Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bất cân xứng thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.84 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
Môn: Kinh tế công cộng
TIỂU LUẬN
Đề tài: Vấn đề bất cân xứng thông tin trong hoạt
động cho vay của ngân hàng
Giảng viên:
Lớp:
Hà Nội - 2014
Danh sách sinh viên:
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Phần I: lý luận chung
I. Thông tin bất cân xứng……
1. Lựa chọn đối nghịch……
2. Rủi ro đạo đức…
II. Thông tin không cân xứng ảnh hưởng đến các thị trường
Phần II: Thực trạng và giải pháp…
I. Thực trạng…
1. Hoạt động tín dụng quốc tế
2. Thực trạng ở Việt Nam……
2.1. Thực trạng chung
2.2. Thực trạng về phía khách hàng
2.3. Thực trạng về phía các NHTM
II. Giải pháp…
1. Hoàn thiện, nâng cao hệ thống TT tín dụng
2. Kiểm tra, giám sát vốn vay
3. Trích lập các quỹ dự phòng rủi ro
Kết luận
Lời mở đầu
Những cuộc khủng hoảng tài chính luôn là vấn đề chung trong lịch sử hầu
hết các quốc gia. Các nhà phân tích cho rằng đa phần các cuộc khủng hoảng tài


chính nổ ra trong hệ thống các ngân hàng đều có thể tránh được nếu có sự minh
bạch và tính công khai. Giá như hoạt động của các tổ chức được minh bạch hơn,
giá như họ công khai nhiều tin tức hơn nghĩa là có sự cân xứng về thông tin giữa
các bên trong cuộc giao dịch thì mức độ rủi ro của các khoản nợ xấu gây tai họa
cho hệ thống ngân hàng đã được xử lý kịp thời.
Sự phân tích kinh tế về các tác dụng của vấn đề lựa chọn đối nghich và rủi
ro có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn những cuộc khủng hoảng tài chính-một sự đổ
vỡ trầm trọng trong thị trường tài chính
Vậy vấn đề đặt ra là sự thiếu minh bạch và thiếu tính công khai về thông
tin. Đó chính là vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng
Riêng đối với Việt Nam là một nước đang phát triển, hàng loạt những vụ
thất thoát hàng nghìn tỉ và những hành vi lừa đảo, chiếm dụng tài sản của ngân
hàng thông qua hoạt động đầu tư và cho vay cho thấy sự bất cân xứng thông tin
trong hệ thống tài chính nước ta đang gây những hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy,
việc khắc phục hiện tượng thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính còn
non kém là một vấn đề rất được quan tâm. Đây là nền tảng chúng ta hoàn thiện
thị trường tài chính ở Việt Nam.
Đây là một vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam, vì vậy trong quá trình
nghiên cứu không thể tránh khỏi nhiều sai lầm. Em rất mong có sự giúp đỡ và
chỉ bảo của cô cùng sự đóng góp của các bạn.
Phần I
Lý luận chung về thông tin bất cân xứng trong
thị trường tài chính
Việt Nam cũng giống như nhiều nước Châu Á khác, cá ngân hàng
chiếm tỉ trọng cao trong thị trường tài chính. Hầu hết các giao dịch thị trường
chủ yếu thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng mà hoạt động chính là cấp tín
dụng.
Một vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là phải làm thế nào để tăng lợi nhuận
mà vẫn có sự an toàn cần thiết. trong thực tế, nhiều ngân hàng không nắm được

khả năng sinh lời cũng như những rủi ro trong các dự án của những người đi vay.
Tại sao lại như vậy? Bởi vì họ thiếu thông tin.
Việc các ngân hàng thiếu những thông tin cần thiết để đưa ra các quyết
định sáng suốt dường như đang làm kinh ngạc những nhà đầu tư. Đây chính là
vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính cũng như trong hoạt
động tín dụng của các ngân hàng.
I. Thông tin bất cân xứng:
Một đặc điểm quan trọng của các thị trường tài chính là ở chỗ chúng có
các chi phí giao dịch và chi phí thông tin đáng kể. Một phân tích kinh tế để xem
các chi phí này tác động thế nào lên thị trường tài chính sẽ mang lại cho chúng ta
thêm một sự hiều biết sâu hơn xem hệ thống tài chính hoạt động như thế nào.
Trong những giao dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên
thường không đầy đủ các thông tin cần thiết về các đối tác của mình để có những
quyết định đúng đắn. Sự không công bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi
là thông tin không cân xứng. Một người vay một món tiền thường có thông tin
tốt hơn về lợi tức tiểm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà người đó tiến
hành so với người cho vay. Thông tin về đối tác bao gồm các thông tin về tiềm
lực tài chính của khách hàng cũng như khả năng sản xuất kinh doanh và khả
năng chống đỡ rủi ro.
Sự không cân xứng về thông tin là một nguồn gây ra rủi ro trong thị
trường tài chính. Các doanh nghiệp có nguồn thông tin “nội bộ” về các dự án của
họ với mức độ đáng tin cậy, người cho vay có thể giảm rủi ro bằng cách tăng khả
năng chọn lựa người vay hay dựa vào thông tin từ các tổ chức khác. Các biện
pháp làm tăng lượng thông tin cần cho người vay sẽ nâng cao khả năng của bên
cho vay trong việc xác định những người vay có cơ hội đầu tư tốt nhất cũng như
việc giám sát tránh những rủi ro đạo đức. khi lượng thông tin nghèo nàn, thì
người cho vay chỉ có thể phân biệt đối tượng vay theo những điều kiện rất chung
và khả năng xảy ra các rủi ro là hoàn toàn có thể.
Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở hai
mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao dịch diễn ra.

