Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

thực trạng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư và phát triển ngành thủy sản việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.42 KB, 63 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội
từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và kế hoạch 5 năm 2001-2005 tại Đại hội
Đảng lần thứ IX, ngành thuỷ sản nỗ lực phát huy mọi nguồn lực vào đầu tư phát
triển ngành thuỷ sản và đã đạt được những thành tựu to lớn, đóng góp không nhỏ
vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Kim ngạch xuất khẩu đứng vị trí thứ 3
(sau dầu thô, giày da), đóng góp cho ngân sách nhà nước lượng không nhỏ,s góp
phần tạo công ăn việc làm, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Song hiện nay đứng trước thách thức lớn của ngành thuỷ sản là nguồn lợi hải
sản đang ngày càng cạn kiệt mà nguồn lợi thuỷ sản xa bờ chưa được khai thác. Để
giữ được tốc độ phát triển cao như hiện nay, trong tiến trình hội nhập nền kinh tế
thế giới có những khó khăn mới luôn đặt ra cho ngành thuỷ sản. Vì vậy ngành thuỷ
sản cần có những bước đi mang tính chiến lược, thì đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ
sản chính là hướng đi tất yếu của ngành thuỷ sản.
Để có cái nhìn tổng quát và khách quan về vấn đề này, em lựa chọn đề tài
"Thực trạng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư và phát triển ngành thủy
sản Việt Nam hiện nay"
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.
Chương II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG
THUỶ SẢN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN NGÀNH THUỶ SẢN GIAI ĐOẠN 2006-2010
Trịnh An Huy 1 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài đã đi sâu xem xét tình hình đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở nước
ta trong thời gian qua và phương hướng trong những năm tới. Từ đó có một số giải
pháp cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói riêng và ngành thuỷ
sản nói chung, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Để hoàn thành đề tài này, trong quá trình nghiên cứu em đã được sự hướng dẫn


tận tình của cô giáo Th.S.Đào Thị Ngân Giang, qua đây em xin chân thành cảm ơn
cô giáo. Mặc dù đã hết sức cố gắng tìm tòi nghiên cứu song thời gian và hiểu biết
hạn chế, nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự góp ý của các thầy cô giáo, để em có thể hoàn thiện đề tài của mình chặt chẽ
trong lý luận và thiết thực trong thực tiễn.
Trịnh An Huy 2 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm, và đặc điểm của đầu tư phát triển
1.1 Khái niệm:
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể
có những cách hiểu khác nhau về đầu tư
Theo nghĩa rộng: Đầu tư là sự “hy sinh” các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực ở hiện tại có thể là: tiền, tài nguyên thiên nhiên, thời gian, sức lao
động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài
sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng
suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đạt được trên đây những kết quả là các tài sản vật chất, tài
sản trí tuệ và nguồn lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi,
không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này
không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng.
Theo nghĩa hẹp: Đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp được gọi là Đầu tư phát triển. Vậy đầu tư
phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn

nhân lực và tài sản trí tuệ để xây dựng nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang
thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện
chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm
lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực duy trì tiềm lực hoạt động
của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm
và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Trịnh An Huy 3 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Trên giác độ nền kinh tế đầu tư là sự hy sinh những giá trị ở hiện tại gắn
liền với việc tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân
phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, không phải là đầu tư đối
với nền kinh tế.
Đầu tư có thể phân loại thành ba hình thức chính theo bản chất và lợi ích do
đầu tư mang lại như sau:
Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc
mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất. Đầu tư tài chính không tạo ra sản phẩm
mới cho nền kinh tế quốc dân (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực
này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân đầu tư. Với
hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng
khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều này khuyến khích người có tiền
bỏ ra đầu tư. Để giảm độ rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền.
Đây là một kênh cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại: Là loại hình đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó đem bán lại giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch
giá khi mua và bán lại. Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho
nền kinh tế quốc dân (nếu không xét đến ngoại thươnng) mà chỉ làm tăng tài
chính của người đầu tư trong quá trình mua bán hàng hàng hoá, chuyển giao
quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người mua. Tuy nhiên đầu tư thương
mại có tác dụng thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách nhà
nước, tăng tích luỹ cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền

sản xuất xã hội nói chung.
Ngoài ra có thể hiểu đầu tư theo quan điểm tái sản xuất mở rộng: Đầu tư là
quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra các năng lực sản
xuất, tạo ra các yếu tố cơ bản tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất. Đây là
hoạt động mang tính thường xuyên của mọi nền kinh tế và là cơ sở của mọi sự phát
triển, tăng trưởng kinh tế.
Trịnh An Huy 4 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2 Đặc điểm đầu tư phát triển
Từ sự phân tích ở trên, cho ta thấy bản chất của đầu tư phát triển nói riêng có
những đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác ở những điểm sau:

Đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên việc quyết định đầu tư thường là quyết định
tài chính
Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi dưới các hình thức khác nhau,
nhưng vốn có thể xác định dưới các hình thức tiền tệ. Vì vậy các quyết định đầu tư
thường được xem xét các phương diện trong đó phương diện tài chính là quan trọng
nhất. Yếu tố tài chính sẽ cho ta thấy từ một dự án thì: tổn phí bao nhiêu, có khả
năng thực hiện không? Có khả năng thu hồi vốn không? Mức sinh lợi là bao nhiêu?
Trên thực tế hoạt động đầu tư và các quyết định chi tiêu đầu tư thường được cân
nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách của (nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân) và luôn
được xem xét khiá cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có thể khả thi ở những
phương diện khác (kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường) nhưng không
khả thi về mặt tài chính nên dự án cũng không được thực hiện được.

Đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài, các nguồn lực vật tư, tiền, lao
động cần được huy động lớn
Thời gian từ lúc tiến hành đầu tư cho đến khi các thành quả đầu tư phát huy
tác dụng thường kéo dài nhiều tháng, năm. Do đó trong quá trình đầu tư phải huy
động một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư,

không tham gia vào quá trình chu chuyển, nên nó không sinh lợi cho nền kinh tế.
Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.

Thời gian cần thiết để thực hiện một công cuộc đầu tư thường kéo dài
Quá trình vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi được vốn hoặc cho
đến khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra cũng thường kéo dài trong nhiều năm.
Nên không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố về tự
nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều
năm, có khi hàng trăm hàng nghàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói
lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
Trịnh An Huy 5 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ
hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa lý địa
hình tại đó ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này
của các kết quả đầu tư.

