Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Khảo sát tình hình ô nhiễm nguồn nước, xác định một số chỉ tiêu trong nước thải của quá trình sản xuất công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 52 trang )

T
RƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CÔNG NGHỆ HOÁ HỌC

BÀI TIỂU LUẬN
+ −
→ ↓
2
2
Hg + 2Cl HgCl

I
− − +
+ + → + +
2+
4 2 2
10I 2MnO 16H 2Mn 5I 8H O
− − −
+ → +
2 2
2 2 3 4 6
I 2S O 2I S O

Cl

Cl
− − +
+ + → + +
2+
4 2 2
10Cl 2MnO 16H 2Mn 5Cl 8H O


2 2+ 3+
4 2
5Fe MnO 8H Mn 5Fe 4H O
+ − +
+ + → + +

Cl
2 + +
+ + + +
− −

3
2 7 2 2
6Cl Cr O 14H 3Cl 2Cr 7H O

Cl
2+
2
+Hg Cl HgCl

→ ↓
2
2
Mn 2OH Mn(OH)
+ −
+ → ↓
→
2 2 2 2
Mn(OH) +O MnO +2H O
− +

+ → + +
+ 2
2 2 2
MnO 2I +4H I Mn 2H O
2 - 2
2 2 3 4 6
I 2S O 2I S O
− −
+ → +
3 2
2
2Fe 2I I 2Fe
+ − +
+ → +
3
3 4 3 4 2
Fe 2H PO H [Fe(PO ) ] 3H
+ +
+  → +

3
NO
2
NO

− − +
→ ↑
3 2 2
2NO + 6I + 8H 3I + 2NO + 4H O
− −

→ ↑
+
2 2 2
1
2NO +I + 4H 2NO + I + 2H O
2
+ → ↑
2 2
1
NO O NO
2
2 2 2
NO 2I 2H NO + I H O
− +
+ + → ↑ ↑ +
2 3 2 2 2
NO N 2H N O N H O
− − +
+ + → ↑ + ↑ +
− − +
+ + → ↑ +
3 3 2 2
NO 5N 6H 8N 3H O

2
2 3
S O

2
2 3

S O
m do
C = C .F
≥≥
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC
ĐỀ TÀI:
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC, XÁC ĐỊNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU
TRONG NƯỚC THẢI CỦA QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Sinh viên: Đoàn Thành Trung Kiên
MS: 08275371
Lớp: ĐHPT2TLT
GVHD: Ts. Nguyễn Văn Vinh
Tp. Hồ Chí Minh năm 2010Mục lục
Trang
Mở đầu
1.Vai trò của nước sạch và tình trạng ô nhiễm nguồn nước 1
1.1.Vai trò của nước 1
1.2.Phân bố của nước trên trái đất 1
1.2.1.Nước ngọt trên bề mặt đất 1
1.2.2. Nước ngọt trong lòng đất 2
1.3.Phân loại nước 2
1.3.1.Nước thiên nhiên – nước sinh hoạt 2
1.3.2.Nước thải 3
1.4. Thành phần các chất trong nước 3
1.4.1. Độ cứng 4
1.4.2. Chlorua và sulfate 4
1.4.3. Các muối sắt 5
1.4.4. Các muối amonium 5
1.4.5. Khí ôxy 5

1.4.6. Phosphous 5
1.4.7. Độ kiềm 6
1.5. Các tác động gây ô nhiễm nguồn nước 6
1.5.1. Ảnh hưởng do hoạt động sống của con người 6
1.5.2. Ảnh hưởng do phát triển nông nghiệp 7
1.5.3. Ảnh hưởng do phát triển công nghiệp và dịch vụ 7
1.5.4. Ảnh hưởng do một số nguyên nhân khác 8
1.6. Tình trạng ô nhiễm môi trường 8
1.6.1. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại việt nam 8
1.6.2. Trên thế giới 13
1.7. Phân loại nước thải 15
1.7.1. Nước thải sinh hoạt 15
1.7.2. Nước mưa 16
1.7.3. Nước thải công nghiệp và nông nghiệp 17
2. Hậu quả của ô nhiếm nước 18
2.1. Ảnh hưởng đến môi trường 18
2.1.1. Nước và sinh vật 18
2.1.2. Đất và sinh vật 20
2.1.3. Không khí 21
2.2. Ảnh hưởng đến con người 21
2.2.1. Sức khoẻ con người 21
2.2.2. Ảnh hưởng đến đời sống 27
3. Các phương pháp xử lý nước thải 29
3.1. Phương pháp cơ học 29
3.1.1. Song chắn rác 29
3.1.2. Lắng cát 30
3.1.3. Lắng 30
3.1.4. Tuyển nổi 30
3.2. Phương pháp xử lý hoá học và hoá lý 31
3.2.1. Phương pháp trung hoà 31

3.2.2. Keo tụ - tạo bông 31
3.3. Phương pháp sinh học 32
3.3.1. Phương pháp sinh học kị khí 32
3.3.2. Phương pháp sinh học hiếu khí 33
4. Phân tích hàm lượng một số chỉ tiêu trong nước thải 34
4.1. Chỉ tiêu amonium 34
4.2. Chỉ tiêu chloride 35
4.3. Chỉ tiêu COD (chemical oxygen demand) 38
4.4. Chỉ tiêu BOD (biochemical oxygen demand) 41
4.5. Chỉ tiêu DO (disolved oxygen) 44
4.6. Chỉ tiêu phosphate và tổng phosphous 48
4.7 Xác định hàm lương asen 51
Kết luận …
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
Mở đầu
Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên qúy giá, là yếu tố không thể thiếu cho sự sống, ở
đâu có nước ở đó có sự sống. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của sự sống, quá trình đô thị hoá,
công nghiệp hoá, và thâm canh nông nghiệp ngày càng phát triển đã có nhiều ảnh hưởng xấu đến
nguồn tài nguyên này. Nhiều nơi nguồn nước bề mặt thậm chí cả nước ngầm đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng của nước và ảnh hưởng đến sức khoẻ của con
người và động vật làm giảm năng xuất và chất lượng cây trồng.
Hiện nay thế giới đang rung hồi chuông báo động về thực trạng ô nhiễm môi trường toàn
cầu. Môi trường đã trở thành vấn đề chung của toàn nhân loại và được toàn thế giới quan tâm,
cùng với sự nóng lên của trái đất gây hiệu ứng nhà kính và xuất hiện ngày một nhiều lỗ thủng
trên tầng Ozon bảo vệ trái đất khỏi các tia cực tím. Nằm trong khung cảnh chung đó của thế giới
môi trường Việt Nam chúng ta xuống cấp cục bộ do chúng ta đang trong thời kỳ phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và sự tăng mật độ dân số quá nhanh ở các khu đô thị.
Đi kèm với sự phát triển đó là vấn đề ô nhiễm môi trường do các nguồn rác thải, nước thải,
khí thải gây ra. Tất cả các nguồn thải nói trên đều chứa đựng trong nó biết bao nhiêu loại chất

độc hại. Các nguồn thải được đưa ra môi trường hầu hết đều chưa được xử lý hoặc mới xử lý sơ
bộ do vậy gây ra ô nhiễm môi trường đặc biệt là môi trường nước. Những nguồn nước thải, nước
thải từ các ngành công nghiệp mà trong đó có chứa rất nhiều chất độc hại từ đó đi vào cống,
rãnh, sông, hồ làm ô nhiễm các nguồn nước là chủ yếu. Những chất này đi vào cơ thể từ con
đường ăn uống, hô hấp chúng tích luỹ trong cơ thể con người và sinh vật gây ra những tác hại vô
cùng nguy hiểm. Vấn đề là làm thế nào để đánh giá mức độ ô nhiễm cũng như xác định hàm
lượng của các chất độc hại trong nước thải trước khi đưa vào môi trường. trước thực tế đó chúng
em xin chọn đề tài “Khảo sát tình hình ô nhiễm nguồn nước, xác định một số chỉ tiêu trong nước
thải của quá trình sản xuất công nghiệp”. Đề tài này xin đề cập đến vấn đề ô nhiễm nguồn nước
và các phương pháp xử lý cũng như các phương pháp xác định một số chỉ tiêu quan trọng trong
nước thải.