1. Lựa chọn đối nghịch
Rủi ro do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch
được gọi là vấn đề chọn lựa đối nghich. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thi
trường tài chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục
không mong muốn( đối nghịch) – tức là rủi ro không trả được nợ - là những
người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được chọn lựa nhất.
Việc các nhà đầu tư đã chọn sai đối tượng cho vay của mình vì không nắm
được đầy đủ thông tin về đối tượng khiến dễ có thể là các món cho vay được
thực hiện cho nhưng trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay
có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được
nợ.
Nếu người cho vay biết rõ về những người đi vay, tức là thông tin không phải
là khồn cân xứng thì người cho vay sẽ không khó khăn gì trong việc cho người
này hay người kia vay. Do sự lựa chọn đối nghịch, người cho vay có thể tăng lãi
suất vay. Nhưng việc này phần nào tự gây tác hại vì nhiều người đi vay đáng tin
cậy có thể quyết định không vay nữa và chỉ còn lại những người kém tin cậy
hơn.
2. Rủi ro đạo đức
Khi người đi vay phải vay với lãi suất cao, để bù đắp chi phí, khách hàng sẽ
chấp nhận những dự án rủi ro hơn. Đây là vấn đề rủi ro đạo đức.
Rủi ro đạo đức là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc
giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài chính xảy ra khi người
cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động
không tốt (hành vi thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì
những hoạt động này khiến ít có khả năng món vay này sẽ được hoàn trả.
Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có
thể quyết định thôi không cho vay. Những hành vi thiếu đạo đức này có thể là
người đi vay tạo ra những chứng cứ giả để có thể vay được tiền từ người cho
vay. Những người đi vay tự tạo ra các công ty “ma” thực hiện các cuộc giao dịch
để thanh tiêu các khoản vay. Đây là hành vi có ý lừa đảo. hoặc người đi vay cố

tình chiếm đoạt một khoản vốn của người cho vay. Khi người đi vay có thể hoạt
động kinh doanh có lợi nhuận song không muốn trả lại tiền cho các nhà đầu tư
hay ngân hàng…. Có khi người đi vay có thể sử dụng vốn vay vào các mục đích
sai mục đích khi vay vốn. trường hợp này xảy ra khi chủ đầu tư không có sự
giám sát chặt chẽ đối với hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp.
II. Thông tin không cân xứng ảnh hưởng đến các thị trường
Để có thể hiểu rõ hơn về khái niệm thông tin không cân xứng, lựa chọn
đối nghịch và rủi ro đạo đức, chúng ta có thể đi vào một thị trường đặc trưng.
Mô tả đặc điểm riêng của vấn đề lựa chọn đối nghịch và việc lựa chọn đối
nghịch gây trở ngại như thế nào cho sự hoạt động hữu hiệu của một thị trường,
hãy xem xét thị trường xe máy cũ. Giả sử một người muốn mua một xe máy đã
qua sử dụng thì không thể tự đánh giá chất lượng của cải xe này. Do đó cái giá
mà người mua phải trả phản ánh chất lượng trung bình của những chiếc xe trong
thị trường đó. Người sở hữu xe là người biết rõ nhất về chất lượng chiếc xe này.
Nếu chiếc xe này quá tồi thì người chủ sẽ vô cùng sung sướng bán với giá mà
người mua định trả. Tuy nhiên, nếu đó là một cái xe đang tốt, người chủ của nó
biết chắc chiếc xe của ông ta bị định giá thấp, nên ông ta không muốn bán nó.
Hậu quả của việc lựa chọn đối nghịch này là có rất ít xe đã qua sử dụng nhưng
chất lượng còn tốt xuất hiện ở thị trường này. Thị trường xe máy cũ do đó sẽ
hoạt động và trên thực tế là không hoạt động.
Như vậy hiện tượng lựa chọn bất lợi đã cản trở việc giao dịch trên cơ sở
hai bên cùng có lợi. Trở lại với thị trường tài chính, mà cụ thể là hoạt động tín
dụng của ngân hàng, các ngân hàng luôn là người có ít thông tin hơn về dự án,
về mục đích sử dụng về khoản tín dụng cấp cho khách hàng. Điều này dẫn đến
trường hợp ngân hàng cho các doanh nghiệp sắp phá sản vay và phải đối mặt với
những khoản nợ khó đòi.
Vấn đề rủi ro đạo đức nảy sinh khi có sự tách biệt giữa người sở hữu vốn
và người sử dụng vốn, mà trong trường hợp này các ngân hàng thương mại đóng
vai trò là người sở hữu vốn các doanh nghiệp là người sử dụng vốn. Do hợp
đồng nợ chỉ đòi hỏi người vay phải trả một số tiền nhất định và cho phép họ