Đầu tư phát triển là hoạt động mang tính rủi ro
Hoạt động đầu tư một mặt là sự đánh đổi lợi ích ở hiện tại và quá trình thực
hiện diễn ra trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường trước hết
những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Do các
kết quả và hiệu quả của thành qủa đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố
không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian.
Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư phát triển đạt được hiểu quả kinh tế xã hội
cao thì đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư.
2. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế
Từ việc xem xét khái niệm, đặc điểm của đầu tư phát triển , các lý thuyết kinh
tế, cả lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi
đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự

tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện ở những mặt sau:
2.1 Trên góc độ nền kinh tế của quốc gia
Trịnh An Huy 6 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
P
0
P
2
Q
S

S
D

E
2
E
1
D
Q
0
Q
1
Q
2
P
1
E
0
P
0

Chuyên đề tốt nghiệp

Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.

Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu
của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư ngắn hạn. Khi tổng
cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D
dịch sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q
0
đến Q
1
và giá trị của các đầu
vào của đầu tư tăng từ P
0
đến P
1
, điểm cân bằng dịch từ E
0
đến E
1


Đối với tổng cung: Khi các thành quả đầu tư phát huy tác dụng, các năng
lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung ( đặc biệt là tổng cung dài hạn ) tăng lên
(đường S dịch chuyển sang S’) kéo sản lượng tiềm năng tăng từ Q
1
lên Q
2
và do đó
giá giảm từ P

1
xuống P
2
. Sản lượng tăng, giá giảm cho phép tiêu dùng tăng. Tiêu
dùng tăng lại kích thích sản xuất phát triển mà sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ
bản của để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội tăng thu nhập cho người lao động,
nâng cao đời sống của mọi thành viên xã hội.

Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và
tổng cung của nền kinh tế có tác động làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là
tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá
vỡ sự ổn định của nền kinh tế các quốc gia.
Ví dụ, khi cầu các yếu tố của đầu vào tư tăng làm cho giá cả của hàng hoá có
liên quan tăng đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến lạm phát. Đến lượt mình, lạm
phát là yếu tố làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao động gặp nhiều khó
khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển
chậm. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất
của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp,
nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội và tất cả các yếu tố này làm
cho kinh tế phát triển.

Đầu với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước
Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là: tự nghiên cứu phát minh ra công
nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài
Trịnh An Huy 7 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ
không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả thi.
Mặt khác công nghiệp là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện

tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khoa học công nghệ nước ta hiện nay.
Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu
chúng ta không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và
vững chắc.

Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thực tiễn của các nước trên thế giới cho thấy, để tăng trưởng kinh tế nhanh
với tốc độ 9% đến 10% thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh
ở mọi khu vực.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về phát
triển giữa các vùng lãnh thổ đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng
đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế địa hình…của
những vùng phát triển hơn làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.

Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Qua nghiên cứu của các nhà kinh tế người ta thấy rằng, muốn giữ tốc độ tăng
trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tư 15% đến 25% so với GDP
tuỳ thuộc vào chỉ số ICOR của mỗi nước
Và từ đó suy ra:
Nếu như hệ số ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn
đầu tư. Chỉ tiêu ICOR mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ
phát triển kinh tế và cơ chế chính sách mỗi nước. Thực tế cho thấy các vùng lãnh
thổ cũng như phụ thuộc voạ kiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông
Trịnh An Huy 8 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
ICOR
Mức tăng GDP =
Vốn đầu tư
ICOR =
Mức tăng
GDP

Vốn đầu tư
Chuyên đề tốt nghiệp
thường ICOR trong nông nghiệp vẫn thấp hơn ICOR trong công nghiệp, ICOR
trong giai đoạn chyển đổi cơ chế thường cao chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất.
2.2 Trên giác độ đơn vị kinh tế của đất nước

Đối với các cơ sở sản xuất-kinh doanh-dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời,
tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra
đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết
bị. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư
Mặt khác sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ
sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì sự hoạt động bình thường cần phải sửa chữa,
thay mới, mua sắm bổ sung các thiết bị mới thay thế cho các thiết bị cũ đã lỗi thời,
cũng có nghĩa là phải đầu tư.

Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không thể thu lợi cho bản thân mình)
đang tồn tại. Để duy trì sự hoạt động ngoài tiến hành sửa chữa lớn theo định kỳ các
cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những
hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
3. Vốn và nguồn vốn đầu tư phát triển
3.1 Khái niệm vốn và nguồn vốn đầu tư phát triển
Xem xét nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, vốn đầu tư là tiền tích luỹ của
xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và
vốn huy động của các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất
xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn
cho đầu tư phát triển nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
Nguồn vốn đầu tư bao gồm hai bộ phận cơ bản là nguồn vốn đầu tư trong nước và
nguồn vốn đầu tư nước ngoài
3.2 Vốn trong nước


Nguồn vốn nhà nước:
 Nguồn vốn ngân sách nhà nước:là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được đầu tư
Trịnh An Huy 9 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
vào các lĩnh vực, địa bàn có khó khăn mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư
nên nó có tính xã hội rất cao và cũng là nguồn vốn đóng vai trò thu hút các nguồn
vốn khác.

Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
Thay phải cấp phát vốn đầu tư trực tiếp cho đơn vị sử dụng, đây là nguồn vốn
cho vay tín dụng các chủ đầu tư có trách nhiệm phải hoàn trả sau khi dự án đầu tư
hoạt động. Nguồn vốn tín dụng nhà nước góp phần giảm tính bao cấp về vốn trong
đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định
hướng chiến lược đất nước.
 Nguồn vốn từ các doanh nghiệp nhà nước
Đây là nguồn hết sức quan trọng vì các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
được xác định là thành phần chủ đạo nắm giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế
và nắm giữ khối lượng vốn của nhà nước khá lớn.