1. Vai trò của nước sạch và tình trạng ô nhiễm môi trường nước
1.1. Vai trò của nước
Nước là một nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú quanh ta, từ những
dòng chảy, sông hồ, nước ngầm đến đại dương mênh mông là nơi muôn loài thuỷ
sinh sinh sống, nước được sử dụng trong mọi mặt của đời sống con người và mọi
loài động thực vật trên trái đất. Tuy nhiên nguồn nước sạch quí giá đang bị khai
thác dần cạn kiệt, thiếu nước sạch không những ảnh hưởng đến đời sống con người
mà còn ảnh hưởng đến các loại sinh vật trên trái đất cũng như mọi hoạt động sản
xuất, sinh hoạt. Cuộc sống trên Trái Đất bắt nguồn từ trong nước. Tất cả các sự
sống trên Trái Đất đều phụ thuộc vào nước vào vòng tuần hoàn nước.
Nước có ảnh hưởng quyết định đến khí hậu và là nguyên nhân tạo ra thời tiết. Năng lượng
mặt trời sưởi ấm không đồng đều các đại dương đã tạo nên các dòng hải lưu trên toàn cầu. Dòng
hải lưu Gulf Stream vận chuyển nước ấm từ vùng Vịnh Mexico đến Bắc Đại Tây Dương làm ảnh
hưởng đến khí hậu của vài vùng châu Âu.
Nước là thành phần quan trọng của các tế bào sinh học và là môi trường của các quá trình
sinh hóa cơ bản như quang hợp.
Hơn 70% diện tích của Trái Đất được bao phủ bởi nước. Lượng nước trên Trái Đất có vào
khoảng 1,38 tỉ km³. Trong đó 97,4% là nước mặn trong các đại dương trên thế giới, phần còn lại,

2,6%, là nước ngọt, tồn tại chủ yếu dưới dạng băng tuyết đóng ở hai cực và trên các ngọn núi,
chỉ có 0,3% nước trên toàn thế giới (hay 3,6 triệu km³) là có thể sử dụng làm nước uống. Việc
cung cấp nước uống sẽ là một
trong những thử thách lớn nhất
của loài người trong vài thập niên
tới đây. Nguồn nước cũng đã là
nguyên nhân gây ra một trong
những cuộc chiến tranh ở Trung
Cận Đông.
Nước được sử dụng trong
công nghiệp từ lâu như là nguồn
nhiên liệu (cối xay nước, máy hơi
nước, nhà máy thủy điện), là chất
trao đổi nhiệt.
1.2. Phân bố của nước trên
Trái đất
Lượng nước tự nhiên có 97% là nước mặn phân bổ ở biển và đại dương,
3,5% còn lại phân bố ở đất liền. Tổng lượng nước lớn nhưng lượng nước ngọt chỉ
có thể sử dụng các nguồn sau
1.2.1.Nước ngọt trên bề mặt đất
− Lượng nước mưa rơi xuống mặt đất.
− Nước tồn tại trong các sông, rạch, ao, hồ.
− Một phần rất ít nước từ đầm lầy và băng tuyết.
Trang 6
Hình 1: Chu trình của nước trên trái đất
1.2.2.Nước ngọt trong lòng đất
Nước dưới đất có loại nước mặn, nước lợ và nước
ngọt, trong đó nước ngọt chỉ có lưu lượng nhất định.
Nước dưới đất được tàng trữ trong các lỗ hổng và khe
hở đất đá.

a. Tầng chứa nước
Các lớp đất đá có thành phần hạt thô (cát, sạn, sỏi), khe hở, nứt nẻ, có tính thấm nước, dẫn nước
tốt mà con người có thể khai thác nước phục vụ cho nhu cầu của mình gọi là các tầng chứa nước.
b. Tầng cách nước
Là tầng đất đá với thành phần hạt mịn
(sét, bột sét), có hệ số thấm nhỏ, khả năng cho
nước thấm xuyên qua yếu, khả năng khai thác
nước trong tầng này thấp.
1.3. Phân loại nước
Nước là nguồn tài nguyên quý, là yếu tố không thể thiếu cho mọi hoạt động sống trên trái
đất. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển của con người, đô thị hoá, công nghiệp hoá ngày
càng phát triển đã ảnh hưởng xấu đến nguồn tài nguyên này. Trước tình hình nguồn nước bị ô
nhiễm ngày càng nghiêm trọng, các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng đã tiến hành kiểm tra
nguồn nước để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện tình hình. Nước được phân loại như
sau:
1.3.1. Nước thiên nhiên – nước sinh hoạt
Nước thiên nhiên bao gồm các nguồn nước ở sông ngòi, ao hồ, suối, mạch ngầm, biển.
Nước thiên nhiên là một dị thể bao gồm các chất không tan có nguồn gốc vô cơ cũng như hữu
cơ. Các chất này được xâm nhập vào nguồn
nước từ đất, đá, động vật, thực vật cũng như con người… Theo nguồn phát sinh người ta chia
nước thiên thành các loại sau:
− Nước mưa: Thường được hoà tan 1
lượng khí CO
2
, N
2
, O
2
và một số khí khác.
Ngoài khí hoà tan trong nước mưa còn có

lẫn bụi bậm và vi trùng nên nước mưa
thuộc loại nước mềm, sạch mát khi mới
hứng.
Nước mạch, nước ngầm: Do nước thấm
trong lòng đất lâu đời tạo thành những
mạch nước chảy trong lòng đất vì được chắc
lọc qua nhiều tầng lớp nên nước mạch thuộc
loại nước mềm, trong mát, do đó được dùng
nhiều trong sinh hoạt.
− Nước ở trên bề mặt trái đất: Như ở
ao, hồ, sông, biển… Đặc điểm của nước này thường chứa nhiều tạp chất khác nhau, tùy vào từng
vùng, từng lãnh thổ…
Trang 7
Hình 2. Vòng tuần hoàn nước trong tự
nhiên
Hình 3. Nước sinh hoạt ở nông thôn bị ô
nhiễm
− Nước uống: nước uống chủ yếu là nước ngọt tự nhiên trong đó đã được quy định cụ thể
về các thành phần hóa học – vi sinh – các ion kim loại… sao cho phù hợp với quá trình trao đổi
chất của con người.
1.3.2. Nước thải
Nước thải là kết quả của sự nhiễm bẩn nước bề mặt của nước tự nhiên do các hoạt động
sinh hoạt, sản xuất của con người hay do quá trình phân huỷ của xác động, thực vật. Thành phần
nước thải phụ thuộc nhiều vào nguồn nhiễm bẩn khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp… và
các hoạt động sinh hoạt khác của con người.
Trong nước thải có rất nhiều chất khác nhau tuỳ thuộc vào từng vùng, từng khu sản
xuất… Nó có thể là những chất tan trong nước hay ở dạng huyền phù, nhũ tương cho đến các
loại vi khuẩn… Do tương tác hoá học giữa các chất làm cho pH của môi trường thay đổi, còn các
chất huyền phù, kết tủa làm ngăn cản sự phát triển của các loại vi sinh vật làm sạch nước, cản trở
sự phát triển của các loài động, thực vật ở trong nước cũng như ở các vùng xung quanh.

1.4. Thành phần các chất trong nước
Trong nước có rất nhiều thành phần khác nhau cùng tồn tại phụthuộc vào từng vùng, từng khu
công nghiệp cũng như các hoạt động sống của con người. Ví dụ: Ở vùng khai khoáng thì có
nhiều các kim loại, các acid vô cơ. Ở vùng sản xuất đồ gốm thì có
nhiều bari, cadimi, liti, mangan, selen… Còn vùng
sản xuất da thì có nhiều canxi,
hydrosunfua, natri sunfua, crom,
kẽm, niken…
1.4.1. Độ cứng (Các muối
Cacium và Magiesium)
Calcium và magiesium tồn tại
trong nước chủ yếu ở các dạng
bicarbonate (HCO
3
-
), Carbonate
(CO
3
2-
), Chloride (Cl
-
), Sulfate
(SO
4
2-
). Hai ion này biểu thị cho độ
cứng của nước. Tính cứng này thay
đổi tuỳ theo hàm lượng các muối calcium và magnesium có trong nước làm ảnh hưởng đến sinh
hoạt cũng như trong sản xuất. Có 2 cách để chia độ cứng:
−Cách 1: Chia độ cứng làm 2 loại là độ cứng carbonat và độ cứng không carbonat. Độ

cứng carbonat biểu thị lượng calcium và magiesium dưới dạng muối HCO
3
-
còn độ cứng không
carbonate biểu thị muối calcium và magiesium dưới dạng Cl
-
và SO
4
2-
.
−Cách 2: Chia độ cứng làm 3 loại là độ cứng tạm thời, độ cứng vĩnh cửu và độ cứng chung
hay được gọi là độ cứng toàn phần.
−Độ cứng tạm thời của nước biểu thị muối HCO
3
-
của calcium và magiesium bị phân huỷ
khi đun nóng.
Ca(HCO
3
)
2
= CaCO
3
+ CO
2
+ H
2
O
Mg(HCO
3

)
2
= MgCO
3
+ CO
2
+ H
2
O
2Mg(HCO
3
)
2
= (MgOH)
2
CO
3
+ 3CO
2
+ H
2
O
Trang 8
Hình 4. Một trạm xử lý nước thải
−Độ cứng vĩnh cửu là độ cứng còn lại sau khi đun ở 100oC biểu thị tổng lượng Ca
2+

Mg
2+
ở dạng muối clorua hoặc muối sunfat.

−Độ cứng chung là tổng của độ cứng tạm thời và độ cứng vĩnh cửu.
1.4.2. Clorua (Cl
-
) và sunphat (SO
4
2-
)
Cl
-
và SO
4
2-
hầu như có mặt trong các loại nước thiên nhiên. Nó không thể hiện tính cứng
cũng như không gây tác hại trong việc sử dụng. Tuy nhiên nếu các muối này quá cao thì gây ra
áp suất cao trong quá trình sử dụng nồi hơi vì nó là những hợp chất dễ tan trong nước. Mặt khác,
ảnh hưởng đến sinh hoạt của con người, đến sự sống của động – thực vật trong nước khi hàm
lượng quá cao.
1.4.3. Các muối Sắt (Fe
2+
, Fe
3+
)
Sắt thường tồn tại trong nước ở dạng muối Fe(HCO
3
)
2
. Khi tiếp xúc lâu với không khí,
muối sắt trên dễ bị oxy hoá thành muối sắt (III) và gây cặn Fe(OH)
3
làm cho nước đục.

