Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ thông qua giảng dạy- Bài Sự điện (sgk hoá học lớp 12)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.47 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước ta, đổi mới nền giáo dục là một
trong những trọng tâm của sự phát triển. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi các nhà
trường phải tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo. Chiến
lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đã được Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII
ghi rõ:
"Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người
và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt nam, có
ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ".
Đối với giáo dục ở bậc trung học phổ thông, chúng ta đã có sự đổi mới to lớn về
chương trình đào tạo đó chính là sự ra đời của bộ sách giáo khoa mới với nội dung và
hình thức thể hiện mới. Chính vì thế mà yêu cầu đổi mới PPDH cũng là một vấn đề cấp
thiết của ngành giáo dục. Định hướng dạy học tích cực là một định hướng quan trọng đã
được nước ta lựa chọn cho việc đổi mới PPDH và đã được vận dụng trong việc đổi mới
nhiều PPDH cụ thể khác nhau.
Sự thành công của việc dạy học phụ thuộc rất nhiều vào PPDH được giáo
viên lựa chọn. Cùng một nội dung nhưng tuỳ thuộc vào PPDH cụ thể trong dạy
NaCl

Catot (cùc ©m) Anot (cùc d¬ng)
2 NaCl Na + Cl
2
®pnc


2 CuSO + 2 H O 2Cu + O + H SO
4
4
2
2
2
®p
học thì kết quả sẽ khác nhau về mức độ lĩnh hội các tri thức sự phát triển của trí
tuệ cùng các kĩ năng tư duy, phương pháp nhận thức, giáo dục đạo đức và sự
chuyển biến thái độ hành vi.
Như vậy các PPDH phải phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học
sinh có sự tổ chức và hướng dẫn đúng mức của giáo viên trong việc phát hiện và
giải quyết vấn đề của học sinh theo cá nhân hoặc học hợp tác theo nhóm sẽ góp
phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, học lẫn nhau từ đó tạo được niềm
vui và hứng thú trong học tập của học sinh.
Học hợp tác theo nhóm là một PPDH tích cực đã được nghiên cứu và áp dụng có
hiệu quả ở những nước phát triển Phương pháp này ở Việt Nam đã được chú trọng
nghiên cứu áp dụng trong đổi mới PPDH hiện nay. Tuy nhiên việc nghiên cứu mới
được thực hiện ở việc áp dụng các cấu trúc chung của hoạt động học hợp tác.
Với đặc tính của môn hóa học là một môn khoa học kết hợp giữa lý thuyết
và thực nghiệm học sinh có thể tự tìm tòi khám phá kiến thức hoặc làm việc cùng
nhau trong nhóm nhỏ dưới sự điều chỉnh và hướng dẫn của giáo viên thì việc áp
dụng PPDH theo nhóm nhỏ bằng hoạt động học hợp tác sẽ đem lại hiệu quả cao
trong các tiết học. Vì vậy chứng tôi chọn đề tài: “Áp dụng phương pháp dạy học
hợp tác theo nhóm nhỏ thông qua giảng dạy: Bài sự điện “SGK hoá học lớp 12
– Ban KHTN””.
II. Mục đích đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu áp dụng phương pháp HHT theo nhóm nhỏ vào việc tổ chức hoạt động dạy
học hợp tác cho học sinh THPT thông qua giảng dạy bài “ Sự điện phân SGK hoá học

lớp 12 – ban KHTN ” nhằm góp phần đổi mới PPDH hóa học theo hướng dạy học
tích cực.
Kế hoạch nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong năm hoc 2009 – 2010.
- Trao đổi, phối hợp với các đồng nghiệp về phương pháp và tiến hành bài dạy theo
phương pháp DHHT theo nhóm nhỏ (cách tổ chức, cách tiến hành bài giảng và cách
kiểm tra đánh giá), đồng thời dự giờ, trao đổi với các GV sau mỗi giờ dạy để rút kinh
nghiệm.
- Tiến hành chấm bài kiểm tra, xử lí, phân tích kết quả thực nghiệm để rút ra kết luận
việc áp dụng phương pháp DHHT theo nhóm nhỏ.
III. Nhiệm vụ đề tài
1. Nghiên cứu các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài
+ Phương hướng đổi mới PPDH hóa học.
+ Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ.
2. Nghiên cứu chương trình hóa học THPT chú trọng chương trình vô cơ lớp 12 THPT
– Ban KHTN.
3. Nghiên cứu một số cấu trúc học hợp tác theo nhóm nhỏ và khả năng vận dụng các
cấu trúc này trong việc tổ chức hoạt động học tập thông qua bài “ Sự điện phân SGK
hoá học lớp 12 – ban KHTN ”.
4. Xây dựng giáo án bài dạy có tổ chức hoạt động học hợp tác theo nhóm nhỏ.
5. Đánh giá sự phù hợp của các đề xuất và tính hiệu quả của phương pháp HHT.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học hóa học
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) đã xác định: phải khuyến khích tự học,
phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Định hướng này đã được pháp chế hóa trong luật Giáo dục điều 24.2, trong quyết
định số 16/2006/QĐ-BGDĐT: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích

cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối
tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả
năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS.
Đổi mới phương pháp học tập nhằm phát huy tối đa sự sáng tạo và năng lực tự
đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thí nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức
tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay… Chính vì thế trong thời gian gần đây Bộ Giáo dục
và Đào tạo khuyến khích GV sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm hoạt
động hoá người học.
2. Nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học hóa học
Sự chuyển đổi nền kinh tế của đất nước đòi hỏi sự đổi mới giáo dục
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước ta đã có những sự chuyển biến mạnh mẽ
cả về chất và lượng. Xu hướng phát triển xã hội, kinh tế đất nước đòi hỏi ngành giáo dục
phải đổi mới để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội phát triển: xã hội tri
thức. Xã hội tri thức là một xã hội trong đó khoa học công nghệ đóng vai trò là lực
lượng sản xuất trực tiếp. Xã hội tri thức được đặc trưng bới các đặc điểm sau:
- Tri thức là yếu tố then chốt của lực lượng kiến tạo xã hội hiện đại, lực lượng
sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
- Thông tin và tri thức tăng lên nhanh chóng và kéo theo sự lạc hậu nhanh của
tri thức và công nghệ cũ.
- Sự trao đổi thông tin và tri thức được toàn cầu hóa nhờ sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin.
- Cơ cấu xã hội thay đổi theo hướng đa dạng và linh hoạt
- Tổ chức và tính chất lao động nghề nghiệp được thay đổi người lao động luôn
phải thích nghi với những tri thức mới, công nghệ mới.
- Con người là yếu tố trung tâm trong xã hội tri thức, là chủ thể kiến tạo xã hội.
- Tri thức là một cơ sở để xác định vị trí xã hội, khả năng hành động, ảnh hưởng
mới đối với con người, cá thể.
- Giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc đào tạo con người, do đó đóng vai
trò then chốt trong sự phát triển xã hội.

Như vậy xã hội tri thức là xã hội toàn cầu hóa, trình độ giáo dục trở thành yếu tố
tranh đua quốc tế, mang lại lợi ích cho đất nước. Xã hội tri thức đã đặt ra cho giáo dục
những yêu cầu cơ bản cần đạt được, cụ thể là:
- Giáo dục cần giải quyết mâu thuẫn: tri thức ngày càng tăng nhanh mà thời gian
đào tạo thì có hạn nên luôn có sự đòi hỏi đổi mới nội dung và đổi mới PPDH chú trọng
bồi dưỡng PP tự học.
- Giáo dục cần đào tạo con người đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường lao
động và nghề nghiệp cũng như cuộc sống, có khả năng hòa nhập và cạnh tranh quốc tế.
- Các phẩm chất của người lao động mà giáo dục đào tạo cần đặc biệt chú ý
là: năng lực hành động; tính tự lực và trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc,
năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, khả năng học tập suốt đời.
Như vậy sự phát triển của xã hội tri thức đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới giáo dục
để phù hợp với xu thế chung của sự phát triển mọi mặt của đất nước, bắt kịp với xu
hướng phát triển mang tính toàn cầu hóa của thế giới.
Từ các yêu cầu trên mà giáo dục nước ta xác định cần có sự đổi mới toàn diện về
mục tiêu, nội dung, PPDH, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học.
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG
1. Thực trạng của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải đổi mới phương pháp dạy học
Nền giáo dục Việt Nam trong quá trình đổi mới của đất nước cũng đã có những
bước chuyển mình đáng kể. Song thực trạng giáo dục trong giai đoạn hiện nay vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, với sự phát triển ngày càng hiện đại
của giáo dục thế giới. Các phương pháp dạy học truyền thống tuy đã khẳng định được
những thành công nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Phổ biến vẫn là thuyết
trình thiên về truyền thụ kiến thức một chiều áp đặt. Thực trạng giáo dục hiện nay còn
tồn tại nhiều vấn đề như:
+ Học sinh học tập thụ động do còn thiếu động lực học tập, tâm lý ỷ lại nhà
trường, gia đình
+ Giáo viên còn dạy theo phương pháp thông báo, ít sử dụng các PPDH tích cực
+ Tiêu cực trong xã hội ảnh hưởng đến nhận thức và tâm lý thực dụng của HS…

+ Nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng, linh hoạt, sở thích của người
học cả về hệ thống, nội dung, PPDH, hình thức tổ chức dạy học
Như vậy thực trạng giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặt ra yêu cầu
cơ bản cho việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh
viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành
động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Yêu cầu quan trọng trong đổi
mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động,
năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong
cải cách PPDH trong nhà trường phổ thông.
2. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học
Với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực và xu thế hội nhập hiện nay thì đổi mới
phương pháp dạy học có thể hiểu theo các hướng sau:
- Là sự cải tiến, hoàn thiện các PPDH đang sử dụng để góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả của dạy học.
- Là việc bổ sung, phối hợp nhiều PPDH để khắc phục mặt hạn chế của các
PPDH đang sử dụng nhằm đạt được mục tiêu dạy học đề ra.
- Là sự thay đổi PPDH đang sử dụng bằng các PPDH mới tối ưu, kết hợp với
việc sử dụng các phương tiện truyền thông đa phương tiện; từ đó hình thành nên các
“kiểu” dạy - học mới với mong muốn đem lại hiệu quả cao hơn.
Định hướng đổi mới giáo dục đã được pháp chế hóa trong luật giáo dục (điều
24.2) đã đề cập ở trên. Phương hướng đổi mới PPDH cô đọng ở hai nội dung như sau:
+ Đổi mới giáo dục hướng đến việc phát huy tính tích cực chủ động, độc lập
sáng tạo trong nhận thức học tập của HS. Phát huy tính tích cực học tập của HS là
nguyên tắc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học.
+ Trong dạy học HS được coi là chủ thể hoạt động, GV là người tổ chức, hướng
dẫn, giúp đỡ HS trong quá trình tìm tòi thu nhận kiến thức.
Nguyên tắc này đã được nghiên cứu, phát triển mạnh mẽ trên thế giới và được
xác định là một trong những phương hướng đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam.
2.1 Cơ sở phương pháp luận cho việc đổi mới PPDH
Các quan điểm, tiếp cận làm cơ sở lí luận cho việc đổi mới PPDH gồm:

2.1.1 Dạy học lấy học sinh làm trung tâm
Bản chất của dạy học lấy HS làm trung tâm là:
- Đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học.
- Chú trọng đến phẩm chất, năng lực, nguyện vọng, hứng thú của mỗi người.
- Phát huy tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân để định hướng cho sự phát triển.
Tuy nhiên đổi mới theo hướng lấy học sinh làm trung tâm không có nghĩa là vai
trò của người thầy trở nên mờ nhạt. Trong một tài liệu giới thiệu khá đầy đủ về phương
pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tác giả R. Batliner đã khẳng định ngay ở
trang đầu: "giáo viên là yếu tố chủ chốt quyết định việc dạy và học có chất lượng".
2.1.2. Đổi mới PPDH theo hướng hoạt động hóa người học
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hóa người học dựa trên
quan điểm dạy học định hướng hành động. Đây là quan điểm dạy học nhằm làm cho
hoạt động trí óc và chân tay kết hợp với nhau chặt chẽ trong hoạt động học tập của HS.
Trong hoạt động học tập HS luôn có sự phối hợp chặt chẽ và cân đối giữa tư duy và
hành động, giữa lý thuyết và thực hành đồng thời vận dụng tốt kiến thức vào cuộc sống.
Vai trò của GV trong quan điểm đổi mới PPDH này cũng có những điểm khác
biệt so với các PPDH truyền thống.
Cụ thể vai trò và hoạt động của GV trong giờ học là: người thiết kế, ủy thác,
điều khiển và thể chế hóa.
- Người thiết kế: lập kế hoạch giờ học, thiết kế hoạt động học tập theo
mục đích, nội dung xác định và chuẩn bị phương tiện, dự kiến các hình thức
tổ chức dạy học
- Người ủy thác: biến ý tưởng, dự định, kế hoạch dạy học của mình thành các
nhiệm vụ học tập được HS chấp nhận và tự nguyện thực hiện một cách tự giác, tích cực.
- Người điều khiển: điều khiển các hoạt động học tập của HS, động viên trợ
giúp, đánh giá các hoạt động học tập của HS.
- Thể chế hóa: biến kiến thức riêng lẻ mang màu sắc cá nhân phụ thuộc
hoàn cảnh và thời gian của từng HS thành các tri thức khoa học của xã hội.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP
Để xây dựng phong cách học tập tự giác cho HS cần biến nhu cầu xã hội thành