Nguồn vốn tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
luỹ của các doanh nghiệp tư nhân và các hợp tác xã. Đây là nguồn vốn đóng góp to
lớn vào tổng quy mô của toàn xã hội, cần được huy động và khai thác triệt để.
3.3 Vốn nước ngoài
 Nguồn vốn ODA
Đây là nguồn vốn hỗ trợ phát triển của chính phủ các nước phát triển, các tổ
chức quốc tế cho các nước đang phát triển. So với các nguồn vốn khác ODA có tính
ưu đãi cao nhất. Mặc dù có các ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng

vốn lớn, loại vốn này thường đi kèm các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe
như tính hiểu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn.
Tuy nhiên nguồn vốn ODA có tác dụng làm giảm sự phát triển kinh tế mất cân
đối giữa các vùng kinh tế trong nước và giải quyết việc làm nâng cao đời sống nhân
dân, đồng thời làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn viện trợ từ nước
ngoài là rất quan trọng cho sự phát triển bền vững và góp phần thúc đẩy thành công
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trịnh An Huy 10 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Nguồn vốn FDI:
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là việc tiếp nhận nguồn
vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận . Nó thường đơn thuần mang tính
kinh doanh nhưng có tác đông khá lớn đến nền kinh tế vì nó thường mang theo các
công nghệ mới, các quy trình quản lý tiên tiến vào các nước nhận đầu tư.
Có thể thấy rằng FDI cung cấp nguồn vốn bổ sung cho nước chủ nhà để bù
đắp sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước. Hầu hết các nước đang phát triển trong
giai đoạn đầu cần vốn để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thực tế
cho thấy các nước trong khu vực ASEAN nhờ có FDI mà đã giải quyết được phần
nào khó khăn về vốn chiếm 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Bên cạnh đó FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm để tạo đà cho các vung kinh tế khác cùng phát
triển theo.
Ngoài ra FDI là hình thức hợp tác đầu tư quốc tế do đó thông qua hình thức
này Việt Nam có thêm điều kiện để mở rộng quan hệ quốc tế nâng cao vị trí của đất
nước trên trường quốc tế.
 Thị trường vốn quốc tế
Xu hướng toàn cầu hoá hiện nay ngày càng diễn ra với tốc độ nhanh, mối liên
kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia voà hệ thống tài chính quốc tế,
đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng

vốn lưu chuyển trên toàn cầu. Đây là nguồn vốn có thể huy động với số lượng vốn
lớn trong thời gian cao nên rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
3.4 Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn
Có thể nói rằng mối quan hệ gữa hai nguồn vốn trong nước và nguồn vốn
nước ngoài là mối quan hệ biện chứng với nhau. Khi một nước đang phát triển vấn
đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn và dẫn tới sự thiếu thốn các thứ cần thiết khác
để phát triển kinh tế như công nghệ, cơ sở hạ tầng .Do đó trong bước đầu cần phải
có “cú hích ban đầu” chính vì thế mà không thể không huy động nguồn vốn từ nước
ngoài vào.
Trịnh An Huy 11 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Trước hết ta xem xét tác động nguồn vốn trong nước đối với nguồn vốn nước
ngoài. Nguồn vốn trong nước luôn giữ vai trò quyết định trong chiến lược phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia. Quy mô và hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nước là
nhân tố cơ bản cho phát triển kinh tế, đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì đây là
tiêu chí hàng đầu khi xem xét có đâu tư trực tiếp hay cho vay vốn hay không. Bên
cạnh đó nguồn vốn trong nước được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, khi cơ sở hạ
tầng ngày một hiện đại đồng bộ thì hoạt động đầu tư càng thuận lợi thì dòng vốn
chảy vào càng nhiều. Mặt khác sự tăng trưởng kinh tế đất nước cơ bản bằng chính
nguồn vốn trong nước đã tạo uy tín với các nhà đầu tư quốc tế.
Nguồn vốn nước ngoài tác động trở lại đối với nguồn vốn trong nước, theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế tốc độ tăng GDP của nước ta trong năm 2007
là 8,5%. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn
tạo ra khối lượng lớn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đây là nguồn
gốc của tích luỹ vốn đầu tư trong nước. Ngoài ra khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài sẽ mang lại kinh nghiệm quản lý, công nghệ .điều này sẽ làm tính cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài.
Do vậy sự có mặt của nguồn vốn nước ngoài tính hiệu quả trong hoạt động của thị
trường Việt Nam được cải thiện và qua đó tác động tích cực đến nguồn vốn trong
nước. Tuy nhiên nếu đất nước phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài thì

nền kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ bị phụ thuộc và bị thao túng lũng đoạn từ các
tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài.
Từ mối quan hệ trên nhà nước ta phải có chính sách hợp lý trong thu hút vốn
và sử dụng giữa hai nguồn vốn này có hiểu quả cao nhất đạt được các mục tiêu kinh
tế đất nước đề ra.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH THUỶ SẢN
1. Đặc điểm, vai trò của ngành thuỷ sản
1.1 Khái niệm về ngành thuỷ sản:
Ngành thuỷ sản là ngành kinh tế cấp I, bao gồm các hoạt động đánh bắt, nuôi
trồng, chế biến thủy sản và các hoạt động dịch vụ thuỷ sản có liên quan. Là một
Trịnh An Huy 12 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
ngành kinh tế sinh học, được phân ngành thuộc ngành nông nghiệp, ra đời sớm và
đựơc nhà nước xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong công
cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Quá trình nuôi trồng thuỷ sản được tiến hành trên các loại hình mặt nước ngọt,
lợ, mặn được khoanh nuôi. Bên cạnh đó việc nuôi cấy nhân giống thuỷ sản cũng
được tiến hành song song với quá trình nuôi.
Các hoạt động dịch vụ liên quan đến thuỷ sản như:
Dịch vụ mua, vận chuyển sản phẩm, cung ứng các loại vật tư cho công việc
đánh bắt thuỷ sản trên biển, các tàu thường làm công việc đánh bắt đồng thời
chuyên làm dịch vụ hỗ trợ đánh bắt thuỷ sản.
Dịch vụ cung ứng con giống, thức ăn, vật tư kỹ thuật
1.2 Đặc điểm của ngành Thuỷ sản
Thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực khai thác,
nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại; là một trong những ngành
kinh tế quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thuỷ sản dựa trên khai thác có
hiểu quả, lâu bền nguồn lợi thuỷ sinh, tiềm năng các vùng nước. Do vậy có mối liên
hệ ngành với sản xuất nông nghiệp, vận tải, du lịch, công nghiệp chế biến.
Ngành thuỷ sản được xác định giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh

tế xã hội của Việt Nam. Nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài
nguyên có thể tái sinh quan trọng của đất nước, những tài nguyên với tiểm năng có
thể đống góp lớn cho các mục tiêu lớn về tài chính , về công ăn việc làm và về dinh
dưỡng. Xét một cách tổng thể thì ngành thuỷ sản có những đặc điểm sau:
 Ngành thuỷ sản là ngành vừa mang tính nông nghiệp, công nghiệp, thương
mại lại vừa chịu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên.
 Ngành thuỷ sản là ngành có năng suất và hiểu quả lao động tự nhiên cao,
có tác dụng tái sản xuất mở rộng. Có nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất
đa dạng.
 Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất có liên quan đến việc sử dụng diện tích
mặt nước cũng như khai thác các sản phẩm có liên quan đến mặt nước. Các sản
Trịnh An Huy 13 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
phẩm thuỷ sản có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, được nhiều người nhiều nơi
trong và ngoài nước ưa chuộng
 Ngành thuỷ sản có khả năng thu hồi vốn nhanh có thể thu hoạch được sản
phẩm và tiêu thụ trong thời gian ngắn
 Ngành thuỷ sản là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng
lớn, tạo khả năng khai thác với quy mô lớn và con người có thể tái tạo nguồn tài
nguyên này.
1.3 Vai trò của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế
Nước ta có ưu thế về biển, cuộc sống xã hội gắn chặt với sông nước. Vì vậy
thuỷ sản nói chung, nghề cá nói riêng của nước ta là một ngành có truyền thống lâu
đời. Đó là ngành cung cấp chất dinh dưỡng và tạo mức an toàn thực phẩm cho con
người. Các sản phẩm của thuỷ sản là những yếu tố quan trọng đối với sự an toàn về
lương thực, thực phẩm cho nhân dân.
Trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, từ chỗ là một bộ phận có tỷ
trọng không lớn trong ngành nông nghiệp những năm của thập kỷ 80. Thuỷ sản đã
trở thành một ngành kinh tế quan trọng có tốc độ và quy mô phát triển ngày càng
cao. Xuất khẩu ngành thuỷ sản đã đóng góp vai trò đòn bẩy, tạo nên động lực phát

triển mạnh mẽ nền kinh tế nước ta. Từ giai đoạn 2000 đến nay cùng với dầu thô,
gạo, dệt may, giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản luôn chiếm tỷ trọng cao. Hiện
nay ngành thuỷ sản đã vươn lên đứng thứ 19 về tổng sản lượng, thứ 3 về kim ngạch
xuất khẩu (sau dầu thô và giày da), thứ 5 về sản lượng nuôi tôm trên thế giới.
Vai trò của ngành thuỷ sản được khẳng định trong nghị quyết của chính phủ
(ngày15/6/2000) “ Một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” đó là: “Thuỷ sản là ngành sản xuất sản phẩm đạm
động vật có nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường trong nước và xuất khẩu lớn, có
khả năng trở thành ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt
Nam. Sản lượng thuỷ sản đạt 3 triệu đến 3,5 triệu tấn/năm, đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước, nâng kim ngạch xuất khẩu vươn lên hàng đầu trong khu vực
Châu Á”. Như vậy vai trò của ngành thuỷ sản đối với nền kinh tế có thể hiện dưới
những góc độ sau
Trịnh An Huy 14 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp

Ngành thuỷ sản góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng
ngày càng hợp lý và hiểu quả hơn.
Khi hoạt kinh tế chưa phát triển thì hoạt động đánh bắt thuỷ sản được xem như
là hoạt động chính của ngành thuỷ sản và được gắn liền với sản xuất nông nghiệp.
Sau đó khi mà hoạt động kinh tế đã phát triển thì nhu cầu cuộc sống tăng lên, khoa
học kỹ thuật tiến bộ. Ngư dân đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào nuôi trồng-khai thác
thuỷ sản, từ đó ngành thuỷ sản từng bước phát triển mạnh.
Với đặc điểm đa dạng của ngành thuỷ sản như: nuôi trồng, khai thác, chế biến,
cơ khí tàu thuyền khai thác đã thu hút được nhiều lao động tham gia. Đặc biệt là
các vùng nông thôn ven biển nghề chính là nghề nông thì một bộ phận nông dân
không nhỏ đã chuyển sang tham gia vào quá trình sản xuất thuỷ sản. Như vậy phát
triển thuỷ sản sẽ tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động nhàn rỗi không có việc
làm ở nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn ở nước ta theo hướng hợp lý và hiểu quả hơn.


Ngành thuỷ sản sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu có giá trị, mang lại
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Bảng 1: Xuất khẩu thủy sản qua một số năm
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Kim ngạch xuất
khẩu (tỷ USD)
2,240 2,023 2,397 2,728 3,206 3,752
Nguồn Trung tâm tin học thủy sản:
Trong những năm qua, sản phẩm ngành thuỷ sản đang dần chiếm tỷ trọng lớn
trong hàng xuất khẩu Việt Nam. Các doanh nghiệp thuộc ngành đã được chính phủ
cho phép tự do hoá xuất khẩu thuỷ sản, điều này dẫn đến các doanh nghiệp chủ
động tìm kiếm thị trường xuất khẩu nên tổng sản lượng xuất khẩu trong những năm
qua không ngừng tăng lên qua bảng trên năm 2002 kim ngạch xuất khẩu 2240 triệu
USD thì đến năm 2007 đạt 3752 triệu USD. Xuất khẩu thuỷ sản dần trở thành bộ
phận quan trọng trong xuất khẩu Việt Nam, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-
HĐH đất nước có hiệu quả vững chắc.
Trịnh An Huy 15 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp

Ngành thuỷ sản cung cấp các yếu tố đầu vào cho ngành công nghiệp
Với đặc thù sản phẩm của ngành thủy sản sẽ chóng phân huỷ sau khi khai
thác, vì vậy sản phẩm thuỷ sản rất cần được bảo quản tốt và chế biến kịp thời thì
mới đảm đựơc chất lượng và sản lượng. Do đó ngành công nghiệp chế biến đối với
ngành thuỷ sản rất quan trọng và có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau.
Ngành thuỷ sản cung cấp các sản phẩm như cá, tôm, cua, rong vừa có thể
tiêu dùng trực tiếp, vừa là nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến thuỷ sản
với mục đích đa dạng các sản phẩm từ chế biến thuỷ sản như: nước mắm, đồ hộp
Khai thác ngành chế biến thuỷ sản sử dụng tối đa sản lượng đánh bắt và nuôi
trồng vào sản xuất thực phẩm và hàng xuất khẩu, thuận tiện trong lưu thông và đáp

ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Với chính sách mở cửa, cho phép các thành phần kinh tế cùng tham gia tự do
sản xuất kinh doanh chế biến thuỷ sản đã tạo ra thế mạnh tận dụng công nghệ
truyền thống, phân bố chế biến bám sát với cơ sở sản xuất, nhất là nơi sản xuất có
quy mô nhỏ nằm rải rác trong cả nước. Sản phẩm tạo ra sẽ được lưu thông tự do
trên thị trường trong và ngoài nước với chủng loại đa dạng và phong phú.