hưởng bất cứ lợi nhuận nào còn lại, những người vay này có ý muốn nhận những
dự án đầu tư có nhiều rủi ro hơn so với những người cho vay muốn, và ở đây
những ngân hàng thương mại sẽ là người phải chịu những rủi ro đạo đức này.
PHẦN II
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHO VẦN
ĐÈ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM
I. Thực trạng của vấn đề thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng
ngân hàng
1. Thị trường tài chính quốc tế và vấn đề thông tin không cân xứng trong
hoạt động tín dụng
Sau nhiều cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế nổ ra trên thế giới mà gần
đây nhất là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008, người ta mới thực sự đánh giá
được những hậu quả nghiêm trọng do vấn đề thông tin không cân xứng gây ra.
Với sự ra đời của các doanh nghiệp có sự tham gia vốn của công chúng và
tính hữu hạn về trách nhiệm, việc chuẩn hóa thông tin đã trở nên tối quan trọng –
vấn đề này được mọi người nhận thức trong suốt những năm 1930 khi những nhà
đầu tư nhỏ bị mất những khoản tiết kiệm của mình do đã quá tin tưởng vào
những báo cáo tài chính không chính xác. Đây chỉ là một trong vô số những hậu
quả do vấn đề thông tin không cân xứng gây ra.
Cuộc khủng hoảng gần đây nhất là cuộc khủng hoảng năm 2008, mở đầu
bằng việc các ngân hàng lớn của Mỹ bị phá sản. Rất nhiều nguyên nhân và đánh
giá được đưa ra dựa trên những bài học từ cuộc khủng hoảng năm 1930 nhưng
nguyên nhân sâu xa chính là sự bất cân xứng thông tin. Do những nghĩa vụ về tài
chính không được đảm bảo một cách đầy đủ, việc giám sát và thông tin là những
yếu tố tối quan trọng. Đây là thời điểm mà nhiều ngân hàng đang lên tiếng đấu
tranh cho sự cấp thiết phải có những thông tin tổng quát về tổ chức của chính họ.
Vấn đề thông tin không cân xứng vẫn đang cần những giải pháp thiết thực khác.
2. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Việt Nam và vấn đề thông tin bất cân
xứng

2.1. Thực trạng chung
2.1.1. Đặc điểm thị trường tài chính Việt Nam
Hoạt động tín dụng là một loại hoạt động kinh tế gắn liền với sự thăng
trầm của nền kinh tế. Vì vậy khi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp rủi ro
tất yếu sẽ dẫn đến rủi ro đối với các tổ chức tín dụng cấp vốn cho các doanh
nghiệp.
Đối với một thị trường tài chính còn non nớt và chưa hình thành đầy đủ,
Việt Nam một mặt cho phép phát triển một thị trường tự do, một mặt vẫn cần sự
định hướng, hỗ trợ từ nhà nước. Trong những năm gần đây, Việt Nam đang cố
gắng hoàn thiện thị trường tài chính bằng việc tăng cường phát triển thị trường
nợ và thị trường vốn cổ phần. Bên cạnh đó chúng ta còn đang hoàn thiện và tăng
cường phát triển thị trường chứng khoán.
Đén nay một trong các hoạt động chủ yếu trong thị trường tài chính vẫn là
lĩnh vực cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp.
2.1.2. Vấn đề thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam
Trong thực tế, không phảỉ doanh nghiệp nào cũng làm ăn có lãi hay nói
cách khác là doanh nghiệp gặp rủi ro và điều này dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông
tin bất cân xứng xảy ra tức là khi các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng không
nắm được tình hình phát triển và làm ăn của doanh nghiệp và đó là một nguyên
nhân gây ra rủi ro tín dụng trong thị trường tài chính.
Có thể nói, thu nhận các thông tin về khách hàng hiện nay ở các ngân
hàng, tổ chức tín dụng còn rất ít được quan tâm, nhất là thông tin của khách hàng
sau khi đã được vay vốn. Đây chính là một trong những rủi ro đạo đức trong hoạt
động tín dụng tại việt nam. Vì thế cho đến khi ngân hàng phát hiện ra tình trạng
tài chính của khách hàng có vấn đề thì tình huống trở nên rất khó khăn. Sự hiểu
biết lẫn nhau giữa khách hàng và ngân hàng không được coi là yếu tố đảm bảo
cho việc vay an toàn đang phổ biến hiện nay.
Vấn đề thứ hai là các ngân hàng, tổ chức tín dụng ít am hiểu các thị trường
sản phẩm, dịch vụ khi cho vay để sản xuất hoặc cung cấp một dịch vụ thì trước
hết cán bộ hoặc người có thẩm quyền quyết định cho vay phải xác định liệu sản

phẩm hoặc dịch vụ sản xuất ra có được thị trường chấp nhận không và nếu có thì
ở mức giá nào. Việc cho vay không đánh giá được khả năng tiêu thụ của sản
phẩm, dịch vụ tạo ra từ vốn vay là nguyên nhân quan trọng dẫn đến các rủi ro
hiện nay. Khi xác định được sản phẩm dịch vụ sản xuất ra được thị trường chấp
nhận thì lúc đó quyết định cho vay mới được đưa ra còn ngược lại thì không có
quyết định nào cả.
Về lựa chọn đối nghịch – vấn đề lựa chọn sai đối tượng cho vay thường
xuyên xảy ra dối với các ngân hàng và các trung gian tài chính mà đặc biệt là các
tổ chức tín dụng. Khi các doanh nghiệp cố ý lừa đảo chiếm dụng vốn, các ngân
hàng không nắm được đầy đủ thông tin về khách hàng và đã bị qua mặt trong
việc kiểm tra giám sát cũng như thẩm định giá trị tài sản.
2.2 Thực trạng về phía khách hàng
Trong thời gian qua ở nước ta đã và đang tồn tại một thực tế là các doanh
nghiệp hoạt động với qui mô lớn song lại tách rời khả năng vốn tự có của chính
bản than mình. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
thua lỗ. Từ thực trạng tài chính của các doanh nghiệp đã nảy sinh tình trạng tỷ lệ
vay vốn của các doanh nghiệp cao hơn gấp nhiều lần so với vốn tự có. Điều này
sẽ gây rủi ro cho các ngân hàng thương mại. Công tác quản lý của nhà nước còn
nhiều sơ hở tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp, cá nhân hình thành công ty
ma chuyên đi lừa đảo.
2.3. Thực trạng về phía các ngân hàng thương mại
Trên các thị trường tài chính không chính thức, thông tin được thu thập
như một sản phẩm phụ thông qua hoạt động của người cho vay – ví dụ thông qua
việc kinh doanh của người cho vay với khách hàng vay. Đối với các tổ chức có
quy mô lớn đòi hỏi phải có công cụ giám sát chính thống để vừa phục vụ cho
công tác kiểm soát hoạt động của các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp và để
báo cáo cho các đối tượng bên ngoài, những người có mối quan tâm hợp pháp
đến hoạt Động của doanh nghiệp. Các công cụ này chính là kế toán quản lý và kế
toán tài chính.
Các ngân hàng thương mại thường cho rằng những doanh nghiệp quen