nhu cầu nội tại của bản thân HS và phải tập luyện cho HS thông qua các hoạt động học
tập.
Nhằm góp phần vào việc đổi mới PPDH với phạm vi là một giáo viên dạy trung
học phổ thông tôi xin mạnh dạng việc áp dụng phương pháp dạy HHT thông qua giảng
dạy bài “ Sự điện phân SGK hoá học 12 – ban KHTN ”
3.1. Khái niệm dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ
Học tập mang tính hợp tác là một chiến lược giảng dạy trong đó người dạy sẽ tổ
chức cho người học thành những nhóm nhỏ để thực hiện các hoạt động như thảo luận,
đóng vai, giải quyết vấn đề… Mỗi thành viên không chỉ có trách nhiệm thực hiện các
hoạt động của nhóm mà còn phải có trách nhiệm hợp tác, giúp đỡ các thành viên trong
nhóm hoàn thành các hoạt động được giao.
Dạy học theo hoạt động hợp tác là một hình thức tổ chức dạy học, trong đó dưới
sự tổ chức và điều khiển của GV, HS được chia thành từng nhóm nhỏ liên kết lại với
nhau trong một hoạt động chung, với phương thức tác động qua lại của các thành viên,
bằng trí tuệ tập thể mà hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
Học hợp tác (HHT) là hình thức tổ chức hoạt động học tập có sự phụ thuộc lẫn
nhau của các thành viên trong nhóm để cùng làm việc hướng đến mục đích chung là
nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.
HHT trong nhóm là HS trong một nhóm cùng thực hiện một nhiệm vụ do
giáo viên giao cho để đạt được mục đích học tập của giờ học.
Phương pháp HHT cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ những băn
khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng phương pháp nhận thức mới.
Khi trao đổi, mỗi người nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, xác định
được những điều cần học hỏi thêm. Giờ học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ
không phải là sự tiếp thu thụ động từ GV.
Quan điểm học tập này yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực tiếp của học sinh vào
quá trình học tập, đồng thời yêu cầu học sinh phải làm việc cùng nhau để đạt được kết
quả học tập chung.
Học sinh học bằng cách làm chứ không học chỉ bằng cách nghe giáo viên giảng .
Quan điểm học tập này tạo nên môi trường hợp tác giữa thầy - trò, trò - trò, học sinh sẽ

là trung tâm của quá trình dạy học và giáo viên không độc chiếm diễn đàn. Đồng thời
quan điểm học tập này thể hiện tính dân chủ và dựa trên nguyên tắc tương hỗ bình
đẳng kiểu học hợp tác đang được áp dụng có hiệu quả ở tất cả các bậc học và xuất hiện
trong trong các môn học ở nhiều nước trên thế giới.
3.2. Cấu trúc của quá trình dạy học hợp tác theo nhóm
Một hoạt động học tập theo nhóm trong giờ học thường được tiến hành theo ba
bước như sau:
+ Làm việc chung cả lớp (tương tác theo nhóm)
- GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, tổ chức các nhóm làm việc, phân
bố thời gian hoạt động.
- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm: Để việc thảo luận hiệu quả GV cần xác
định mục đích, chỉ dẫn nhiệm vụ cần thực hiện, ấn định thời gian, HS phải hiểu yêu
cầu mục đích việc sắp làm, nắm các bước thực hiện và biết trước thời gian cần thực
hiện là bao lâu.
+ Làm việc theo nhóm (tương tác HS - HS trong nhóm):
- Các nhóm trao đổi trong nhóm để hiểu thấu nhiệm vụ phải làm.
- Phân công nhiệm vụ học tập cho từng cá nhân trong nhóm.
- Từng cá nhân làm việc độc lập.
- Từng cá nhân thông báo kết quả làm việc, trao đổi thống nhất trong nhóm về
kết quả nhiệm vụ được giao.
- Cử đại diện (hoặc phân công) trình bày kết quả làm việc của nhóm.
+ Thảo luận tổng kết trước toàn lớp (tương tác HS-HS) cả lớp:
- Đại diện các nhóm lần lượt báo cáo kết quả làm việc nhóm.
- Thảo luận đánh giá chung cả lớp.
- GV tổng kết đánh giá, đặt vấn đề nghiên cứu tiếp. Nếu kết quả thảo luận của
các nhóm chưa thống nhất giáo viên nêu vấn đề thảo luận chung cả lớp rồi mới đưa ra
kiến thức hoàn thiện cuối cùng cho HS, đồng thời đánh giá kết quả làm việc của các
nhóm.
Sơ đồ tóm tắt cấu trúc hoạt động tương tác giữa GV và HS trong quá trình dạy
học hợp tác theo nhóm được mô tả như sau:

Cấu trúc hoạt đông hợp tác theo nhóm nhỏ
3.3. Những yêu cầu cần đảm bảo để phát huy tính tích cực hợp tác làm việc
trong nhóm
Phân công nhóm học tập
+ Nhóm học tập có các đặc điểm:
- Là một đơn vị, một bộ phận của tập thể lớp học.
- Hoạt động của nhóm được thống nhất với nhau bởi cùng thực hiện một nhiệm
vụ học tập chung, đây vừa là nguyên nhân và cũng là điều kiện của nhóm học tập.
- Các thành viên trong nhóm không chỉ liên kết với nhau về mặt trách nhiệm mà
còn có mối liên hệ về tình cảm, đạo đức lối sống.
Như vậy, nhóm học tập là phương tiện để giáo viên chuyển các tác động dạy học đến
cá nhân học sinh.
Sự phân công nhóm học tập
Cách chia nhóm hợp lý được tiến hành theo một tiêu chuẩn nào đó như bài học
hoặc theo ý tưởng của giáo viên và cũng có thể hoàn toàn ngẫu nhiên, như vậy sự phân
nhóm cần đảm bảo sự linh hoạt theo ý tưởng, mục tiêu của giáo viên.
Ví dụ: Các nhóm từ 2-5 người là rất phổ biến, nhóm lớn hơn 4 người thì đòi hỏi
phải có người đứng đầu nhóm, các nhóm nhiều hơn 7 người trở nên càng chậm chạp và
hiện tượng "ăn theo" càng trở nên phổ biến trừ khi GV có sự phân công nhiệm vụ thật
cụ thể cho các em.
Phân công trách nhiệm trong nhóm
Phân công trách nhiệm trong nhóm cần rõ ràng, mỗi thành viên trong nhóm đều
phải làm việc tích cực không được ỷ lại vào các thành viên hiểu biết và năng động hơn,
các thành viên trong nhóm giúp đỡ lẫn nhau hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các
nhóm khác.
Sự phân công trách nhiệm cần được thay đổi để mỗi HS có thể phát huy vai trò
cá nhân và thực tập tất cả các nhiệm vụ của từng thành viên.
3. 4. Những ưu điểm của phương pháp hợp tác theo nhóm .
Dạy học hợp tác theo nhóm được đánh giá là PPDH tích cực có nhiều ưu điểm đó là:
a. Mang lại hiệu quả học tập cao

Dạy học hợp tác theo nhóm là hình thức dạy học vô cùng hiệu quả với nhiều
mục đích, nội dung khác nhau và với nhiều đối tượng HS khác nhau, với nhiều tính
cách khác nhau. Học hợp tác có hiệu quả cao vì:
Học hợp tác theo nhóm đã chuyển trách nhiệm phải hiểu được nội dung bài học
sang cho người học một cách tự nhiên và tạo ra động cơ thúc đẩy học sinh học tập vì
hoạt động trong nhóm có yếu tố thi đua. Khi học theo nhóm học sinh sẽ thảo luận xoay
quanh từng đề bài cụ thể. Hoạt động này không những lý thú mà còn tạo nhiều cơ hội
cho các em học hỏi. Người học sẽ phải xử lý tài liệu mới, sau đó tự mình tìm hiểu nó.
b. Phát triển kỹ năng hợp tác, kỹ năng xã hội cho học sinh
Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm giúp hình thành, phát triển kỹ năng
hợp tác làm việc và năng lực xã hội cho học sinh:
- Kỹ năng biết cộng tác làm việc là kỹ năng tối quan trọng đối với tất cả các
thiên hướng phát triển của từng cá nhân.
- Khi thực hiện các nhiệm vụ trong nhóm sẽ giúp cho HS có khả năng giao tiếp,
khả năng nhận thức để thực hiện các nhiệm vụ học tập, giải thích cho bạn bè làm phát
triển kĩ năng xã hội, kĩ năng hợp tác làm việc…
- Hoạt động tập thể nhóm sẽ làm cho từng học sinh quen dần với sự phân công
hợp tác trong lao động, học tập phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỉ luật ý thức cộng
đồng
- Học hợp tác theo nhóm tạo môi trường cho HS nhút nhát có điều kiện tham gia
xây dựng bài học, cải thiện quan hệ giữa các HS với nhau, tạo cho lớp học bầu không
khí tin cậy và gắn bó hơn. Hơn nữa hầu hết các hoạt động nhóm đều mang trong nó cơ
chế tự sửa lỗi và học sinh dạy lẫn nhau theo đó các lỗi hiểu sai đều được giải đáp mà
thường lại là trong không khí rất thoải mái.
c. Học hợp tác luôn tạo không khí học tập sôi nổi bình đẳng và gắn bó
Trong PPDHHT nổi lên mối quan hệ giao tiếp giữa HS với HS. Trong hoạt động nhóm
có sự trao đổi thảo luận để tự sửa lỗi, HS dạy lẫn nhau trong không khí thoải mải và
bình đẳng. Thông qua thảo luận, tranh luận mà ý kiến của mỗi cá nhân được điều chỉnh
qua đó mà người học tự nâng mình lên cả về kiến thức và ý thức học tập. Từ đó sẽ
giúp HS có cơ hội thuận lợi làm quen với nhau khơi dậy sự gắn bó trong tập thể làm