Ngành thuỷ sản sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho con người
Thực phẩm từ thuỷ sản chứa rất nhiều đạm cần thiết cho cơ thể con người.
Theo thống kê lượng đạm từ thuỷ sản là 30% trong tổng chất dinh dưỡng từ sản
phẩm thuỷ sản. Trong những năm qua đa phần sản phẩm thuỷ sản được tiêu thụ ở
dạng tươi sống trong thị trường nội địa, một năm trung bình lượng sản phẩm tiêu
thụ từ thuỷ sản là 11,5 kg/người dân Việt Nam. Nếu so sánh con số này với các
nước trong khu vực thì nước ta còn thấp (Thái Lan 17 kg/người, Malaysia 15,6
kg/người, Indonesia 14,8 kg/ người)
Quá trình cung cấp và tiêu thụ thuỷ sản giữa các vùng ở nước ta còn có sự
chênh lệch ở vùng ven biển có tỷ lệ cao, còn ở các vùng núi thì tỷ lệ này còn thấp.
Dự kiến dân số nước ta sẽ tăng thêm 1,2 triệu người vào năm 2010 do đó việc cung
cấp thực phẩm từ thuỷ sản cho người dân sẽ phải tăng đến 15 kg/người trong một
năm, đòi hỏi ngành thuỷ sản ngày càng có vai trò quan trọng trong vấn đề an toàn
lương thực cho người dân.
Trịnh An Huy 16 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Bên cạnh đó xu hướng tiêu dùng thuỷ sản trên thế giới ngày càng tăng, một
mặt là do lượng đạm trong thuỷ sản cung cấp là khá lớn, với tình hình thực phẩm
thức ăn chế biến từ gia cầm ngày có nguy cơ mang bệnh cao, nên xu hướng người
tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ các sản phẩm từ thuỷ sản là điều tất yếu.
2. Đặc điểm đầu tư phát triển trong nuôi trồng thuỷ sản
Thuỷ sản là một nghề phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và có tính mùa vụ, vì
vậy hoạt động đầu tư phát triển trong ngành thuỷ sản nói chung và nuôi trồng thuỷ

sản nói riêng có đặc điểm khác biệt các hoạt động đầu tư các ngành khác.
Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản có liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo vệ,
tái tạo nguồn lợi thuỷ sản bảo vệ môi trường, phát triển xuất khẩu. Vì thế quá trình
đầu tư phát triển rất phức tạp, cần phải tổ chức và cơ chế quản lý đồng bộ, hoàn
chỉnh giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Hoạt động đầu tư nuôi trồng thuỷ sản rộng khắp trên các vùng địa lý, tính chất
sản xuất phức tạp đa dạng do quy luật phát triển từng khu hệ động thực vật. Mặt
khác nuôi trồng thuỷ sản khó quan sát vật nuôi một cách thường xuyên, rủi ro lớn,
cho nên hoạt động đầu tư phát triển thuỷ sản đảm bảo được những yêu cầu:
Đầu tư phát triển trong nuôi trồng thuỷ sản phải đi đôi với bảo vệ và tái tạo
nguồn thuỷ sản, bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái.
Hoạt động đầu tư phát triển phải lấy hiểu quả kinh doanh làm động lực trực
tiếp và lấy hiểu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản. Kết hợp công nghệ truyền thống
với công nghệ hiện đại. Tập trung vào vấn đề chất lượng sản phẩm để đẩy mạnh
xuất khẩu góp phần thực hiện chiến lược xuất khẩu trong phạm vi cả nước.
Trong đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, quá trình tác động nhân tạo xen kẽ quá trình
tác động tự nhiên, tức là thời gian lao động không ăn khớp với thời gian sản xuất.
Ví dụ một quy trình nuôi:
Trịnh An Huy 17 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chăm sóc
Thả con giống
Thu hoạch
Cải tạo ao, đầm, ruộng
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong một quy trình nuôi như vậy, có những giai đoạn không có tác dụng của
quy luật tự nhiên. Từ đó sinh ra tính chất mùa vụ trong nuôi trồng thuỷ sản gây ra
nhiều phức tạp cho sản xuất, đặc biệt là điều kiện tự nhiên nước ta những năm gần
đây thiên tai, bão lụt thường xẩy ra ở nhiều nơi. Do đó hoạt động đầu tư phát triển
cần tính đến những yếu tố này để tránh những rủi ro thiệt hại có thể xẩy ra.
Quá trình sản xuất thuỷ sản phải tiếp xúc với cơ thể sống thuỷ sinh có đặc tính