thuộc không cần giám sát chặt chẽ và iair quyết cho vay dựa vào những thông tin
cho các doanh nghiệp đó cung cấp thay cho những số liệu tài chính đáng tin cậy.
Các ngân hàng thương mại đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc
doanh do hoạt động tín dụng còn mang yếu tố bao cấp nên chưa có cơ hế thích
hợp trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay, cũng như xử lí rủi ro trong hoạt
động tín dụng. Tính khả thi của dự án cũng như hiệu quả của khoản vay chưa trở
thành mục tiêu tôn chi trong hoạt động tín dụng của nhiều ngân hàng.
Hệ thống kiểm soát chưa phát huy được tác dụng của nó. Do đó, thường
sau khi cho vay, các ngân hàng yên tâm với tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
mà thiếu sự giám sát chặt chẽ đối với các khoản đã cho vay, trong khi tài sản thế
chấp, bảo lãnh, cầm cố có thể bị sai lệch về mặt giá trị.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm đúng mức và thực tế có
một số cán bộ tín dụng của ngân hàng thương mại hiện nay thiếu năng lực về
phân tích và xử lý thông tin tín dụng đê bảo vệ và giám sát các khoản vay, thậm
chí còn có trường hợp cán bộ tín dụng làm sai quy trình tín dụng.
Sự hợp tác giữa ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng
(CIC) không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí một số ngân hàng
thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm CIC và dẫn
đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng là rất
khó khăn. Chính vì vậy ngân hàng khó giám sát khách hàng về việc họ sử dụng
khoản vay có đúng mục đích hay không. Đó cũng là vấn đề rủi ro đạo đức và
cũng là lựa chọn đối nghịch đối với các ngân hàng.
*Tình hình nợ xấu các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
a. Khái niệm về nợ xấu:
Nợ xấu – là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi
lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với
các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các
doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ
hoặc phá sản…
Nợ xấu được coi là chi phí khác của doanh nghiệp cho vay, chính vậy nên làm

giảm thu nhập dòng. Nhìn chung một doanh nghiệp luôn phải ước tính trước
những khoản nợ xấu trong chu trình kinh doanh hiện tại dựa vào những số liệu
nợ xấu ở kì trước. Đa số các công ty đều cho phép một tỷ lệ nợ xấu nhất định
trên tổng nợ vì chắc chắn một điều là không thể thu hồi được mọi khoản nợ một
cách đầy đủ nhất.
b. Nguyên nhân
Nợ xấu là hệ quả của rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, về nguyên
nhân tồn tại, nợ xấu được hình thành từ hai nhóm nguyên nhân cơ bản là nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân khách quan xuất phát từ sự thay đổi của môi trường tự nhiên
( thiên tai, dịch bệnh,…), sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị
trường thế giới, sự tấn công của hàng nhập lậu, rủi ro do môi trường pháp lý
chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước, hệ thông
thông tin quản lý còn bất cập…
Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ sự quản lý yếu kém của ngân hàng cũng như
từ phía khách hàng. Các ngân hàng thương mại quốc doanh chỉ bị ràng buộc tài
chính, dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm đến việc đánh giá sát sao
năng lực tài chính của người vay, gây ra và tích đọng nợ xấu
Lãi suất huy động vốn quá cao dẫn đến lãi suất cho các doanh nghiệp vay tăng
lên, các doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận mức lãi suất quá cao, họ có khả
năng tìm đến những nguồn vốn khác. Nghi vấn đặt ra đối với những doanh
nghiệp dám chấp thuận mức lãi suất cao. Phần lớn sự chấp thuận đó xuất phát từ
sự thiếu vốn trầ trọng, năng lực tài chính hạn chế, độ tín nhiệm thấp nên không
tiếp cận được những nguồn vốn khác. Và tất nhiên, nguy cơ nợ xấu ngân hàng
tăng lên từ nhóm đối tượng này.
Nguyên nhân chủ quan còn là hệ quả của việc thiết thông tin về người đi vay của
các ngân hàng thương mãi cũng như thiếu cơ chế giám sát quá trình thực hiện dự
án sau khi vay. Đây đều là hệ quả của vấn đề thông tin bất cân xứng gây nên.
c. hậu quả
Nợ xấu gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của cả chủ nợ và