việc.
d. Học hợp tác giúp cho giáo viên có cơ hội tận dụng ý kiến và kinh nghiệm
của HS
Như vậy học hợp tác theo nhóm là một chiến lược dạy học mạnh mẽ và linh hoạt
có ưu điểm nổi bật là làm cho phương pháp này trở thành nét đặc trưng cơ bản của dạy
học hiện đại
3.5. Những hạn chế của học hợp tác theo nhóm
Dạy học hợp tác theo nhóm được nhiều nước áp dụng và thể hiện nhiều yếu tố
của PPDH tích cực. Song dạy học hợp tác theo nhóm còn có những hạn chế như:
+ Các nhóm có thể đi chệch hướng thảo luận do một cá nhân nào đó nếu cố tình đưa
ra những ý kiến điều khiển cả nhóm (sự chi phối nhóm, tách nhóm…)
+ Một số thành viên trong nhóm có thể ỷ lại, không làm việc, để mặc các thành
viên khác dẫn dắt cả nhóm hoặc thậm chí cả lớp nếu GV không theo dõi sát sao và yêu
cầu mọi thành viên trong nhóm phải có việc và có trách nhiệm hoàn thành công việc
(hiện tượng ăn theo).
+ Hoạt động nhóm cũng sẽ không có tác dụng khi giáo viên áp dụng cứng nhắc quá
thường xuyên hoặc thời gian hoạt động nhóm quá dài. Mỗi tiết học chỉ nên tổ chức 1 -
3 hoạt động nhóm mỗi hoạt động cần từ 5 - 10 phút. Tối đa một tiết học chỉ nên dành
15 phút để tổ chức hoạt động nhóm (thảo luận nhóm).
3.6. Quy trình thiết kế và tổ chức giờ dạy học hóa học theo phương pháp dạy học
hợp tác theo nhóm nhỏ
Từ cấu trúc chung của quá trình dạy học hợp tác theo nhóm chúng tôi thiết kế
quy trình tổ chức giờ học hóa học THPT và thể hiện ở sơ đồ sau
Quy trình tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm:
Sơ đồ quy trình tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm
3.7. Một số chú ý khi tổ chức dạy học hợp tác theo nhóm
1. Cần sử dụng thường xuyên phiếu học tập và bảng đánh giá kết quả làm việc của
từng nhóm, từng HS
2. Phân nhóm một cách hợp lý
3. Quản lý hoạt động nhóm hiệu quả

3.8. Áp dụng dạy học hợp tác theo nhóm thông qua giảng dạy bài: Sự điện phân
SGK hoá học 12 – ban KHTN.
Để tổ chức hoạt động theo cấu trúc trên đạt được hiệu quả cần chọn nội dung
kiến thức phù hợp đó là: các nội dung học tập là các phần kiến thức có thể tách biệt
nhau một cách tương đối, không phụ thuộc vào nhau (các kiến thức không thể suy luận
bằng các thao tác tư duy diễn dịch hay quy nạp ).
Từ quy trình trên chúng tôi tiến hành xây dựng cấu trúc hoạt động học hợp tác cho
nội dung bài: Sự điện phân
Nội dung 1: GV và HS cùng trao đổi thảo luận để nắm vững khái niệm sự điện phân,
các quá trình hoá học xảy ra ở các điện cực.
Nội dung 2: Tổ chức cho HS làm việc theo nhóm nhằm tìm hiểu sự điện phân các chất
điện li
1. GV nêu yêu cầu, nội dung cần nghiên cứu
- Nắm được các quá trình xảy ra trong các quá trình điện phân: NaCl nóng chảy, dung
dịch CuSO
4
với điện cực than chì (anốt trơ) và điện cực tan (anot tan)
- Viết được PTHH xảy ra trên các điện cực trong các quá trình điện phân và viết các
phương trình điện phân.
2.Tổ chức các nhóm
Mỗi nhóm từ 6 - 8 (HS (nhóm lớn) hoặc 2 - 3 HS sẽ nghiên cứu một phiếu học tập và
trở thành nhóm chuyên gia. Các nhóm chuyên gia làm việc để đưa ra câu trả lời cho
phiếu học tập của mình.
Phiếu học tập số 1: Điện phân muối nóng chảy
Câu 1: Quá trình nào xảy ra khi chưa có dòng điện chạy qua muối NaCl nóng chảy.
Câu 2: Khi có dòng điện một chiều chạy qua muối NaCl nóng chảy trên các điện cực
xảy ra những PTHH nào?
Đáp án: Khi NaCl nóng chảy có các quá trình điện li
NaCl → Na
+

+ Cl
-
Khi có dòng điện các ion về các điện cực
Ở cực dương (anot) xảy ra sự oxi hóa ion Cl
-
2Cl
-
→ Cl
2
+ 2e
Ở cực âm (catot) xảy ra sự khử ion Na
+
2Na
+
(l)
+ 2e → 2Na
(l)
Sơ đồ điện phân Catot (-) ← NaCl → Anot (+)
2Na
+
+ 2e → 2Na 2Cl
-
→ Cl
2
+ 2e
Phương trình của sự điện phân là: 2NaCl
dpnc
→
2Na + Cl
2