1.4.4. Các muối Amonium (NH
4
+
)
Amonium (NH
4
+
) (thực ra không quá độc đối với cơ thể người (tiêu chuẩn là 3 mg/L).
Nhưng trong quá trình khai thác, xử lý và lưu trữ nước, nó chuyển hóa thành nitrite và nitrate.
Nitrite là chất độc rất có hại cho cơ thể. Khi người uống phải, nó sẽ chuyển hóa thành
nitrosamin, một chất có tiềm năng gây ung thư. Các nghiên cứu cho thấy, 1 g Amonium khi
chuyển hóa hết sẽ tạo thành 2.7 g nitrite và 3.65 g nitrate. Trong khi đó, hàm lượng cho phép của
nitrite là 0.1 mg/L và nitrate là 10 – 50 mg/L. Giới hạn cho phép của Amoniac không vượt quá
30 mg/L.
1.4.5. Khí Oxy
Khí O
2
có trong nước giúp ích cho các quá trình sinh hóa. Lượng oxy trong nước chủ yếu
là Oxy hòa tan (DO); nhu cầu Oxy hóa học (COD) và nhu cầu Oxy sinh học (BOD).
1.4.5.1. Lượng Oxy hòa tan (DO)
Lượng oxy hòa tan trong nước sẽ tham gia quá trình trao đổi chất, duy trì năng lượng cho
quá trình phát triển, sinh sản và tái sản xuất của sinh vật sống dưới nước. Về mặt hóa học, oxy
không tham gia phản ứng với nước mà độ hòa tan của oxy trong nước phụ thuộc vào áp suất và
nhiệt độ.
1.4.5.2. Nhu cầu oxy sinh học (BOD)
Là lượng oxy cần thiết để vi khuẩn sử dụng phân hủy chất hữu cơ dưới điều kiện hiếu
khí. Chỉ tiêu này để đánh giá khả năng tự làm sạch của nguồn nước. BOD càng cao chứng tỏ
mức độ ô nhiễm càng nặng.
1.4.5.3. Nhu cầu oxy hóa học (COD)
Là lượng oxy cần thiết để oxy hóa hết các hợp chất hữu cơ có trong nước. Nước nhiễm

bẩn sẽ có độ oxy hóa cao phải tốn nhiều hóa chất cho công tác khử trùng.
1.4.6. Phosphous
Hàm lượng phosphous trong nước tồn tại dạng PO
4
3-
, được sinh ra bởi phân, rác rưởi, các
hợp chất hữu cơ trong sinh hoạt và trong sản xuất thải ra. Phosphate làm hóa chất bón cây, chất
kích thích tăng trưởng, chất tạo bọt trong bột giặt, chất làm mềm nước, kích thích tăng trưởng
Trang 9
nhiều loại vi sinh vật, phiêu sinh vật, tảo… Phosphate gây nhiều tác động trong việc bảo vệ môi
trường.
1.4.7. Độ kiềm
Trong thiên nhiên độ kiềm thường gây ra do sự hiện diện của các muối acid yếu tồn tại
dưới dạng HCO
3
-
như: KHCO
3
, NaHCO
3
, Ca(HCO
3
)
2
. Trong một vài trường hợp độ kiềm thường
gây ra do ion OH
-
hay CO
3
2-

mất đi từ HCO
3
-
. Độ kièm được chia làm 3 loại:
− Độ kiềm OH
-
− Độ kiềm CO
3
2-
− Độ kiềm HCO
3
2-
1.5. Các tác động gây ô nhiễm nguồn nước
Ngày nay, nhu cầu phát triển kinh tế nhanh với mục tiêu lợi nhuận cao, con người đã lờ đi
các tác động ảnh hưởng đến các nhân tố tự nhiên và môi trường một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển và các nước nghèo đã làm cho môi trường nước bị
ô nhiễm ngày càng trầm trọng hơn. Sự gia tăng dân số quá nhanh là nguyên nhân chính gây áp
lực lên nguồn nước. Vì nhu cầu nước cho phát triển nông nghiệp để gia tăng lương thực thực
phẩm, phát triển công nghiệp để gia tăng hàng hóa và gia tăng thêm nhiều hình thức dịch vụ…
1.5.1. Ảnh hưởng do hoạt động sống của con người
Các dòng nước mặt (sông, kênh rạch…) đặc biệt là ở vùng đô thị đều bị ô nhiễm trầm trọng bởi
rác thải, nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư xả vào kênh rạch
chưa qua xử lý. Tình trạng lấn chiếm lòng, bờ sông kênh rạch
để sinh sống, xả rác và nước thải trực tiếp trên bề mặt gây ô
nhiễm nước mặt,cản trở lưu thông của dòng chảy, tắc nghẽn
cống rãnh tạo nước tù. Môi trường yếm khí gia tăng phân
hủy các hợp chất hữu cơ, không những gây mùi hôi thối, ô
nhiễm nguồn nước và môi trường mà còn gây khó khăn trong
việc lấy nguồn nước mặ để xử lý thành nguồn nước sạch cấp
cho nhu cầu xã hội.

Nhu cầu nước sử dụng cho ăn uống, sinh hoạt và các hoạt động khác của con người gia
tăng, dẫn đến tình trạng khai thác nước dưới đất tràn lan gây cạn kiệt nguồn nước và ảnh hưởng
đến môi trường như sụp lún, nhiễm
mặn…
Giữa nước mặn và nước nhạt có
một ranh giới, khi hoạt động khai thác
nước dưới đất quá mức đường ranh giới này sẽ tiến dần đến công trình khai thác, mực nước mặn
xâm nhập dần, đẩy lùi mực nước ngọt vào sâu và làm nhiễm mặn các công trình khai thác trong
khu vực.
1.5.2. Ảnh hưởng do phát triển nông nghiệp
Việc chăn nuôi gia súc gia cầm ở hộ gia đình vùng nông thôn còn chưa có ý thức tiết
kiệm nguồn nước trong việc vệ sinh, vệ sinh chuồng trại, chưa có hệ thống xử lý chất thải nước
thải, phần lớn cho vào ao hồ, bể tự hoại để thấm vào đất dễ gây ô nhiệm môi trường đặt biệt là
nguồn nước ngầm.
Trang 10
Hình 5. Một kênh nước bị ô nhiễm
Việc nuôi các bè cá, bè tôm trực tiếp trên các dòng nước mặt sông rạch đã làm ô nhiễm
nguồn nước do một số nguyên nhân: thức ăn của cá dư thừa, sự
khuấy động nguồn nước, sự cản trở lưu thông dòng mặt.
Với tình trạng sử dụng bừa bãi, tùy tiện các loại hóa chất trong
phân bón, các loại thuốc kích hoạt phát triển cây… Nhiều hệ thống
kênh mương tưới tiêu nội đồng đã bị ô
nhiễm nguồn nước và phát tán rộng. Hệ
thống tưới tiêu và hình thức tưới tiêu
không hợp lý là nguyên nhân gây thất
thoát lưu lượng nước lớn trong ngành
trồng trọt.
1.5.3. Ảnh hưởng do phát triển công ngiệp và dịch vụ
Việc gia tăng nhiều nhà máy, xí nghiệp từ quy mô nhỏ hộ gia đình đến quy mô lớn dẫn
đến nhu cầu về nguồn nước tăng, không những nước phục vụ cho sản xuất mà còn phục vụ sinh

hoạt cho một số lượng lớn công nhân từ nhiều vùng khác nhau tập trung về. Đặc biệt ở các khu
vực chưa có hệ thống cấp nước, mật độ khai thác nước dưới đất sẽ gia tăng nhanh, từ đó dẫn đến
tình trạng cạn kiệt nguồn nước và sụp lún đất.
Các chất thải công nghiệp như khối, bụi…tạo nên mưa axít không những làm thay đổi
chất lượng nước ngọt, mà còn ảnh hưởng xấu đến đất và môi trường sinh thái.
Việc xả nước thải sản xuất từ các nhà máy, khu chế xuất khu công nghiệp chưa được xử lý
vào sông rạch, ao hồ gây ô nhiễm nước mặt, nước dưới đất. Thậm chí có nơi còn cho nước thải
chảy tràn trên mặt đất để tự thấm xuống đất hoặc đào các hố dưới đất để xả nước thải làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến các tầng nước dưới đất.
1.5.4. Ảnh hưởng do một số nguyên nhân khác
Hệ thống kênh rạch không được nạo vét dẫn đến tích tụ một khối lượng lớn các vật chất
hữu cơ từ nước thải, rác thải gây bồi lắng và ảnh hưởng đến việc tiêu thoát của dòng nước.
Các bãi chôn rác không đạt yêu cầu kỹ thuật, nước rỉ ra từ rác thấm vào mạch nước ngầm
hoặc cho chảy tràn trên mặt đất vào kênh rạch.
Các dòng nước mặt trên sông, kênh rạch còn bị ô nhiễm do xăng dầu của các
tàu bè đi lại, hoặc các sự cố vận chuyển khác trên sông, biển.
Ảnh hưởng do chưa có ý thức về sử dụng và bảo vệ nguồn nước như sử dụng bừa bãi
hoang phí, không đúng mục đích sử dụng.
1.6. Tình trạng ô nhiễm môi trường
Nước cũng như không khí, ánh sáng không thể thiếu được trong cuộc sống của con
người. Hãy thử tưởng tượng đến một ngày nào đó mọi nguồn nước trên trái đất đều bị nhiễm bẩn
thì thế giới này sẽ ra sao. Chính vì vai trò quan trọng của nước đối với sự sống nên các quốc gia
đều dành sự quan tâm đến việc giữ gìn nguồn nước, nhất là nước sạch.
Các nhà khoa học tính toán tổng lượng nước trên trái đất khoảng 1.390.000.000 km
3
,
trong đó lượng nước mặt, nước ngầm hơn 8.600.000 km
3
, còn lại chủ yếu là nước biển. Tài
nguyên nước, nhất là nước ngọt ngày càng ít và xu hướng nhiễm bẩn lan rộng đang là mối đe dọa

