế thực chất người đi thuê thứ nhất chỉ là người trung gian giữa
người cho thuê và người đi thuê thứ hai, nhưng về mặt pháp lý thì người đi thuê
thứ nhất phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng với người cho thuê.
Với phương thức cho thuê này, mặc dù doanh nghiệp không đủ điều kiện để trực
tiếp thuê mua với người cho thuê, vẫn có thể thuê được tài sản để sử dụng cho
sản xuất kinh doanh.
21


Sơ đồ 6: Cho thuê giáp lưng.
3b 1a 2
3a
1b
1a) Người cho thuê và 1 người đi thuê I ký hợp đồng thuê mua.
1b) Người đi thuê thứ I và người đi thuê thứ II ký hợp đồng thuê mua.
2. Người cho thuê chuyển giao tài sản cho người đi thuê thứ II.
3a) Người đi thuê thứ II trả tiền thuê cho người thuê thứ I.
3b) Người đi thuê thứ I trả tiền thuê cho người thuê.
Cần lưu ý rằng tiền thuê mà người đi thuê thứ hai phải trả thường cao hơn
tiền thuê mà người đi thuê thứ nhất trả cho người cho thuê. Phần chênh lệch
giữa hai khoản tiền thuê đó người đi thuê thứ I được hưởng, coi như là hoa hồng
trách nhiệm. Ngoài ra, thê giáp lưng cũng áp dụng trong trường hợp người đi
thuê thứ I đã thuê tài sản và sử dụng tài sản đó, nhưng sau đó không có nhu cầu
sử dụng thì tài sản đó, nhưng sau đó không có nhu cầu sử dụng thì có thể cho
người khác thuê lại với sự đồng ý của người cho thuê.
1.3. Phân biệt cho thuê tài chính với thuê vận hành, tín dụng ngân hàng và
mua trả góp.
1.3.1. Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê vận hành:
Cho thuê tài chính và cho thuê vận hàng đều là các hình thức của hoạt
động cho thuê tài sản. Hai hình thức này đều nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu
về máy móc, thiết bị mà không cần bên thuê phải bỏ ra toàn bộ số tiền mua ngay
lập tức. Nhưng xét về bản chất hai hình thức cho thuê tài sản này có sự khác biệt
rõ ràng.
22
Người cho thuê
Người đi thuê
I
Người đi thuê II


- Thời gian cho thuê vận hành thường rất ngắn so với toàn bộ đời sống
hữu ích của tài sản và khi người thuê muốn chấm dứt hợp đồng thuê, họ chỉ cần
báo trước với người cho thuê. Trong khi đó, thời gian cho thuê tài chính chiếm
phần lớn đời sống hữu ích của tài sản thuê đồng thời hợp đồng cho thuê tài
chính là hợp đồng không được huỷ ngang.
- Phí thuê vận hành thường lớn hơn phí thuê tài chính do trong thuê vận
hành người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành, chi phí về rủi ro liên quan
đến tài sản mà không phải do bên thuê gây ra.
- Đối với cho thuê vận hành thông thường người đi thuê chỉ được lựa chọn
tài sản thuê trên cơ sở những tài sản mà bên cho thuê có sẵn. Nhưng đối với cho
thuê tài chính, người thuê có thể tự ý mình lựa chọn những tài sản thuê theo nhu
cầu của mình rồi sau đó thoả thuận với người cho thuê.
-Theo hình thức cho thuê vận hành, tài sản thuê không được ghi chép vào
sổ sách kế toán của người thuê mà được ghi như một khoản chi phí bình thường
khác. Trong hợp đồng cho thuê vận hành không quy định về chuyển giao quyền
sở hữu tài sản khi kết thúc thời hạn thuê nó không phải là một giải pháp tài trợ
cho việc mua tài sản trong tương lai. Do vậy thuê vận hành không được coi là
hình thức tài trợ tín dụng cho các doanh nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất.
Nhưng đối với cho thuê tài chính trong hợp đồng quy định khi kết thúc thời hạn
theo giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tuỳ theo sự thoả thuận đủ dự liệu trước
trong hợp đồng hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản hay làm đại lý
bán tài sản đó theo sự uỷ quyền của người cho thuê. Cho nên, cho thuê tài chính
đã trở thành một hình thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn cho các doanh
nghiệp. Như vậy, ta có thể thấy cho thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp có thể
lựa chọn được công nghệ mà mình mong muốn, để từ đó nâng cao năng lực sản
xuất của doanh nghiệp.
Bảng 1.2: Sự khác nhau giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành.
Cho thuê tài chính Cho thuê vận hành
1. Thời hạn thuê:

Cho thuê tài chính có thời hạn dài so
với thời gian hữu dụng của tài sản,
thông thường bằng 2/3 thời gian hữu
dụng của tài sản.
- Thời hạn cho thuê ngắn chiếm 1 tỷ lệ
nhỏ so với thời gian hữu dụng của tài
sản.
23

2. Mức thu hồi vốn của một hợp đồng
thuê:
- Thông thường mức vốn gốc được thu
hồi gần bằng với giá trị tài sản (tổng
số tiền tài trợ), đặc biệt đối với thuê
động sản.
- Mức vốn được thu hồi nhỏ hơn nhiều
so với giá trị tài sản.
3. Sự huỷ ngang:
- Hợp đồng thuê tài chính thường
không được phép huỷ ngang.
- Hợp đồng thuê vận hành có thể được
phép huỷ ngang
4. Trách nhiệm bảo dưỡng, bảo hiểm
và đóng thuế tài sản
- Người đi thuê phải thanh toán tiền
bảo dưỡng, đóng bảo hiểm và thuế tài
sản
- Người cho thuê thanh toán tiền bảo
hiểm, bảo dưỡng và thuế tài sản
5. Chuyển quyền sở hữu hoặc bán tài

sản:
- Trong hợp đồng cho thuê tài chính
hai bên có thể thoả thuận sẽ chuyển
quyền sở hữu tài sản hoặc bán lại tài
sản sau khi kết thúc hợp đồng.

- Không có thoả thuận chuyển quyền
sở hữu hoặc bán lại tài sản trong hợp
đồng thuê thông thường.
6. Trách nhiệm về rủi ro liên quan đến
tài sản:
- Người đi thuê chịu phần lớn các rủi
ro, kể cả những rủi ro không phải do
mình gây ra.
- Người cho thuê chịu phần lớn rủi ro
chỉ trừ những rủi ro do lỗi của người
đi thuê gây ra.
7. Cung ứng tài sản thuê:
- Tài sản thuê thường do người thuê
đặt hàng, giao nhận và sử dụng.
- Tài sản thuê thường do người cho
thuê cung ứng.
Những điểm khác biệt trên đây thực chất là khác biệt mang tính phổ biến
của hai phương thức cho thuê nói trên. Tuy nhiên, trong đời sống thực tế, người
ra có thể vận dụng hết sức linh hoạt và đa dạng. Điều đó phụ thuộc vào các điều
kiện chủ quan và khách quan của các chủ thể tham gia vào các giao dịch thuê tài
24

sản. Chính vì vậy, đôi lúc cũng khó phân biệt được 1 giao dịch, gọi là thuê thông
thường hay thuê tài chính, hay nói cách khác ranh giới giữa chúng cũng không ít

trường hợp mập mờ.
25

×