Phiếu học tập số 2: Điện phân dung dịch CuSO
4
với điện cực than chì.
HS tiến hành thí nghiệm và cho biết:
Câu 1: Vì sao khi điện phân dung dịch với điện cực trơ thì lại thu được đồng ở catot và
oxi thoát ra ở anot giải thích?
Câu 2: Khi điện phân dung dịch CuSO
4
với điện cực trơ thì pH của dung dịch có thay
đổi không? Vì sao?
Đáp án
Trong dung dịch CuSO
4
có các quá trình điện li
CuSO
4
→ Cu
2+
+ SO
4
2-
Khi có dòng điện đi vào dung dịch, ion SO
2
4

khi di chuyển về anot, ion Cu
2+
di chuyển
về catot.
- Ở anot (cực dương) có thể xảy ra sự oxi hóa SO

4
2-
hoặc phân tử H
2
O vì H
2
O dễ
bị oxi hóa hơn và sản phẩm thu được là khí oxi:
2H
2
O loãng → O
2
(k) + 4H
+
(dd) + 4e
- Ở catot (cực âm) có thể xảy ra sự khử ion Cu
2+
hoặc H
2
O nhưng Cu
2+
dễ bị khử
hóa thành kim loại Cu bám trên catot
Cu
2+
+ 2e → Cu
Sơ đồ điện phân: Catot (-) ← CuSO
4
← Anot (+)
Cu

2+
, H
2
O H
2
O H
2
O, SO
4
2-
Cu
2+
+ 2e → Cu 2H
2
O → O
2
+ 4H
+
+ 4e
Phương trình điện phân: 2CuSO
4
+ 2H
2
O
dp
→
2Cu + O
2
+ 2H
2

SO
4
Vì vậy khi điện phân dung dịch CuSO
4
ở catot thu được đồng còn ở anot thu được khí
oxi.
Sau khi điện phân pH của dung dịch có thay đổi.
Phiếu học tập số 3: Sự điện phân dung dịch CuSO
4
với anot bằng đồng
Câu 1: Vì sao khi điện phân dung dịch CuSO
4
với anot bằng đồng thì nồng độ của
dung dịch CuSO
4
không thay đổi.
Câu 2: Quan niệm về anot và catot trong pin điện hoá và trong bình điện phân có gì
giống và khác nhau
Đáp án:
Câu 1: Nồng độ dung dịch CuSO
4
không thay đổi vì
- Ở anot nguyên tử Cu oxi hóa thành Cu
2+
đi vào dung dịch.
Cu
(r)
→ Cu
2+


(dd)
+ 2e
- Ở anot ion Cu
2+
bị khử thành nguyên tử Cu bám trên bề mặt catot.
Cu
2+
(dd)
+ 2e → Cu
(l)
Phương trình điện phân: Cu
(r)
+ Cu
2+
(dd)
→ Cu
2+

(dd)
+ Cu
(l)
Câu 2:
So sánh Catot (sự khử) Anot (Sự oxi hoá)
Pin điện hoá Cực dương Cực âm
Bình điện phân Cực âm Cực dương
* Thời gian cho các nhóm chuyên gia tìm hiểu lại những kiến thức liên quan và hoàn
thành nội dung phiếu học tập (5 phút).
- Thảo luận các nhóm hợp tác: các nhóm chuyên gia trình bày những phần nội dung kiến
thức của mình để đảm bảo cả nhóm đều nắm được nội dung ở cả 3 phiếu học tập. Các
thành viên trong nhóm chú ý lắng nghe thảo luận đưa ra những vấn đề chưa rõ để các

nhóm chuyên gia trả lời, vì nội dung GV đưa ra sẽ được vận dụng trong bài kiểm tra cá
nhân. Thảo luận nhóm hợp tác là 5 phút.
- GV quan sát giúp đỡ các nhóm thảo luận (nếu cần) và nhắc nhở về thời gian.
- Báo cáo kết quả hoạt động nhóm:
Tổ chức thảo luận chung cả lớp giữa các nhóm với nhau (10 phút)
GV sẽ gọi bất kỳ thành viên nào đó của bất kỳ các nhóm trả lời các nội dung
trong phiếu học tập lần lượt cho đến hết, ở từng vấn đề có thể hỏi thêm các kiến thức
liên quan, động viên HS nhóm khác tích cực hỏi những nội dung chưa nắm rõ, hiểu kỹ
để đảm bảo kiến thức chuẩn bị cho bài kiểm tra cá nhân ngay sau đó.
Trong khi các nhóm thảo luận GV thống nhất ý kiến, viết bảng hoặc trình chiếu
những kiến thức cơ bản cần nhớ (tóm tắt theo phiếu học tập).
4. Tổ chức cho HS làm bài kiểm tra cá nhân (15 phút) để đánh giá kết quả, có thể làm
vào giấy hoặc vở bài tập chuyên dùng cho hoạt động nhóm.
Đề kiểm tra 15 phút
Câu 1: Bản chất của sự điện phân? Cho biết sự khác nhau giữa các quá trình xảy ra
trong bình điện phân và trong pin điện hoá?
Câu 2: Khi điện phân KCl nóng chảy và điện phân dung dịch KCl thì sau sản phẩm
thu được là khác nhau?
Câu 3: Vì sao khi điện phân dung dịch H
2
SO
4
và điện phân dung dịch KNO
3
sản phẩm
thu được là giống nhau?
Đáp án
Câu 1: Bản chất sự điện phân là quá trình oxi hoá khử xảy ra trên bề mặt điện cực khi
có dòng điện một chiều đi qua chất điện li nóng chảy hoặc dung dịch chất điện li.
Điện phân KCl nóng chảy