đối với nhiều nước trên thế giới.
1.6.1. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại việt nam
Trang 11
Hình 6. Nguồn nước bị ô nhiễm do hoạt động
nông nghiệp
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực
hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất
đáng lo ngại.
Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày
càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu
công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các
thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do
không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất
nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải
thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học
(COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng cao gấp nhiều lần
giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H
2
S
vượt 4,2 lần, hàm lượng NH
3
vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các
nguồn nước mặt trong vùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất,
cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí
Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính
500.000 m
3
/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải
công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than;

về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng
sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH
4
là 4mg/L, hàm lượng
chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh
cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m
3
/ ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và
môi trường trong khu vực.
Với nước ta, sự phát triển công nghiệp, dịch vụ trong những năm vừa qua thiếu cân nhắc
về bài toán bảo vệ môi trường đã làm nguồn nước bị ô nhiễm và môi trường bị hủy hoại. Ở nhiều
tỉnh, thành phố tình trạng ô nhiễm đã đến mức báo động. Nước trên sông Tô Lịch ở Hà Nội đen
đặc, bốc mùi hôi thối. Ở thành phố Hồ Chí Minh cá chết trắng trên sông Sài Gòn.
Ở Quảng Nam, mức độ ô nhiễm nguồn nước chưa đến mức báo động nhưng đã xuất hiện
nhiều nỗi lo. Chất thải của các nhà máy thải ra sông cộng với sự khai thác quá mức đã làm nguồn
cá bống sông Trà cạn kiệt. Xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh chuyên làm nghề khai thác cá bống
với 200 chiếc ghe ở xóm An Lộc, An Phương giờ thì phần lớn đã chuyển sang nghề khai thác cát,
sạn. Đặc sản cá bống sông Trà chính hiệu bày bán ở các hàng quán trở nên rất hiếm. Không ít
người dân Sơn Tịnh ra đất QuảngNam đánh bắt cá bống trên sông Thu Bồn mang về Quảng Ngãi
bán cho các nhà hàng. Cá bống Quảng Nam mình rổ hoa, thân lép, thịt bở không thể sánh với cá
bống mú, cá bống cát sông Trà.
Nước ở một số con sông, ao hồ trong tỉnh cũng bị ô nhiễm do hóa chất và nhiều loại chất
thải. Chừng hai mươi năm trước, cứ sau mùa lũ lụt là rộ lên mùa cá đồng. Dân ven sông làm
Trang 12
nghề lưới, nghề câu, úp nơm, thả lờ có nguồn thu nhập khá từ cá đồng. Giờ thì lác đác, người
làm nghề chài lưới ven sông phải tìm kế sinh nhai từ nghề khác.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực
tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất

không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước
thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan
trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố
lớn là rất nặng.
Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000
m
3
/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước
thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu
gom khoảng 1.200m
3
/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành;
chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH
4
, NO
2
-
, NO
3
-
ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt
quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày;
chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm
thuộc diện phải di dời.
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế,
Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý độ ô nhiễm
nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất
lơ lửng (SS), BOD; COD; ôxy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP. Về tình
trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần
76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải

của con người và gia súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình
trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-
3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML
ở các kênh tưới tiêu.
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông,
hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản
đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không
tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với
việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức
ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ,
làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu
xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường
nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng
yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là
Trang 13
sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ
quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu
sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp,
hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất
nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các
quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế
phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng
chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và
bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý
trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt
tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.
Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu

tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương
trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội
ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt
Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước
ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)
Không chỉ nguồn nước bị ô nhiễm mà xung quanh chúng ta tất cả đều bị ô nhiễm, từ
không khí cho đến đất đai canh tác bởi chất thải công nghiệp và sinh hoạt. Chúng ta đã lấy đi từ
môi trường tất cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống nhưng lại trả cho môi trường những phế
thải. Điều bất hợp lý này đang diễn ra hàng ngày đã làm phá vỡ sự cân bằng về môi trường sinh
thái và hủy hoại cuộc sống không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai.
Luật Bảo vệ môi trường của nhà nước ban hành dường như đã không góp phần cải thiện được
tình trạng ô nhiễm môi trường tràn lan. Một khi nước sạch và môi trường chưa được xem là tiêu
chí của phát triển thì rất khó cho việc
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
toàn xã hội đối với việc bảo vệ, giữ
gìn nguồn nước sạch và môi trường.
Nếu như GDP tăng lên, việc làm được
tạo ra nhiều, thu nhập được cải thiện
nhưng môi trường càng ngày càng
xấu đi thì liệu có đảm bảo được sự
phát triển bền vững. Bởi không thể
gọi là phát triển nếu chúng ta luôn bị
bệnh tật và thiên tai đe dọa nhiều hơn.
Về mặt nhận thức, muốn bảo
vệ môi trường trước hết phải bảo vệ
nguồn nước, không khí bởi nguồn
nước sạch cho cuộc sống giống như
máu lưu thông trong cơ thể. Trách
nhiệm này không của riêng ai mà là của toàn xã hội, của nhiều thế hệ nối tiếp. Nếu chúng ta lấy
đi của môi trường quá nhiều thứ mà môi trường không thể tái tạo được cũng tức là chúng ta đang

lấy vào một phần cuộc sống của con cháu, của thế hệ kế tiếp. Nếu chúng ta thải ra môi trường
Trang 14
Hình 7 : Một con kênh bị ô nhiễm
những thứ độc hại, những thứ mà môi trường không thể phân hủy được thì sẽ làm cho cuộc sống
của thế hệ mai sau không chắc chắn, không thật sự bền vững.
Nhận thức đúng sẽ dẫn đến hành động đúng. Nếu 84 triệu người trong cả nước mỗi người
một năm chỉ trồng một cây xanh thôi thì cũng chính là hành động bảo vệ và tái tạo nguồn nước.
Nếu mỗi người không thải rác bừa bãi, không góp phần làm bẩn môi trường thì cuộc sống sẽ
xanh và đẹp gấp nghìn lần.
Muốn bảo vệ môi trường trước hết phải tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguồn nước. Khai
thác quá mức nguồn nước sẽ làm cho nó mau cạn kiệt và để lại hậu quả khôn lường. Vừa tiết
kiệm, mỗi người cũng cần có hành vi bảo vệ và phục hồi môi trường bằng nhiều cách như:
không chặt phá cây xanh, không thải rác bừa bãi, không làm bẩn nguồn nước.
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước sạch và môi
trường. Tuy nhiên một mình nhà nước sẽ rất khó hoàn thành được công việc hệ trọng và khó
khăn này. Chính vì vậy sự tham gia của toàn xã hội với ý thức tích cực của mọi công dân sẽ là
yếu tố quyết định cho việc bảo vệ nguồn nước sạch và bảo vệ môi trường.
1.6.2. Trên thế giới
Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với nhịp độ đáng lo ngại. Tiến
độ ô nhiễm nước phản ánh trung thực tiến bộ phát triển kỹ nghệ. Ta có thể kể ra đây vài thí dụ
tiêu biểu. Anh Quốc chẳng hạn: Ðầu thế kỷ 19, sông Tamise rất sạch. Nó trở thành ống cống lộ
thiên vào giữa thế kỷ này. Các sông khác cũng có tình trạng tương tự trước khi người ta đưa ra
các biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt. Nước Pháp rộng hơn, kỹ nghệ phân tán và nhiều sông lớn,
nhưng vấn đề cũng không khác bao nhiêu. Dân Paris còn uống nước sông Seine đến cuối thế kỷ
18. Từ đó vấn đề đổi khác: các sông lớn và nước ngầm nhiều nơi không còn dùng làm nước sinh
hoạt được nữa, 5.000 km sông của Pháp bị ô nhiễm mãn tính. Sông Rhin chảy qua vùng kỹ nghệ
hóa mạnh, khu vực có hơn 40 triệu người, là nạn nhân của nhiều tai nạn (như cháy nhà máy
thuốc Sandoz ở Bâle năm 1986) thêm vào các
nguồn ô nhiễm thường xuyên. Ở Hoa Kỳ tình trạng
thảm thương ở bờ phía đông cũng như nhiều vùng