doanh nghiệp. Chủ nợ mất nhiều thời gian, công sức thu hồi nợ. Trong khi đó,
doanh nghiệp gần như mất khả năng trả nợ, chủ nợ có nguy cơ mất trắng
Tuy nhiên, việc loại trừ nợ xấu gần như là điều không thể. Việc phản ánh tình
trạng nợ xấu trong báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại càng đầy đủ
và chi tiết càng phản ánh
d. Tình hình nợ xấu ngân hàng thương mại
Đến hết tháng 11/2013, tín dụng của toàn hệ thống đã tăng trưởng 9%. Tuy
nhiên, báo cáo tài chính cập nhật đến hết quý 3 thì cho thấy vẫn còn nhiều ngân
hàng còn tăng trưởng tín dụng âm, điển hình như MaritimeBank, OCB,
VietABank, Navibank
Tăng trưởng tín dụng của các NHTM cụ thể như sau:
Tình hình nợ xấu của các ngân hàng trong khi đó ngày càng xấu hơn. Theo số
liệu mới nhất thì tỷ lệ nợ xấu của nhiều ngân hàng đã tăng vọt sau 9 tháng đầu
năm 2013, trong đó có những ngân hàng nợ xấu hơn 9% như PGBank hay trên
dưới 8% như SHB, SCB.
Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng cụ thể như sau:
II. Những giải pháp cho vấn đề thông tin bất cân xứng nâng cao hoạt động
tín dụng ngân hàng tại Việt Nam
1. Hoàn thiện nâng cao hệ thông thông tin tín dụng
1.1. Thực trạng, nhược điểm của hệ thống thông tin tín dụng CIC
Nhằm mục đích giúp các tổ chức tín dụng phòng ngừa và hạn chế được
những rủi ro trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho
ra đời hệ thông thông tin tín dụng CIC, để phục vụ việc th thập và cung cấp
thông tin về các doanh nghiệp cho các tổ chức tín dung. Trải qua nhiểu giai đoạn
tìm tòi, thử nghiệm và phát triển, đến nay hệ thống thông tin tín dụng CIC của
ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được hình thành và thể hiện được vai trò cần
thiết của mình đối với các tổ chức tín dụng. Sau nhiều năm hoạt động, hệ thống
CIC đã làm được nhiều việc, nhưng phải thừa nhận chất lượng thông tin chưa
cao, chưa thực sự là chỗ dựa đáng tin cậy cho các ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, hệ thông CIC tuy được tổ chức rộng khắp trong cả nước nhưng

nó không phải là một tổ chức riêng biệt. Do có nhiều cấp chỉ đạo và lãnh đạo
khác nhau dẫn đến hiệu lực chỉ đạo điều hành sẽ không thống nhất, bộ máy cồng
kềnh, kém hiệu quả không phát huy được tính chủ động trong công việc. Kết quả
cuối cùng số liệu bị phân tán, không đầy đủ, đặc biệt khi có sự mất đồng bộ
trong hệ thống thông tin.
Thứ hai, số liệu của trung tâm hoặc bộ phận CIC các tỉnh, thành phố, khi
truyền đến CIC trung tương thì lại được truyền qua trung gian là trung tâm tin
học ngân hàng, không có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra dữ liệu. Vì vậy cũng làm
cho số liệu không đầy đủ, kịp thời và mất an toàn.
Con người làm ở công tác này cũng mang tính tạm thời, kiêm nhiệm dẫn đến
tình trạng chán nản, thụ động, không quan tâm đến công việc.
1.2. Hoàn thiện nhược điểm, nâng cao hoạt động của hệ thống thông tin
tín dụng
1.1.2. Trung tâm CIC – chỗ dựa đáng tin cậy:
Với các thực trạng như trên, để trung tâm CIC thực sự trở thành chỗ dựa
đáng tin cậy cho các ngân hàng và doanh nghiệp, cần phải thống nhất những tư
tưởng chung về công tác này như sau:
Công tác thông tin tín dụng là một công việc dịch vụ về thông tin cho các
ngân hàng và doanh nghiệp. Vì vậy công tác thông tin tín dụng phải có chức
năng kinh doanh về tin, mọi việc thu thập cung ứng thông tin phải được dựa trên
quan hệ mua bán.
Công tác thông tin tín dụng phải có bộ máy lao động riêng, hoạt động của
nó không nhằm mục tiêu sinh lời, chịu sự chỉ đạo và quản lý của Ngân hàng Nhà
nước trung ương,
Từ những suy nghĩ như trên, qua tham khảo kinh nghiệm của một số nước,
gắn với đặc thù riêng có của nên kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam, để
khắc phục những thiếu sót và tồn tại hiện nay, nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động, chúng ta có thể thay đổi mô hình hoạt động của trung tâm CIC như sau:
CIC Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc ngân hàng Nhà
nước VIệt Nam để cung cấp các sản phẩm thông tin chuyên dùng phục vụ hoạt

động ngân hàng. Hoạt động cảu trung tâm không nhằm mục tiêu sinh lời, trung
tâm được bố trí gọn nhẹ không rải đều ra các tỉnh, thành phố hiện nay. Các chi
nhánh CIC ở các thành phố trung tâm là nơi trực tiếp thu nhận, xử lí, và cung cấp
thông tin cho các tổ chức tín dụng trong nước. Các chi nhánh này trực tiếp nhận
sự chỉ đạo của CIC trung ương.
1.2.2. Hoàn thiện hệ thống thông tin Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước Việt Nam bao gồm
hệ thống thông tin tín dụng của Nhà nước và phòng thông tin tín dụng cảu các
ngân hàng thương mại, hình thành và đi vào hoạt động được 10 năm, bước đầu
thu được những kết quả đáng phấn khởi.
Hệ thống này đã bổ sung thêm một kênh giúp các ngân hàng thương mại
đối phó với vấn đề thông tin không cân xứng, từ đó góp phần ngăn ngừa, hạn chế
rủi ro tín dụng.
Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thông tin tín dụng của hệ
thống ngân hàng đang là một đòi hỏi cấp thiết trên cả phương diện lí luận và
thực tiễn. Sau đây là một số giải pháp nâng cao hoạt động của hệ thống thông tin
tín dụng ngân hàng Việt Nam:
1.2.2.1. Nâng cao chức năng của hệ thống thông tin tín dụng
Cung cấp thông tin tín dụng cho ngân hàng Nhà nước phục vụ cho việc
thực hiện tốt chức năng hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, góp
phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam và chức năng quản lý của ngân hàng
Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam.
Cung cấp thông tin tín dụng cho các ngân hàng nhằm làm lành mạnh hóa
các quan hệ tiền tệ tín dụng giữa các doanh nghiệp và các ngân hàng góp phần
đảm bảo an toàn và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong hệ thống nền
kinh tế.
1.2.2.2. Nhiệm vũ của hệ thông thông tin tín dụng
Thứ nhất là thu thập thông tin, tổ chức và tiến hành thu thập thông tin về
các doanh nghiệp, các thông tin khác có liên quand dến hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ từ các ngân hàng, các cơ quan hữu quan, các doanh nghiệp, các