sinh lý, sinh thái, quy luật phát triển và sinh trưởng riêng của từng loài khác nhau
nên cần phải đầu tư vào nghiên cứu quy trình nuôi phù hợp với từng loài
Trong quá trình sản xuất thuỷ sản, chất lượng và số lượng sản phẩm thuỷ sản
dễ bị thất thoát sau thu hoạch. Theo đánh giá của FAO tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch
luôn ở mức trên 20%, tập trung ở khâu xử lý, bảo quản, sơ chế, vận chuyển, bốc dỡ
và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy hoạt động đầu tư cần chú trọng làm thế nào để giảm
đến mức tối thiểu tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch.
Một số đối tượng nuôi trồng được giữ lại làm con giống cho quá trình sản xuất
sau. Đặc điểm này đòi hỏi phải có sự đầu tư vào quá trình chăm sóc, lựa chọn giống
riêng biệt và quan tâm đầu tư vào hệ thống sản xuất giống quốc gia nên số vốn chi
cho đầu tư vào lĩnh vực này khá lớn, đòi hỏi các chủ đầu tư phải phân tích, tính toán
lựa chọn phương án đầu tư một cách thích hợp nhất, có hiểu quả cao phù hợp với
năng lực sản xuất, tổ chức quản lý của mình.
* Mặt khác sản xuất kinh doanh thủy sản đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, độ rủi ro cao.
Hầu hết các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy sản đều đòi hỏi đầu
tư ban đầu tương đối lớn. Trong hoạt động nuôi trồng, nếu không kể những hoạt
động nuôi cá trong ao hồ có sẵn, nuôi cá ruộng, nuôi lồng ở suối thì hầu hết các hoạt
động đầu tư nuôi thủy sản đều cần vốn như: đào ao thả cá trên đất canh tác hiệu quả
thấp được chuyển đổi mục đích lớn như: đào ao thả cá trên đất canh tác hiệu quả
thấp được chuyển đổi mục đích sử dụng; đầu tư cải tạo đầm nuôi thủy sản ở ven
biển, cửa sông v.v… Trong hoạt động đánh bắt xa bờ đòi hỏi vốn đầu tư cải tạo đầm
nuôi thủy sản ở ven biển, cửa sông v.v… Trong hoạt động đánh bắt, nhất là bắt xa
bờ đòi hỏi vốn đầu tư đóng mới tàu thuyền lên tới hàng tỷ đồng. Nhu cầu đầu tư vốn
Trịnh An Huy 18 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
ban đầu tương đối lớn cho phát triển của các hoạt động kinh tế như trên là vượt quá
khả năng tự tích lũy và đầu tư của từng chủ thể kinh tế trong ngành thủy sản, đặc
biệt là khả năng của các hộ. Do vậy, để phát triển thủy sản, Nhà nước phải xây dựng
và thực hiện chính sách cho vay vốn theo các chương trình phát triển riêng của
ngành này như: cho vay trong chương trình khai thác xa bờ, tín dụng đầu tư xây

dựng các cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá theo quy hoạch v.v…
Sản xuất nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên nhất là điều kiện thủy văn, bão, lũ. Đối với những nước như nước ta có bờ
biển dài, diễn biến bão lũ phức tạp, nhiều trận bão lũ lớn đã gây thiệt hại nặng cho
nghề nuôi trồng thủy sản của cả một vùng hay một địa phương. Trong nhiều trường
hợp, thiên tai có thể gây thiệt hại cả đến tính mạng của ngư dân, nhất là ngư dân
làm nghề đánh bắt ngoài khơi. Để hạn chế tối đa những hậu quả có thể gây ra do
thiên tai và khắc phục hậu quả thiên tai nhằm nhanh chóng phục hồi sản xuất, cần
chú ý những vấn đề chủ yếu là:
- Cần đầu tư các phương tiện thực hiện dự báo khí tượng thủy văn phát hiện và
cảnh báo sớm các thiên tai như bão biển, lũ lụt… cho ngư dân. Xây dựng các vùng
tránh bảo cho tầu thuyền đánh cá, xây dựng lực lượng cứu hộ, cứu nạn chuyên
nghiệp để bảo vệ tài sản và tính mạng của ngư dân.
- Ban hành và thực thi những chính sách ưu đãi cho các vùng, các hoạt động
kinh doanh nuôi trồng, khai thác hay chế biến của các chủ thể kinh doanh để khắc
phục rủi ro hay thiên tai nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó hoạt động đầu tư phải đảm bảo những nguyên tắc của phát triển
bền vững nuôi trồng thuỷ sản, nghĩa là khai thác phải luôn gắn với quản lý, duy trì
cơ sở nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ sinh thái. Đảm bảo sự công bằng trong một thế hệ,
đáp ứng các nhu cầu của con người trong thế hệ hiện tại và mai sau.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn phụ thuộc vào những yếu tố hết sức biến động
như thu nhập do hoạt động đầu tư mang lại, lãi vay ngân hàng, thuế, môi trường.
Trịnh An Huy 19 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN
Ở VIỆT NAM
I. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG
THUỶ SẢN Ở NƯỚC TA VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ
1. Các nhân tố ảnh hưởng đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản

1.1. Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý nước ta
Đất nước ta trải dài trải dài theo chiều dọc trên 13 vĩ độ Bắc kề sát biển Đông
(bờ biển Móng Cái-Quảng Ninh) tới Hà Tiên-Kiên Giang với 3260 km bờ biển, 112
cửa sông lạch. Bờ biển nước ta bao gồm nội hải, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền,
vùng tiếp giáp và thềm lục địa , hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Với vùng biển rộng lớn, có nhiều con sông lớn nhỏ đã tạo nên những vùng sinh
thái khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thuỷ sản ở nước ta. Theo thống
kê của bộ thuỷ sản diện tích nuôi trồng các loại mặt nước đến năm 2006 như sau:
Bảng 2: Diện tích các loại hình mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 2000_2006
Nghìn ha
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Sơ bộ
2006
TỔNG SỐ 641,9 755,2 797,7 867,6 920,1 952,6 984,4
Diện tích nước mặn, lợ 397,1 502,2 556,1 612,8 642,3 661,0 679,2
Nuôi cá 50,0 24,7 14,3 13,1 11,2 10,1 16,6
Nuôi tôm 324,1 454,9 509,6 574,9 598,0 528,3 530,9
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác 22,5 22,4 31,9 24,5 32,7 122,2 131,4
Ươm, nuôi giống thuỷ sản 0,5 0,2 0,3 0,3 0,4 0,4 0,3
Diện tích nước ngọt 244,8 253,0 241,6 254,8 277,8 291,6 305,2
Nuôi cá 225,4 228,9 232,3 245,9 267,4 281,7 294,8
Nuôi tôm 16,4 21,8 6,6 5,5 6,4 4,9 5,5
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác 2,2 0,5 0,4 1,0 1,1 1,6 1,5
Ươm, nuôi giống thuỷ sản 0,8 1,8 2,3 2,4 2,9 3,5 3,4

Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 3: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2006 phân theo vùng sinh thái
Trịnh An Huy 20 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A