khác.
Vùng Ðại hồ bị ô nhiễm nặng, trong đó hồ Erie,
Ontario đặc biệt nghiêm trọng.
Năm 1984, Bhopal (Ấn Độ) là nơi đã xảy ra
một tai nạn kinh hoàng khi nhà máy sản xuất thuốc
trừ sâu Union Carbide India. thải ra ngoài môi
trường 40 tấn izoxianat và metila. Theo viện
Blacksmith, chính lượng khí độc hại này đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến sức khoẻ của hàng trăm nghìn
người dân và khiến 15.000 người tử vong. Thật đáng lo
ngại khi vấn đề ô nhiễm ở khu vực này vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Người ta nghi
ngờ rằng các mạch nước ngầm đã bị nhiễm độc.
Năm 2000, vụ tai nạn hầm mỏ xảy ra tai công ty Aurul ( Rumani) đã thải ra 50-100 tấn
xianu và kim loại nặng (như đồng) vào dòng sông gần Baia Mare ( thuộc vùng Đông- Bắc). Sự
nhiễm độc này đã khiến các loài thuỷ sản ở đây chết hàng loạt, tổn hại đến hệ thực vật và làm
bẩn nguồn nước sạch, ảnh hưởng đến cuộc sống của 2,5 triệu người.
Trang 15
Hình 8.Dòng sông Huai - TQ
Cubatao( Brazil), thành phố của hàng lọat các khu liên hợp công nghiệp cơ khí và hoá
dầu. Nhưng các công ty ở đây đã “vô tư” thải các chất thải công nghiệp ( kẽm, fenola, thuỷ ngân,
dầu) vào các dòng sông của thành phố từ nhiều thập kỉ nay. Việc xử lý nguồn nước thải chưa
được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định. Người dân thành phố thường xuyên mắc các bệnh
liên quan đến đường hô hấp, mặc dù Ngân hàng thế giới đã khuyến cáo Brazil áp dụng các điều
luật bảo vệ hệ sinh thái nghiêm khắc trong những năm qua.
Cho đến những năm cuối thời kì chiến tranh lạnh, Dzerzhinsk luôn là trung tâm lớn về
sản xuất vũ khí hoá học. Theo báo cáo của Blacksmith, vấn đề nhiễm độc mạch nước ngầm luôn
được đặt ra., tuổi thọ trung bình chỉ khoảng 40 tuổi với cả hai giới.
Nằm tại khu vực chính giữa đất nước Trung Quốc, dòng sông Huai dài 1978 km được coi
như nơi ô nhiễm nhất của nước này do các chất thải công nghiệp, động vật và nông nghiệp, Mức
độ mắc các bệnh cao bất thường của cộng đồng dân cư sống gần lưu vực sông đã khiến chính

phủ phải xếp nguồn nước của con sông ở mức độ ô nhiễm độc hại nhất. Tuy nhiên, chính phủ
Trung Quốc hiện đang cùng với Ngân hàng thế giới nỗ lực giải quyết tình trạng này.
Kabu (Bắc Ấn Độ) - Thành phố trên sông, với 2,4 triệu dân, là nơi tập trung của nhiều
xưởng thuộc da. Những khảo sát, nghiên cứu của Chính phủ đã cho thấy một vài khu vực có
mạch nước ngầm đã bị nhiễm độc do phẩm nhuộm, các chất hoá học độc hại (crom, chì). Một
chuơng trình chỉ đạo làm sạch nguồn nước ngầm đang được triển khai.
Marilao( Philipine) Hệ thống các sông gần vùng ngoại ô tỉnh Bulacan ở Philipines là nơi
lưu thông hàng hoá cho các khu vực thuộc da, tinh chế kim loại, đúc chì. Các chất ô nhiễm gây
ra các vấn đề về sức khoẻ cho cư dân trong vùng và xa hơn nó còn gây hại tới ngành đánh bắt tại
vịnh Manille.
Cơn bão Katrina đã gây thiệt hại lớn nhất về tiền của cũng như sinh mạng trong lịch sử
nước Mỹ và cũng đã gây ra hàng loạt những trận lụt ở New Zealand, điều đó kéo theo sự ô
nhiễm trên diện rộng do kim loại nặng có lẫn trong đất và cặn dầu ở hai nước này. Những nỗ lực
khắc phục ô nhiễm đang được các nhà chức trách liên đoàn và quốc gia nghiên cứu cùng với kế
hoạch xây dựng lại các thành phố bị tàn phá.
1.7. Phân loại nước thải
Theo tiêu chuẩn việt nam 5980:1995 và ISO 6107/1:1980 nước thải là nước đã được thải
ra sau khi đã sử dụng hoặc được tạo ra trong một quá trình công nghệ và không còn giá trị trực
tiếp đối với quá trình đó. Thông thường nước thải được phân loại theo nguồn gốc phát sinh ra
chúng:
− Nước thải sinh hoạt, là
nước thải từ các khu dân cư,
khu vực hoạt động thương
mại, khu công sở, trường học
và các cơ sở tương tự.
Nước thải công nghiệp, là
nước thải từ các nhà máy đang
hoạt động hoặc trong đó nước
thải công nghiệp là chủ yếu.
Trang 16

Hình 9: Ô nhiễm do rác thải sinh hoạt
− Nước thấm qua, là nước thấm vào hệ thống ống bằng nhiều cách khác nhau,qua các khớp
nối, các ông có khuyết tật hay thành hố ga, hố xí.
− Nước thải tự nhiên, nước mưa được xem như nước thải tự nhiên ở những thành phố lớn
hiện đại, nước mưa được gom theo hệ thống riêng.
− Nước thải đô thị, là thuật ngữ chung chỉ chất lỏng trong hệ thống cống thoát nước của
một thành phố, thị xã… đó là hỗn hợp của các loại nước thải trên.
Ngoài ra căn cứ vào tính chất của nguồn thải có thể phân loại thành:
− Nguồn điểm (nước thải của các cơ sở công nghiệp, các khu dân cư, thành phố…)
− Nguồn không điểm (nước mưa chảy tràn, nước thải nông ngư nghiệp…)
1.7.1. Nước thải sinh hoạt
Các loại nước thải sinh hoạt sinh ra từ các nguồn như: từ các hộ gia đình, bệnh viện, khách
sạn, công sở trường học.
Nước thải từ các dụng cụ vệ sinh như hố xí, chậu rửa, bồn tắm, giặt bao gồm cả nước thải
sinh lý của con người.
Nước thải từ nhà bếp: nước rửa, nước thải từ nhà ăn…
Nước rửa nhà, sân, đường, phố…
 Thành phần và tính chất của nước thải sinh hoạt
Đặc điểm chung của nước thải sinh hoạt là chúng chứa khoảng 58% chất hữu cơ và 42%
chất khoáng. Đặc điểm cơ bản của nước thải sinh hoạt là hàm lượng cao các chất hữu cơ không
bền sinh học như cacbonhydrat, protein, mỡ…chất dinh dưỡng như phôtphat, nito, vi trung, vi
khuẩn, chất rắn và mùi.
Thành phần và tính chất nhiễm bẩn phụ thuộc vào tập quán sinh hoạt, mức sống của người
dân, mức độ hoàn thiện của trang thiết bị, trạng thái làm việc của thiết bị thu gom nước thải…
Số lượng nước thải tuỳ thuộc vào điều kiện tiện nghi của cuộc sống, tập quán dùng nước
của từng dân tộc. tương ứng với nhu cầu dùng nước, số lượng nước thải các khu dân cư dao động
trong khoảng 130 – 150lit/người/ngày.
Nước thải sinh hoạt có chứa các cặn bã các chất rắn bao gồm chất rắn vô cơ như đất cát,
muối vô cơ, chất rắn hữu cơ như vi khuẩn, động vật nguyên sinh, tảo, phân rác, các chất hữu cơ
như thực phẩm, dầu mỡ… các chất dinh dưỡng và vi sinh. Thành phần nước thải sinh hoạt thay

đổi theo thời gian. Người ta quy ước giá trị bình quân như sau.
Bảng 1: Tải lượng ô nhiễm nước thải sinh hoạt
Tác nhân ô nhiễm Tải lượng (g/ngày) Tác nhân ô nhiễm Tải lượng (g/ngày)
BOD5
COD
Chất rắn lơ lửng
Dầu mỡ
Tổng nitơ
45 – 54
1.8BOD
200
10 – 30
6 - 12
Amoni
Tổng phospho
Tổng coliform
Fecal colifrom
Trứng giun sán
2,4 – 4,8
0.8 – 4
10
6
- 10
9
10
5
- 10
6
10
3