cơ quan thông tin trong nước theo các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước
và của ngành.
Hợp tác với các cơ quan thông tin nước ngoài để thu thập, trao đổi thông
tin để phục vụ cho hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng Việt Nam.
Thưc hai là phải lưu trữ, xử lý và phân tích thông tin: Trên cơ sở thông tin
đã thu thập được tiến hành xử lý, phân danh sách xếp loại doanh nghiệp có quan
hệ tại các ngân hàng, các bảo cáo, dự báo có liên quan đến hoạt động tín dụng
từng thời kì.
Tổ chức lưu trữ, xây dựng kho dữ liệu thông tin về doanh nghiệp và các
thông tin khác có liên quan đến hoạt động tín dụng
Thứ bà là phục vụ thông tin: Cung cấp thông tin phục vụ ngân hàng Nhà
nước, các cơ quan hữu quan và các loại dịch vụ thông tin tín dụng đáp ứng nhu
cầu của các ngân hàng trong và ngoài nước.
Thứ tư là phải nên phục vụ các nhiệm vụ khác cho khách hàng như đào
tạo, hướng dẫn nghiệp vụ thông tin tín dụng, lập trình phần mềm thông tin tín
dụng, phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp….
1.2.2.3. Giải pháp về mô hình tổ chức
Trung tâm thông tin tín dụng được thành lập năm 1999 dưới sự chỉ đạo
của thống đốc ngân hàng Nhà nước, trên cơ sở tổ chức tại trung tâm thông tin tín
dụng thuộc Vụ tín dụng. Trung tâm thông tin tín dụng có chức năng làm đàu mối
và chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ thông tin tín dụng trong toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Đồng thời phải cunggr cố lại các trung tâm, bộ phận CIC hiện có tại các
ngân hàng Nhà nước để thực hiện việc thu thập và cung cấp thông tin cho các
ngân hàng, chi nhanh ngân hàng trên địa bàn.
Về phía các ngân hàng, tại trung tâm điều hành phải thành lập phòng
thông tin tín dụng, hoặc phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Để triển khai hoạt
động thông tin tín dụng trong từng hệ thông ngân hàng thương mại, tại các chi
nhánh tổ chức tín dụng cũng phải có cán bộ chuyên trách để phối hợp thu thập và
cung cấp thông tin.
1.2.2.4. Nâng cao chất lượng cán bộ và đào tạo cán bộ

Yêu cầu đối với cán bộ chuyên trách là về công tác thông tin tín dụng, kể
cả tại ngân hàng Nhà nước và tại các chi nhành trung tâm các ngân hàng là: cần
phải có trình độ đại học về ngân hạng, tài chính hoặc kinh tế, phải sử dụng thành
thạo máy vi tính và ít nhất một ngoại ngữ. Các cán boojd dó phải được tập huấn
để sử dụng thành thạo chương trình phần mềm CIC, biết cách thu thập, khai thác
thông tin, biết phân tích, đánh giá về doanh nghiệp.
Ngoài ra, các cán bộ CIC cần phải có thu nhập trung bình so với mặt bằng
chung của ngành, có chế độ thích hợp khi đi thu thập thông tin. Cần phải có chế
độ quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ CIC, được phép kiểm tra, đối
chiếu số liệu để thu thập thông tin tại các ngân hàng. Nếu để chế độ quá thấp sẽ
có tác dụng xấu đến chất lượng hoạt động thông tin tín dụng do cán bộ chán nản,
không tận tình với công việc, thậm chí còn có thể sinh ra tiêu cực, lợi dụng cho
cá nhân, không đảm bảo an toàn, an ninh cho thông in.
1.2.2.5. Về xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thông tin tín dụng
Cần xây dựng đồng bộ, đầy đủ các văn bản pháp quy, về hoạt động thông
tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng, như quy chế về tổ chức và hoạt động của
trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng Nhà nước, quy chế về tổ chức và hoạt
động nghiệp vụ thông tin tín dụng của ngân hang, hướng dẫn về tổ chức\và hoạt
động thông tin tín dụng của các ngân hang…
1.2.2.6. Người sử dụng tin và mối quan hệ với CIC
Người sử dụng tin chủ yếu là ngân hàng: Các ngân hàng vừa là nguồn cung cấp
thông tin quan trọng , vừa là người sử dụng thông tin của CIC nên cần thiết lập
mối quan hệ thành viên bắt buộc. Ngân hàng nhà nước cần quy định tất cả các
ngân hàng thương mại phải là thành viên của CIC, coi đây là yếu tố tố trách
nhiệm, bắt buộc khi đăng kí hoạt động dưới tư cách của một tổ chức tín dụng.
Người sử dụng thông tin là doanh nghiệp Việt Nam: Không nên để doanh
nghiệp thành viên CIC như trả trước, mà chỉ là khách hàng mua tin, quan hệ bạn
hàng, chỉ được tra cứu những thông tin nhất định và phải trả phí sử dụng thông
tin.
Các cơ quan nhà nước quản lý doanh nghiệp: là đối tượng phục vụ đặc biệt