Chuyên đề tốt nghiệp
Vùng sinh thái
Diện tích
tiềm
năng(ha)
Diện tích có
khả năng
nuôi
(ha)
Diện tích đã nuôi
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ sử dụng so
với tiềm năng(%)
Trung du Miền núi 140624 136380 71653 51
Đồng bằng sông Hồng 183714 121286 71092 39
Ven biển miền Trung 193430 110234 54560 28
Tây nguyên 85000 38000 9612 11
Đông nam bộ 133000 73730 45600 34
Đồng bằng sông Cửu Long 964410 552000 373813 39
Tổng số 1700178 1031630 626330 37
Nguồn: Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ1999-2010
Nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua đã phát triển ở cả loại hình mặt nước: lợ,
mặn, ngọt đang mở rộng vươn ra biển, với tốc độ nhanh bình quân tăng 4% đến
5%/năm. Theo số liệu thống kê năm 2006, diện tích các loại mặt nước đã sử dụng
chiếm 37% diện tích tiềm năng. Trong đó mặt nước ao, hồ nhỏ đã sử dụng quá
ngưỡng an toàn sinh thái, riêng phần sử dụng nuôi trên ruộng trũng và mặt nước lớn
có thể phát triển thêm vì hiện nay chỉ mới sử dụng được 27% diện tích tiềm năng.
Diện tích sử dụng mặt nước vùng triều tính đến năm 2006 sử dụng 44% so với diện
tích tiềm năng, tại một số địa phương tỷ lệ này còn cao hơn và đang có xu hướng

gia tăng. Việc phát triển nuôi trồng ở các vùng triều hiểu quả còn chưa cao.
Dưới góc độ vùng sinh thái, ta thấy vùng Trung du miền núi có diện tích tiềm
năng so với tiềm năng khá lớn (39%), nhưng xét về số tuyệt đối thì đồng bằng sông
Cửu Long có diện tích nuôi trồng thuỷ sản lớn hơn cả, đem lại sản lượng chủ yếu
cho ngành thuỷ sản nước ta
Bên cạnh đó nước ta có 3260 km bờ biển với nồng độ muối mặn rất thích hợp
để phát triển ngành thuỷ sản với nhiều hải sản quý, ở bán đảo Cà Mau Việt Nam
được đánh giá là vùng nuôi tôm sinh thái lớn nhất thế giới. Dự kiến diện tích nước
lợ có thể đưa vào nuôi tôm có thể đạt trên 500.000 ha trong đó có trên 100.000 ha
có thể nuôi công nghiệp.

Khí hậu, thuỷ văn:
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới Đông nam á, kéo dài từ khoảng 15 vĩ độ
Trịnh An Huy 21 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
từ 8
0
30’ đến 23
0
22’. Nên khí hậu chịu ảnh hưởng của cả đại dương (Thái Bình
Dương) và lục địa do đó biểu hiện đặc trưng khí hâu là nhiệt đới gió mùa.Cùng với
sự chi phối của chế độ nhiệt đới gió mùa, chế độ mưa nhiệt đới đã ảnh hưởng đến
các vùng trong cả nước tạo nên nét đặc trưng khí hậu ở mỗi vùng. Nét đặc trưng
này đã tạo ra sự đa dạng các loài thuỷ sản và các loại hình.
Miền Bắc: nhiệt độ trung bình từ 22.3
0
c đến 23.6
0
, lượng mưa trung bình 1500
đến 2400 mm, tổng số giờ nắng 1650->1750 giờ/mỗi năm. Vùng biển miền bắc

thuộc khu vực nhật triều với biên độ tư 3,2-3,6m thích hợp cho nuôi trồng thuỷ sản.
Miền Trung: Nhiệt dộ trung bình từ 22.5
0
c đến 27.5
0
nên mưa tập trung vào
cuối năm thường vào tháng 9->11. Nắng nhiều 2300-3000 giờ/năm. Chế dộ thuỷ
triều gồm nhật triều và bán loại nhật triều. Khu vực miền trung có nhiều đầm phá
thích hợp cho việc nuôi trồng thuỷ sản ở các loại hình: mặn, lợ, ngọt.Tuy nhiên
miền trung là nơi xảy ra nhiều bão, lũ lụt và hạn hán, nên gây nhiều khó khăn cho
công việc khai thác hải sản biển
Miền nam: Khí hậu ở đây mang tính xích đạo, nhiệt độ trung bình tư 22,7
0
c
đến 28,7
0
c mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, vùng có chế độ bán nhật triều
biên độ từ 2,5->3m. Do đó với đặc điểm khí hậu vùng thì sẽ tạo điều kiện cho mô
hinh nuôi tôm, cá ở lồng bè có giá trị kinh tế cao.
Bên cạnh đó Việt Nam có trên 50 con sông lớn nhỏ trong cả nước với lưu
lượng chảy ra biển 700-800 tỷ m
3
trong đó phần lớn dòng chảy là của sông Hồng và
sông Cửu Long. Với điều kiện tự nhiên của nước ta rất thuận lợi cho đầu tư phát
triển thuỷ sản

Nguồn giống loài thuỷ sản
Đất nước ta có các loài sinh vật rất đa dạng và phong phú bao gồm:
Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: theo thống kê hiện nay có 185 loài chủ yếu. Một
số loài có giá trị kinh tế cao như: cá song, cá hồng, cá giò, cá bớp, cá tra, cá

basa đã được đưa vào nuôi trồng.
Nguồn lợi cá nước ngọt: Hiện nay nước ta có trên 544 loài trong 18 bộ, 57 họ,
228 giống. Với sự đa dạng về giống phong phú về chủng loại, được đánh giá có giá
Trịnh An Huy 22 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
trị kinh tế cao
Nguồn lợi tôm: Thống kê có 16 loài chủ yếu là tôm sú, tôm cang xanh, tôm he,
tôm hùm
Nguồn lợi nhuyễn thể: chúng ta có một số loại có giá trị kinh tế như: tray, hầu,
ngao, ốc đang tiến hành nuôi trồng
Như vậy nguồn lợi thuỷ sản nước ta rất phong phú và có giá trị, tuy nhiên
lượng phân bố không đều nằm rải rác và phân tán . Đặc điểm chung là biến động
theo mùa nên cần có quy hoạch đầu tư, thiết kế các vùng nuôi trồng thuỷ sản một
cách hợp lý hơn trong thời gian tới
1.2 Điều kiện kinh tế xã hội