Trong nước thải sinh hoạt còn chứa một số hoá chất độc hại như chất tẩy rửa, thuốc tẩy,
thuốc nhuộm…
1.7.2. Nước mưa
Trang 17
Vào mùa mưa, nước mưa chảy tràn qua các khu vực dân cư, nhà máy, bãi chứa nguyên
liệu…sẽ cuốn theo các chất rắn, các chất hữu cơ. Nếu không quẩn lý tốt nước chảy tràn này sẽ
tác động tiêu cực đến nguồn nước mặt, nước ngầm và đời sống thuỷ sinh trong khu vực.
Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước mưa chảy tràn ước tính vào khoảng 0.5 – 1.5
mgN/L, 0.004 – 0.03mgP/L, 10 – 20 mgCOD/L, 10 – 20 mg TSS/L. so với nước thải nước mưa
khá sạch, vì vậy có thể tách riêng nước mưa khỏi nước thải và thải trực tiếp qua cống thoát.
Đường thoát nước phải có bộ phận chắn rác trước khi đổ ra cống thoát tránh tắc nghẽn đường
cống.
1.7.3. Nước thải công nghiệp và nông nghiệp
Số lượng và thành phần phụ thuộc vào dạng sản xuất được trình bày dưới bảng sau:
Bảng 2: Các tác nhân ô nhiễm điển hình trong nước thải công nghiệp
Công nghiệp Chất ô nhiễm chính Chất ô nhiễm phụ
Chế biến sữa BOD, pH, SS
Màu, tổng P, N, TOC, độ
đục
Chế biến đồ hộp, rau quả BOD, COD, pH, SS, TDS Màu, tổng P, N, TOC,
Chế biến rượu bia
BOD, pH, SS, N, P, chất rắn có
thể lắng
TDS, màu, độ đục. bọt
nổi
Chế biến thịt BOD, pH, SS, dầu mỡ, độ đục,
chất rắn có thể lắng
NH
4
+

, TDS, P, màu
Xay bột BOD, SS COD, pH, TOC, TDS
Luyện thép
Dầu mỡ, pH, NH
4
+
, CN
-
, Cr,
phenol, SS, Fe, Sn, Zn
Clo, SO
4
2-
Cơ khí
COD, dầu mỡ, SS, CN-, Cr, Zn,
Ni, Pb, Cd
Thuộc da
BOD
5
, COD, SS, maud kim loại
nặng, NH
4
+
, dầu mỡ, phenol,
sulfua
P, N, TDS, tổng colifrom
Xi măng COD, pH, SS
Cromat, P, Zn, sulfua,
TDS
Phân bón hoá học

Phân đạm NH
4
+
, TDS, NO
3
-
, SO
4
2-
, ure
pH, PO
4
3-
, SO
4
2-
, hợp
chất hữu cơ
Phân lân TDS, F, pH, P, SS
Al, Fe, Hg, N, SO
4
2-
,
uranium
Hoá chất hữu cơ
BOD, COD, pH, TSS, TDS, dầu
nổi
Độ đục, clo hữu cơ, P,
kim loại nặng, phenol
Hoá chất vô cơ

Độ acid, độ kiềm, TSS, SS, TDS,
Cl
-
, SO
4
2-
, pH
BOD, COD, TOC,
phenol, F, silicat, CN
-
,
kim loại nặng
Hoá dầu NH
4
+
, BOD, COD, Cr, dầu, pH, Cl
-
, CN
-
, Pb, N, P, TOC,
Trang 18
phenol, SS, TDS, sulfua Zn, độ đục
2. Hậu quả của ô nhiễm nước
2.1. Ảnh hưởng đến môi trường
2.1.1.Nước và sinh vật nước:
a) Nước
− Nước ngầm: Ngoài việc các cặn lơ lửng trong nước mặt, các chất thải nặng lắng xuống
đáy sông, sau khi phân huỷ, 1 phần lượng chất được các sinh vật tiêu thụ, 1 phần thấm xuống
mạch nước bên dưới (nước ngầm) qua đất, làm biến đổi tính chất của loại nước này theo chiều
hướng xấu (do các chất chứa nhiều chất hữu cơ, kim loại nặng…),bên cạnh đó, việc khai thác

nước ngầm bừa bãi và người dân xây dựng các loại hầm chứa chất thải cũng góp phần làm suy
giảm chất lượng nước ngầm, làm cho lượng nước ngầm vốn đã khan hiếm, nay càng hiếm hơn
nữa.
− Nước mặt: Do
nhiều nguyên nhân khác
nhau, gây ra sự mất cân
bằng giữa lượng chất thải
ra môi trường nước (rác
thải sinh hoạt, các chất
hữu cơ,…) và các sinh
vật tiêu thụ lượng chất
thải này (vi sinh vật, tảo,
…) làm cho các chất hữu
cơ, chất rắn lơ lửng,…
không được phân huỷ,
vẫn còn lưu lại trong nước với khối lượng lớn, dẫn đến việc nước dần mất đi sự tinh khiết ban
đầu, làm chất lượng nguồn nước bị suy giảm nghiêm trọng.
b) Sinh vật nước:
Ô nhiễm nước ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh vật nước, đặc biệt là vùng
sông, do nước chịu tác động của ô nhiễm nhiều nhất. Nhiều loài thuỷ sinh do hấp
thụ các chất độc trong nước, thời gian lâu ngày gây biến đổi trong cơ thể nhiều loài
thuỷ sinh, một số trường hợp gây đột biến gen, tạo nhiều loài mới, một số trường
hợp làm cho nhiều loài thuỷ sinh chết.
Trong 4 ngày liên tiếp (từ 18 - 21.10), tôm, cá chết hàng loạt tại kinh Giữa Nhỏ (ấp Đầm
Cùng, xã Trần Thới, huyện Cái Nước, Cà Mau), cạnh Xí nghiệp chế biến thuỷ sản Nam Long
thuộc Công ty cổ phần xuất khẩu thuỷ sản Cái Đôi Vàm (Cadovimex). Nước trong kinh đen
ngòm và mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Đi đến
đầu kinh cạnh Xí nghiệp chế biến thuỷ sản Nam Long thì thấy nước thải trong bãi
rác sinh hoạt của xí nghiệp này đang tràn xuống kinh. Xác cá chết trên kinh Giữa
Trang 19

Nhỏ, huyện Cái Nước (tỉnh Cà Mau). Đây là con kinh chạy dài gần 4 km, nối từ bãi rác của Xí
nghiệp chế biến thuỷ sản Nam Long với sông Cái Nước - Đầm Cùng, có hàng trăm hộ dân lấy
nước từ dòng kinh này để nuôi cá, tôm. Đại dương tuy chiếm ¾ diện tích trái đất, nhưng cũng
không thể không chịu tác động bởi việc nước bị ô nhiễm, mà một phần sự ô nhiễm nước đại
dương là do các hoạt động của con người như việc khai thác dầu, rác thải từ người đi biển,… gây
ảnh hưởng không nhỏ đến đại dương và các sinh vật đại dương, làm xuất hiện nhiều hiện tượng
lạ, đồng thời làm cho nhiều loài sinh vật biển không có nơi sống, một số vùng có nhiều loài sinh
vật biển chết hàng loạt…
Hiện tượng thủy triều đen: Tình trạng chất lượng nước hồ giảm đột ngột nghiêm trọng và
tình trạng cá chết hàng loạt trong nhiều ngày kể từ thập niên 1970. Hiện tượng này được các nhà
khoa học gọi tên là “thủy triều đen”. Phân tích các mẫu nước hồ lấy từ nhiều nước trên thế giới
cho thấy hiện tượng “thủy triều đen” thường xảy trong hồ nước vào mùa thu. Khi đó, chất hữu cơ
dưới đáy hồ bắt đầu phân hủy dưới tác dụng của các vi sinh vật, làm thiếu ôxy dưới đáy hồ, giảm
hàm lượng pH và tăng nồng độ các gốc axít kali nitrat. Chu kỳ này làm tăng tình trạng thiếu ôxy
trong nước và lây lan hợp chất sunfua, biến nước hồ có màu đen và mùi hôi. Trong quá trình thay
đổi chất lượng nước, các hoạt động của con người như thải chất thải công nghiệp và sinh hoạt
vào hồ cũng có thể tạo ra “thủy triều”.
Thủy triều đỏ: Sự phát triển quá mức của nền công nghiệp hiện đại đã kéo theo những hậu
quả nặng nề về môi trường, làm thay đổi hệ sinh thái biển. Mặt khác, sự ô nhiễm nước biển do
các chế phẩm phục vụ nuôi tôm, dư lượng các loại thuốc kích thích, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ
thực vật góp phần làm tăng vọt tần suất xuất hiện thuỷ triều đỏ ở nhiều nơi trên thế giới và ở
Việt Nam. Không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế biển, thuỷ triều đỏ còn làm mất
cân bằng sinh thái biển, ô nhiễm môi trường biển. Khi gặp những môi trường thuận lợi như điều
kiện nhiệt độ, sự ưu dưỡng của vực nước các loài vi tảo phát triển theo kiểu bùng nổ số lượng
tế bào, làm thay đổi hẳn màu nước. Các nhà khoa học gọi đó là sự nở hoa của tảo hay “thuỷ triều
đỏ”. Thuỷ triều đỏ phá vỡ sự cân bằng sinh thái biển, gây hại trực tiếp đối với sinh vật và con
người. Một số loài vi tảo sản sinh ra độc tố. Vì vậy, con người có thể bị ngộ độc do ăn phải
những sinh vật bị nhiễm độc tố vi tảo. Thuỷ triều đỏ là tập hợp của một số lượng cực lớn loài tảo
độc có tên gọi Alexandrium fundyense. Loài tảo này có chứa loại độc tố saxintoxin, đã giết chết
14 con cá voi trên vùng biển Atlantic, vào năm 1987.