quan hệ thông tin theo quy định của pháp luật. Các cơ quan này vừa là nguồn
cung cấp, vừa là người sử dụng thông tin, nên quan hệ trên cơ sở tao đổi thông
tin giữa cơ quan chính phủ.
Các cơ quan thông tin trong cà ngoài nước : là khách hàng mua tin, quan
hệ bạn hàng, có thể mối quan hệ hai chiều trên cơ sở thỏa thuận hoặc ký hợp
đồng (cam kết ) trao đổi thông tin hai chiều với trung tâm CIC.
1.2.2.7. Thu thập thông tin
Nguồn thu nhập thông tin : Trên cơ sở đúc két kinh nghiệm về việc nhập
thông tin để hạn chế những khó khăn về nguồn thông tn, có thể mở rộng nguồn
thu nhập tin tới các cơ quan có thể khai thác được thông tin theo quy định của
pháp luật trên cơ sở quan hệ hai chiều, chú trọng nguồnn t thông từ thông tin đại
chúng.
Đồng tời mơ rộng nguồn t nhập thông tin nước ngoài,cần tiếp cận được với
một số cơ quan thong tn tín dụng lớn đặc biệt là cần tham gia thành viên và trao
đổi thông tin tín dụng ASEAN, hiệp hội thông tin ín dụng châu Á, các cơ quan
xếp hạn tín dụng trong khu vực.
Phương pháp thu nhập thông tin: Trước đây, định hướng chủ yếu của tâm
CIC là thu nhập thông tin thông qua tổ chức tín dụng . Để đáp ứng yêu cầu của
việc đổi mới phương pháp thu nhập thông tin, từ một số phương pháp thu nhập
thông của nước ngoài, đồng thời từ kinh nghiệm thực tiễn, có them đề xuất từ
một số phương pháp thu thập thông tin đối với hệ thống tín dụng:
Phương pháp thu tin quan mạng máy tính nối với các ngân hàng.
Phương pháp thu thập thông tin từ các biểu báo cáo.
Thu tin qua đường công văn từ các cơ quan nhà nước quản lý doanh nghiệp
trên cơ sở quan hệ giữa các ngân hàng và cán bộ, ban ngành hữu quan
Phương pháp thu thập thông tin trực tiếp từ doanh nghiệp: CIC trực tiếp gặp
gỡ để phỏng vấn lãnh đạo doanh nghiệp hoặc có thể liên lạc qua điện thoại,fax
để chuyển đến doanh nghiệp một mẫu thu nhập thông tin và đề nghị doanh
nghiệp gửi về CIC các tong tn dưới dạng văn bản
Phương pháo thu tập thông tin từ các cơ quan thông tin báo chỉ: đây là

phương pháp đơn giản nhưng rất hữu hiệu, thông tn có nguồn gốc xác thực, đa
dạng phong phú.
Phương pháp thu thập thông tin qua mạng thông tin điện tử như Internet,
mạng trí tuệ VN của FPT- Vinanet, mạng Netnam, mạng 3C…
Nội dụng thu nhập thông tin: Theo đề xuất mới về việc mở rộng nguồn thu
thập thông tin thì nội dung thu thập thông tin phải phong phú đa dạng hơn. Một
số điểm cần chú trọng trong nội dung thu thập thông tin về doanh nghiệp như sau
: Về loại hình sở hữu của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp,
người điều hành doanh nghiệp, cách thức quản lý của doanh nghiệp, ngành hoạt
động của doanh nghiệp, vị trí doanh nghiệp trên thị trường, sản phẩm của doanh
nghiệp, tình hình tài sản thế chấp của doanh nghiệp, mối quan hệ của doanh
nghiệp với doanh nghiệp khác.
Phạm vi thu thập thông tin: Đối với doanh nghiệp,phạm vi thu thập thông tin
là toàn bộ doanh nghiệp của Việt Nam, hợp tác xa…
Về cá nhân kinh doanh, phạm vi thu thập thông tin là về các cá nhân kinh
doanh có mức dư nợ hơn 100 triệu đồng tại mỗi ngân hàng

1.2.2.8. Giải pháp đối với khâu xử lý thông tin
Phân tích chất lượng tín dụng:Tại trung tâm CIC, việc phân tích chất lượng
hoạt động tín dụng nên tiến hành theo các tiêu thức khác nhau:
Một là phân loại nợ theo tổng dư nợ tiền VN cà ngoại tệ của toàn hệ thống đối
với nền kinh tế, trong đó phân loại dư nợ thành 4 nhóm theo chế độ hiện thành
Hai là phân loại dư nợ theo cái tiêu thức trên đối với từng vùng tổ chức tín
dụng.
Ba là phân loại dư nợ theo các tiêu thức trên đối với từng tỉnh từng thành phố
Bốn là phân loại dư nợ theo các tiêu thức trên đối với các ngành kinh tế, thành
phần kinh tế.
Năm là phân loại dư nợ theo từng thời hạn nợ : ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
và nợ khác trong toàn hệ thống, từng ngân hàng và theo lãnh thổ, ngành kinh tế,
thành phần kinh tế