Lao động
Dân số nước ta đông trên 80 triệu dân với phần lớn là lao động nông nghiệp,
nhân dân ta có truyền thống lao động cần cù sáng tạo có khả năng tiếp thu nhanh
những cái mới nói chung và khoa học kỹ thuật nói riêng. Giá cả sức lao động ở
nước ta tương đối rẻ so với các nước trong khu vực . Tuy nhiên lao động trong lĩnh
vực thuỷ sản chủ yếu là lao động giản đơn, trình độ văn hoá thấp, hầu hết chưa
được qua trường lớp đào tạo nào.
Bên cạnh đó lao động kỹ thuật: toàn ngành hiện mới chỉ có hơn 90 tiến sỹ,
4.200 kỹ sư, 5.000 trung cấp và 14.000 cán bộ kỹ thuật chuyên ngành. Thêm vào đó
là một bộ phận ngư dân hiện nay do thiếu vốn để đầu tư đánh bắt thuỷ sản xa bờ nên
đã chuyển sang đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. trong nhiều năm qua ngư dân đã tích luỹ
nhiều kỹ thuật trong nuôi trồng thuỷ sản, góp phần nâng cao hiểu quả sản xuất và
thực hiện thắng lợi chương trình nuôi trồng phát triển thuỷ sản.


Khoa học công nghệ
Theo chủ trương chính sách của Đảng, tại văn kiện đại hội đại biểu toàn quôc
Đảng lần thứ IX,về định hướng khoa học công nghệ trong thời kỳ CNH-HĐH, hoạt
động công nghệ ngày càng quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản
Từ năm 2000 đến nay các cơ quan khoa học thuộc bộ thuỷ sản đã triển khai 5
Trịnh An Huy 23 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
đề tài độc lập cấp nhà nước, đó là: chọn giống chất lượng cao, bệnh tôm, sản xuất
cua biển, nghiên cứu nguồn lợi sinh vật biển quần đao Trường Sa, lưu giữ nguồn
gen giống thuỷ sản nước ngọt. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế các Viện và trung tâm
đã xây dựng xong 18 dự án đề tài khoa học.
Như vậy vai trò khoa học trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản là rất to lớn trong
sự phát triển của ngành, các ứng dụng khoa học vào sản xuất ngày càng nhiều và đã
đạt những thành tựu tốt.

Chính sách của nhà nước:
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Sự
quan tâm này được thể hiện qua những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất.
Ngày 11/1/2006 Thủ tướng Chính phủ đã Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển ngành thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với những chính
sách về: Sử dụng đất, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản,Chính sách đầu tư, chính sách
thuế. Hướng chỉ đạo phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững
gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, nuôi trông thuỷ sản cần từng bước hiện đại
hoá, hướng mạnh vào phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ và nuôi biển đồng thời
phát triển nuôi trồng nước ngọt, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu
và chú trọng nuôi trồng thuỷ sản khác.
Việt Nam có lợi thế so sánh trong việc đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, nếu được đầu tư đúng mức cho thuỷ
sản thì ngành thuỷ sản có thể là một trong ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

2. Sự cần thiết phải đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
Qua việc phân tích những điều kiện về tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội và vai
trò của ngành thuỷ sản, có thể cho chúng ta thấy được sự cần thiết của việc phát
triển tăng cường đầu tư phát triển vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản nhằm tận dụng
được các nguồn lực, phát huy khả năng vốn có và lợi thế so sánh của ngành thuỷ
sản nước ta. Sự cần thiết đó được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, Tận dụng tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản, giảm áp lực khai thác hải
sản
Trịnh An Huy 24 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngành thuỷ sản nước ta nhìn chung đã khai thác tới trần thậm chí có một số
vùng đã khai thác quá giới hạn cho phép. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến vấn đề
bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học trong nghề cá. Tại hội nghị
Kyoto_1992 về “ Sự đóng góp bền vững của nghề cá vào sản xuất thực phẩm”, hội
nghị các bộ trưởng thuỷ sản ở Roma_1999 đã nhấn mạnh: Đầu tư nuôi trồng khai
thác thuỷ sản là phương hướng bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học
trong nghề cá, là vấn đề đang được sự quan tâm của các quốc gia và các tổ chức bảo
vệ môi trường. Hiệu quả và tính bền vững của nuôi trồng thuỷ sản luôn đi liền với
việc ngăn chặn và bảo vệ các nguồn lợi tự nhiên bị khai thác cạn kiệt.
Thứ hai, nuôi trồng thuỷ sản đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng thực phẩm
cho tiêu dùng, hàng hoá xuất khẩu và nguyên liệu chế biến xuất khẩu
Thực tế mức tiêu dùng của nước ta đối với các loại thuỷ sản ước tính chiếm
50% về tiêu dùng thực phẩm chứa Protein, riêng cá cung cấp khoảng 8
kg/người/năm trong đó cá nuôi chiếm 30%. Những năm tới xu thế đời sống nhân
dân ngày một nâng cao thì nhu cầu về tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản sẽ tăng.
Điều đáng quan tâm là ngày nay nhân dân có xu thế sử dụng thực phẩm có
hàm lượng chất béo ít hơn. Do đó cá và các sản phẩm thuỷ sản sẽ chiếm phần quan
trọng, nhất là sản phẩm hải sản tươi sống, cung cấp tại chỗ rất được ưu chuộng.
Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của ngành thuỷ sản, đến năm 2010 tổng
sản lượng thuỷ sản đạt trên 3,5 triệu tấn/ năm, trong đó ưu tiên cho xuất khẩu

khoảng 40%. Theo số liệu của FAO sản phẩm thuỷ sản dành cho chăn nuôi 30% số
còn lại sẽ dành cung cấp thực phẩm cho con người, ước tính của FAO hiện nay bình
quân trên thế giới 13,4 kg/người, ở các nước phát triển là 27 kg/người thì ở nước ta
chưa đáp ứng được. Vì vậy đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản để cung ứng số
lượng thiếu hụt đó.
Bên cạnh đó sản phẩm xuất khẩu của ngành thuỷ sản của Việt Nam ngày càng
được ưu chuộng ở nhiều nước trên thế giới và khu vực. Năm 2003 nước ta đã xuất
khẩu sang trên 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đến 20037 đã xuất khẩu đến
trên 130 nước và vùng lãnh thổ. Điều đáng quan tâm là trong hàng xuất khẩu thuỷ
Trịnh An Huy 25 Lớp: Kinh tế NN&PTNT 46A

×