2.1.2.Đất và sinh vật đất:
a) Đất
Nước bị ô nhiễm mang nhiều chất vô cơ và hữu cơ thấm vào đất gây ô nhiễm nghiêm trọng
cho đất. Nước ô nhiễm thấm vào đất làm :
− Liên kết giữa các hạt keo đất bị bẻ gãy, cấu trúc đất bị phá vỡ.
− Thay đổi đặc tính lý học, hóa học của đất.
− Vai trò đệm, tính oxy hóa, tính dẫn điện, dẫn nhiệt của môi trường đất thay đổi mạnh.
− Thành phần chất hữu cơ giảm nhanh làm khả năng giữ nước và thoát nước của đất bị thay
đổi. Một số chất hay ion có trong nước thải ảnh hưởng đến đất :
Trang 20
− Quá trình oxy hóa các ion Fe
2+
và Mn
2+
có nồng độ cao tạo thành các axit không tan
Fe
2
O
3
và MnO
2
gây ra hiện tượng “nước phèn” dẫn đến đóng thành váng trên mặt đất (đóng
phèn) Canxi, magie và các ion kim loại khác trong đất bị nước chứa axit cacbonic rửa trôi thì đất
sẽ bị chua hóa
b) Sinh vật đất
Khi các chất ô nhiễm từ nước thấm vào đất không những gây ảnh hưởng đến
đất mà còn ảnh hưởng đến cả các sinh vật đang sinh sống trong đất.
− Các ion Fe
2+
và Mn

2+
ở nồng độ cao là các chất độc hại với thực vật.
− Cu trong nguồn nước ô nhiễm từ các khu công nghiệp thải ra thấm vào đất không độc
lắm đối với động vật nhưng độc đối với cây cối ở nồng độ trung bình.
− Các chất ô nhiễm làm giảm quá trình hoạt động phân hủy chất của một số
vi sinh vật trong đất
− Là nguyên nhân làm cho nhiều cây cối còi cọc, khả năng chống chịu kém,
không phát triển được hoặc có thể bị thối gốc mà chết Có nhiều loại chất độc bền vững khó bị
phân hủy có khả năng xâm nhập tích lũy trong cơ thể sinh vật. Khi vào cơ thể sinh vật chất độc
cũng có thể phải cần thời gian để tích lũy đến lúc đạt mức nồng độ gây độc.
2.1.3. Không khí:
Ô nhiễm môi trường nước không chỉ ảnh hưởng đến con người, đất, nước mà
còn ảnh hưởng đến không khí. Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại trong nước thải
thông qua vòng tuần hoàn nước, theo hơi nước vào không khí làm cho mật độ bụi
bẩn trong không khí tăng lên. Không những vậy, các hơi nước này còn là giá bám
cho các vi sinh vật và các loại khí bẩn công nghiệp độc hại khác. Một số chất khí được hình
thành do quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ trong nước thải như SO
2
, CO
2
, CO,… ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường khí quyển và con người, gây ra các căn bệnh liên quan đến
đường hô hấp như: niêm mạc đường hô hấp trên, viêm phổi, viêm phế quản mãn tính, gây bẹnh
tim mạch, tăng mẫn cảm ở những người mắc bệnh hen,…
2.2. Ảnh hưởng đến con người
2.2.1. Sức khỏe con người:
a) Do kim loại trong nước:
Các kim loại nặng có trong nước là cần thiết cho sinh vật và con người vì chúng là những
nguyên tố vi lượng mà sinh vật cần tuy nhiên với hàm lượng cao nó lại là nguyên nhân gây độc
cho con người, gây ra nhiều bệnh hiểm nghèo như ung thư, đột biến. Đặc biệt đau lòng hơn là nó

là nguyên nhân gây nên những làng ung thư. Các ion kim loại được phát hiện là hợp chất kìm
hãm ezyme mạnh. Chúng
tác dụng lên phôi tử như nhóm –SCH
3
và SH trong methionin và xystein. Sau đây là một số kim
loại có nhiều ảnh hưởng nhiêm trọng nhất.
 Trong nước nhiễm chì
Chì có tính độc cao đối với con người và động vật. Sự thâm nhiễm chì vào cơ thể con
người từ rất sớm từ tuần thứ 20 của thai kì và tiếp diễn suốt kì mang thai. Trẻ em có mức hấp thụ
chì cao gấp 3-4 lần người lớn. Mặt khác thời gian bán sinh học chì của trẻ em cũng dài hơn của
Trang 21
người lớn. Chì tích đọng ở xương . Trẻ em từ 6 tuổi trở xuống và phụ nữ có thai là những đối
tượng mẫn cảm với những ảnh hưởng nguy hại của chì gây ra. Chì cũng cản trở chuyển hóa
canxi bằng cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua kìm hãm sự chuyển hóa vitamin D. Chì gây
độc cả cơ quan thần kinh trung ương lẫn thần kinh ngoại biên. Chì tác động lên hệ enzyme, đặc
biệt là enzyme vận chuyển hiđro. Khi bị nhiễm độc, người bệnh bị một số rối loạn cơ thể, trong
đó chủ yếu là rối loạn bộ phận tạo huyết (tủy xương) .
Tùy theo mức độ nhiễm độc có thể gây ra những tai biến như đau bụng chì, đường viền
đen Burton ở lợi, đau khớp, viêm thận, cao huyết áp vĩnh viễn, liệt, tai biến lão nếu nặng có thể
gây tử vong. Tác dụng hóa sinh của chì chủ yếu gây ảnh hưởng đến tổng hợp máu, phá vỡ hồng
cầu. Chì ức chế một số enzyme quan trọng trong quá trình tổng hợp máu do tích đọng các hợp
chất trung gian của quá trình trao đổi chất. Chì kìm hãm quá trình sử dụng O
2
và glucozo để sản
xuất năng lượng cho quá trình sống. Sự kìm hãm này có thể nhận thấy khi nồng độ chì trong máu
khoảng 0,3mg/l. Khi nồng độ chì trong máu lớn hơn 0,8mg/l có thể gây ra hiện tượng thiếu máu
do thiếu hemoglobin. Nếu hàm lượng chì trong máu khoảng 0,5-0,8mg/l sẽ gây rối loạn chức
năng của thận và phá hủy não. JECFA đã thiết lập giá trị tạm thời cho lượng chì đưa vào cơ thể
có thể chịu đựng được đối với trẻ sơ sinh và thiếu nhi là 25mg/kg thể trọng. Hơn 90% lượng chì
trong máu tồn tại trong hồng cầu. Dạng lớn nhất và tốc độ chậm là trong khung xương, chu kì

bán hủy là 20năm, dạng không bền hơn nằm trong mô mềm. Tổng số tích lũy suốt đời của chì có
thể từ 200mg-500mg. Chì trong hệ thần kinh trung ương có xu hướng tích lũy trong đại não và
nhân tế bào.
 Trong nước nhiễm thủy ngân
Trang 22
Thủy ngân vô cơ chủ yếu ảnh hưởng đến thận, trong khi đó methyl thủy ngân ảnh hưởng
chính đến hệ thần kinh trung ương. Sau khi bị nhiễm độc người bệnh dễ cáu gắt, kích thích, xúc
động, rối loạn tiêu hóa rối loạn thần kinh, viêm lợi, rung chân. Nếu bị nhiễm độc nặng có thể tử
vong. Độc tính của thủy ngân tác dụng len nhóm sunfuahydryl (-SH) của hệ thống enzyme. Sự
liên kết của thủy ngân với màng tế bào ngăn cản sự vận chuyển đường qua màng và cho phép
dịch chuyển kali tới màng. Điều này dẫn
đến sự thiếu hụt năng lượng trong tế bào và
gây rối loạn thần kinh. Chính vì nguyên
nhân này những trẻ sơ sinh nhiễm methyl
thủy ngân từ mẹ sẽ bị tác động lên hệ thần
kinh trung ương, mắc các bệnh như tâm
thần phân liệt, kém phát triển trí tuệ, co
giật. Nhiễm độc methyl thủy ngân còn dẫn
tới phân lập thể nhiễm sắc, phá vỡ thể
nhiễm sắc và ngăn cản sự phân chia tế bào.
Trong môi trường nước, thủy sinh vật có
thể hấp thụ thủy ngân vào cơ thể, đặc biệt
là cá và các loài động vật không xương sống, cá hấp thụ thủy ngân và chuyển hóa thành methyl
thủy ngân (CH
3
Hg
+
) rất độc với cơ thể người. Chất này hòa tan trong mỡ, phần chất béo của các
màng và trong tủy.
 Trong nước nhiễm Asen