Phân tích xêp loại doanh nghiệp: Đối với thông tin tín dụng VN thì viện phân
tích, xếp loại doanh nghiệp trước hết phải vì mục đích phục vụ cho hoạt động tín
dụng. Vì vậy đối với trung tâm CIC, phương án xệp loại doanh nghiệp có quan
hệ tại các tổ chức tín dụng như sau: Việc đánh giá, xếp loại một doanh nghiệp, sẽ
được dựa vào bốn nhóm tiêu thức: Quy mô doanh nghiệp, khả năng thanh toán,
quan hệ tín dụng, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.2.2.9. Cung cấp thông tin ra
Về thông tin doanh nghiệp trong nước: thứ nhất hiện nay đang có 8 biểu thông
tin về doanh nghiệp, như vậy tương đối rườm rà, có thể ghép thành 4 biểu như
sau: Thông tin về hồ sơ pháp lý doanh nghiệp, thông tin về tình hình phi tài
chính và thông tin về quan hệ tín dụng.
Thứ hai là thông tin về cá nhân kinh doanh có quan hệ tín dụng
Thứ ba nên phát hành định kì hàng tháng bản tin CIC để đảm bảo thông tin
cập nhật và nội dung cải tiến.
Về phạm vi cung cấp thông tin ra: Được phép cung cấp công khai các thông tin
về doanh nghiệp, đối với các thông tin mật chỉ được cung cấp số tương dối.
1.2.2.10. Áp dụng kỹ thuật tin học
Chương trình phàm mềm CIC phải được xây dựng để đảm bảo mốt số yêu
cầu: Thích hợp công nghệ mới tiên tiến, thuận lợi trong việc truyền tin phù hợp
với các thiết bị hiện có tại VN, có khả năng bảo mật cao…
1.2.2.11. Phí thông tin
Các thành viên trong hệ thống phải đóng phí thông tin. Còn đói với khách hàng
phải trải phí từng lần theo giá thị trường.
2. Kiểm tra, giám sát vốn vay của ngân hàng
Kiểm tra, giám sát vốn vay ngân hàng phải đảm bảo được mức dộ tín nhiệm
của khác hàng vay vốn. Có nhiều các đánh giá, nhưng cách đánh giá chung nhất
là cán bộ tín dụng phải thu nhập thông tin về khách hàng và đánh giá xem khách
hàng là người có vay tốt đến mức nào và dự báo khách hàng đó có thể có khó khi
thanh toán món tiền vay hay không bằng cách giám sát cách giám sát các hoạt
dộng sản xuất kinh doanh của khách hàng để biết họ có tuân theo những quy

định trong hợp đồng tín dụng hay không nhằm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy đến
với các ngân hàng cho vay
Nếu khách hàng vay tiền đã có tài khoản tiền gửi hoặc tiền vay qua một
thời gian dài, cán bộ tín dụng có thể nhìn vào hoạt động quá khứ đối với các tài
khoản đó sẽ biết được nhiều thông tin về khách hàng đó. Số dư tài khoản tiền gửi
tại ngân hàng cho biết hoạt động của khách hàng tiềm tàng đến mức nào và vào
lúc nào trong năm, người đó rất cần tiền mặt. Việc xem lại những tấm séc mà
khách hàng vay viết cho biết những người nào đã cung cấp cho khách hàng này.
Quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng như vậy sẽ làm lợi cho cả 2 bên.
Ngân hàng tốn ít thời gian cho việc giám sát, khách hàng tránh được những hoạt
động rủi ro để không ảnh hưởng đến ngân hàng. Mối quan hệ trên có thể giúp
cho ngân hàng có thể đối phó với sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cả ngân
hàng cũng không lường trước được ban dầu. Do vậy cần tạo lập được chiến lược
khách hàng đa dạng, lâu dài trên cơ sở giữ trọn chữ tín và sự thỏa mãn đối với
khách hàng vay cũng như gửi tiền.
Muốn vậy ngân hàng phải luôn củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động
của mình, đồng thời luôn sâu sát tìm hiểu khách hàng để có phương pháp phục
vụ thích hợp. Đây là cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát vốn vay của khách hàng
một cách tốt nhất.
3. Trích lập các quỹ dự phòng rủi ro
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro, trong đó rủi
ro do thông tin không cân xứng có thể có ở mọi lúc, mọi nơi. Nó không hoàn
toàn phụ thuộc vào mức độ kiểm soát của ngân hàng nhưng lại chịu sự chi phối
của các yếu tố khách quan. Vì vậy, nên chăng khi chúng ta thiết lập các quỹ với
một cơ chế trích lập dự phòng rủi ro khả thi trong điều kiện của nền kinh tế nước
ta hiện nay. Cơ chế tính phí dự phòng rủi ro vào ngay trong lãi suất cho vay của
khách hàng.
KẾT LUẬN
Thông tin là một vấn để rất rộng, nó có thể bao gộp mọi vấn đề trong xã hội.
Đứng trên góc độ kinh tế học, có thể nói, thông tin chiếm 70% sự thành công của

một nền kinh tế. Phân tích vấn đề thông tin không cân xứng chính là làm rõ vai
trò của thông tin trong nền kinh tế. Chính vì vậy, việc khắc phục tình trạng thông
tin không cân xứng trong hoạt động tín dụng ngân hàng luôn cần phải có những
giải pháp tối ưu hơn.
Đối với Việt Nam, một nước đi sau các nước phát triển, theo xu hướng hội nhập
và phát triền toàn cầu hóa, việc hoàn thiện thị trường tài chính nói chung và hoạt
động tín dụng ngân hàng nói riêng đặt ra nhiều nhu cầu về thông tin. Tuy nhiên
đây là một vấn đề còn khá mới mẻ đối với hệ thống tài chính nước ta. Hướng đến
một nền kinh tế lành mạnh và phát triển sối động theo kịp các nước trong khu
vực và trên thế giới, Việt Nam đang khắc phục các điểm yếu của mình, trong đó
vấn đề thông tin không cân xứng đang từng bước bị đẩy lùi cùng với sự phát
triển của thế giới.
Giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng không chỉ phục vụ cho sự phát triển
của một quốc gia mà còn góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển của cả thế giới
trong kỷ nguyên thông tin và nền kinh tế tri thức ngày nay.
Trên đây là một số nghiên cứu và suy nghĩ trao đổi nhóm chúng em về vấn đè
thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng ngân hàng tại Việt Nam. Trong
quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những sai lầm, rất mong có sự góp ý
của cô để chúng em có những suy nghĩ chính xác hơn về vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×