Asen gây ra ba tác động chính tới sức khỏe con người là: làm đông keo protein, tạo phức
với asen(III) và phá hủy quá trình phốt pho hóa. Các triệu chứng của nhiễm độc asen như: Ở thể
cấp tính gây ho, tức ngực và khó thở, mất thăng bằng, đau đầu, nôn mửa, đau bụng đau cơ. Nếu
nhiễm độc kinh niên thì ảnh hưởng đến da như đau, sưng tấy da, vệt trắng trên móngtay… Asen
và các hợp chất của nó tác dụng lên sunfuahydryl (-SH) và các men phá vỡ quá trình photphoryl
hóa, tạo phức co-enzyme ngăn cản quá trình sinh năng lượng. asen có khả năng gây ung thư biểu
mô da, phế quản, phổi, xoang… Asen vô cơ có hóa trị 3 có thể làm sơ cứng ở gan bàn chân, ung
thư da. Asen vô cơ có thể để lại ảnh hưởng kinh niên với hệ thần kinh ngoại biên, một vài nghiên
cứu đã chỉ ra asen vô cơ còn tác động lên cơ chế hoạt động của AND. Sử dụng nguồn nước bị ô
nhiễm asen lâu dài là không an toàn và ở một số nước trên thế giới vấn đề ảnh hưởng sức khỏe
do asen rất đáng lo ngại. Đầu tiên là các ca tổn thương da do asen ở Tây Ban Nha, Ấn Độ năm
1983, hơn 1,5 triệu người được cho là nhiễm asen tại đây, với khoảng hơn 20000 ca nhiễm độc.
Tại Bangladesh khoảng 35 đến 77 triệu người trong tổng số 125 triệu người đang đối mặt với
nguy cơ nhiễm asen trong nước uống. Có ít nhất 100000 ca bị tổn thương da. Khi sử dụng nước
uống có hàm lượng asen cao trong thời gian dài, dẫn đến rối loạn mạch máu ngoại vi và có triệu
chứng lâm sàng như là chân răng đen. Các ảnh hưởng có hại có thể xuất hiện như yếu chức năng
gan, bệnh tiểu đường, các loại ung thư nội tạng (bàng quang, gan, thận), các loại bệnh về da
(chứng tăng mô biểu bì, chứng tăng sắc tố mô và ung thư da).
Trang 23
Bệnh sạm da, mất sắc tố da, cahi cứng da, và rối loạn tuần hoàn ngoại biên là các triệu
chứng do tiếp xúc thường xuyên với asen. Ung thư da và nhiều ung thư nội tạng cũng do vậy.
Các bênh như tim mạch cũng được phất hiện có lien quan đến thức ăn, nước uống có asen và do
tiếp xúc với asen. Trong nghiên cứu số người dân uống nước có nồng độ asen cao cho thấy, tỷ lệ
ung thư gia tăng theo liều lượng asen và thời gian uống nước.
 Nước nhiễm Crom:
Hợp chất Cr
+
rất độc có thể gây ung thư phổi, gây loét dạ dày,ruột non, viêm gan, viêm
thận, gây độc cho hệ thần kinh và tim…Crom xâm nhập vào nguồn nước từ nước thỉ của các nhà
máy mại điện, nhuộn thuộc da, chất nổ, đò gốm, sản xuất mực viết, mực in, in tráng ảnh…

 Nước nhiễm Mangan
Mangan di vào môi trường nước do quá trình rửa trôi, sói mòn và chất thải công nhiệp
luyện kim, acquy, phân hóa học… Với hàm lượng cao mangan gây độc mạnh với nguyên sinh
chất của tế bào, đặc biệt là tác động lên hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương thận và bộ máy
tuần hoàn, phổi, ngộ độc nặng và tử vong. Tiêu chuẩn cho phép của WHO với mangan không
quá 0,1mg/l.
b) Các chất hữu cơ
 Các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học (các chất tiêu thụ oxi)
Cacbonhidrat, protein, chất béo… thường có mặt trong nước thải sinh hoạt, nước thải đô
thị , nước thải công nghiệp chế biến thực phẩm là các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học.
Trong nước thaỉ sinh hoạt, có khoảng 60-80% lượng chất hữu cơ thuộc loại dễ bị phân huỷ sinh
học.Chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học thường ảnh hưởng có hại đến nguồn lợi thuỷ sản, vì khi
bị phân huỷ các chất này sẽ làm giảm oxy hoà tan trong nước, dẫn đến chết tôm cá.
 Các chất hữu cơ bền vững
Các chất hữu cơ có độc tính cao thường là các
chất bền vững, khó bị vi sinh vật phân huỷ trong
môi trường. Một số chất hữu cơ có khả năng tồn
lưu lâu dài trong môi trường và tích luỹ sinh học
trong cơ thể sinh vật. Do có khả năng tích luỹ
sinh học, nên chúng có thể thâm nhập vào chuỗi
thức ăn và từ đó đi vào cơ thể con người.
Các chất polychlorophenol(PCPs),
polychlorobiphenyl(PCBs: polychlorinated
biphenyls), các hydrocacbon đa vòng ngưng
tụ(PAHs: polycyclic aromatic hydrocacbons), các
hợp chất dị vòng N, hoặc O là các hợp chất hữu cơ
bền vững. Các chất này thường có trong nước thải
công nghiệp, nước chảy tràn từ đồng ruộng (có chứa nhiều thuốc trừ sâu, diệt cỏ, kích thoích
sinh trưởng…). Các hợp chất này thường là các tác nhân gây ô nhiễm nguy hiểm, ngay cả khi có
mặt với nồng độ rất nhỏ trong môi trường.

 Nhóm hợp chất phenol
Phenol và các dẫn xuất phenol có trong nước thải của một số nghành công nghiệp(lọc hoá
dầu, sản xuất bột giấy, nhuộm…). Các hợp chất này làm cho nước có mùi, gây tác hại cho hệ
Trang 24
Hình 10: Ô nhiễm do các chất dinh
dưỡng tại hồ Điền Trì
sinh thái nước, sức khoẻ con người, một số dẫn xuất phenol có khả năng gây ung thư
(carcinogens). TCVN 5942-1995 quy định nồng độ tối đa của các hợp chất phenol trong nước bề
mặt dùng cho sinh hoạt là 0,001 mg/l.
 Nhóm hoá chất bảo vệ thực vật(HCBVTV) hữu cơ.
Hiện nay có hàng trăm, thậm chí hàng ngàn các loại HCBVTV đang được sản xuất và sử
dụng để diệt sâu, côn trùng, nấm mốc, diệt cỏ. Trong số đó phần lớn là các hợp chất hữu cơ,
chúng được chia thành các nhóm:
• Photpho hữu cơ
• Clo hữu cơ
• Cacbamat
• Phenoxyaxetic
• Pyrethroid
Hầu hết các chất này có độ tính cao đối với con người và động vật. Nhiều nhất trong số đó,
đặc biệt là các clo hữu cơ, bị phân huỷ rất chậm trong môi trường, có khả năng tích luỹ trong cơ
thể sinh vật và con người. Nhiều trong số các
HCBVTV là tác nhân gây ung thư. TCVN 5942-1995 quy định nồmg độ tối đa cho phép của
tổng các HCBVTV trong nước bề mặt là 0,15 mg/l, riêng với DDT là 0,01 mg/l.
 Nhóm hợp chất dioxin.
Nhóm dioxin là hai nhóm hợp chất tạp chất sinh ra trong quá trình sản xuất các hợp chất
clo hoá. Dioxin cũng được tạo thành khi đốt cháy các hợp chất clo hoá ở nhiệt độ thấp (dưới
1000o C). Hai nhóm hóa chất này là polychlorinated dibenzop- dioxins(PCDDs) và
polychlorinated dibenzofurans(PCDFs).
 Nhóm hợp chất polychlorinated biphenyl (PCBs).
PCB là nhóm hợp chất có từ 1 đến 10 nguyên tử clo gắn vào các vị trí khác nhau của phân

tử phenyl. Có thể có đến 209 hợp chất thuộc loại này. Công nghiệp thường sản xuất được các
hỗn hợp chứa nhiều loại PCB khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện, trong đó thông thường có một
ít tạp chất dioxin. PCBs bền hoá học và cách điện tốt, nên được dùng làm dầu biến thế và tụ điện,
ngoài ra chúng còn được dùng làm dầu bôi trơn, dầu thuỷ lực, tác nhân truyền nhiệt…
Đến khoảng thập niên 1960 người ta đã phát hiện ra nguy cơ gây ô nhiễm PCBs từ các
nghành công nghiệp. PCBs lúc đó đã có mặt gần như khắp nơi, đặc
biệt là nguy cơ tích luỹ PCBs trong mô mỡ động vật. Trong mô mỡ của nhiều loại
động vật có vú ở biển có chứa nồng độ PCBs lớn gấp 10 triệu lần PCBs trong nước. Những năm
cuối thập niên 1970, việc sản xuất PCBs bắt đầu bị đình chỉ ở hầu hết các nước. PCBs có thể làm
giảm khă năng sinh sản, giảm khả năng học tập của trẻ em; chúng cũng có thể là tác nhân gây
ung thư. Tuy vậy, cũng như các dioxin, bằng chứng về tác hại của PCBs cũng chưa rõ lắm, do
nồng độ của chúng trong môi trường thường rất nhỏ và tác hại lại có xu hướng diễn ra sau một
thời gian đủ dài.
 Nhóm hợp chất hidrocacbon đa vòng ngưng tụ (polynuclear aromatic hidrocacbon
PAHs)
Trang 25

×