KCl
nc
→ K
+
+ Cl
-
(1,5 điểm)
catot K
+
anotCl
-

K
+
+ e → K 2Cl
-
→ Cl
2
+ 2.1e
Điện phân dung dịch KCl

KCl
(dd)
→ K
+
(dd)
+ Cl
+
(dd)
(1,5 điểm)

catot: K
+
, H
2
O anot: Cl
-
, H
2
O
2H
2
O + 2e → H
2
+ 2OH
-

2Cl
-
→ Cl
2
+2.1e
Như vậy ở catot xảy ra sự khử những chất khác nhau do đó phương trình điện phân
khác nhau.
Câu 3:
KNO
3
→ K
+
+ NO
3

-
H
2
SO
4
→ 2H
+
+ SO
4
2-
Catot: K
+
, H
2
O Anot: NO
3
-
, H
2
O Catot: H
+
, H
2
O Anot: SO
4
2-
, H
2
O
Ở catot các ion H

+
hoặc phân tử H
2
O bị khử tạo khí H
2.
2H
2
O + 2e → H
2
+ 2OH
-
2H
+
+ 2e → H
2
Ở anot H
2
O bị oxi hóa giải phóng O
2
.
2H
2
O → O
2
+ 4H
+
+ 4e
Vì vậy sản phẩm điện phân thu được là giống nhau.
5. GV thu bài kiểm tra hoặc vở bài tập để kiểm tra chấm điểm TBC của cả lớp sau đó
tính điểm cố gắng của cả nhóm. Thông báo kết quả vào giờ học sau.

GIÁO ÁN BÀI: SỰ ĐIỆN PHÂN.
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
- Biết sự điện phân là gì?
- Biết những ứng dụng của sự điện phân trong công nghiệp.
Trọng tâm:
- Hiểu sự chuyển dịch của các ion trong quá trình điện phân: NaCl nóng chảy, dung
dịch CuSO
4
với điện cực trơ và điện cực tan.
- Hiểu những phản ứng hóa học xảy ra trên các điện cực trong quá trình điện phân và
viết được phương trình điện phân.
2. kĩ năng:
- Thực hiện được một sốthí nghiệm điện phân đơn giản: đpdd CuSO
4
với anot trơ và
anot tan.
- Biết xác định tên các điện cực trong bình điện phân.
- Viết được phương trình hóa học của phản ứng xảy ra trên các điện cực và viết được
phương trình điện phân.
- Giải được các bài toán liên quan đến sự điện phân.
II. CHUẨN BỊ:
* Thí nghiệm trực quan:
Hóa chất: dung dịch CuSO
4
0,5M
Dụng cụ: Ống hình chữ U, nút các điện cực, nguồn điện một chiếu cùng với biến trở,
dây nối các điện cực.
* Một số tranh vẽ về sự điện phân.
III. HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY:

1. Ổn định lớp:
2. Bài mới
HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS NỘI DUNG BÀI HỌC
Hoạt động 1:
Các kiến thức cần nắm vững
1. GV nêu yêu cầu, nội dung cần
nghiên cứu.
2. Tổ chức các nhóm học tập: mỗi
nhóm lớn gồm 6 - 8 HS hoặc nhóm
nhỏ 2- 4 Hs sẽ nghiên cứu một
phiếu học tập và trở thành nhóm
chuyên gia.
Các nhóm chuyên gia tìm hiểu kiến
thức liên quan, trả lời nội dung trong
phiếu học tập được giao.
3. GV tổ chức cho HS thảo luận
nhóm lớn (10 phút).
HS: thảo luận nhóm, các nhóm
I. KHÁI NIỆM
Nêu khái niệm:
Sự điện phân là quá trình oxi hóa khử xảy ra
trên bề mặt các điện cực khi có dòng điện một
chiều đi qua chất điện li nóng chảy hoặc dung
dịch chất điện li.
II. SỰ ĐIỆN PHÂN CÁC CHẤT ĐIỆN LI
1. Sự điện phân NaCl nóng chảy
Khi có dòng điện một chiều chạy qua.
Cực dương (anot) diễn ra sự oxi hóa.
Cực âm (catot) diễn ra sự khử.
Quá trình oxi hoá-khử được biểu diễn

Na
+
+ 1e → Na 2Cl
-
-2e → Cl
2
Phương trình điện phân
2. Sự điện phân dd CuSO
4
:
a) Điện phân dd CuSO
4
với các điện cực
trơ ( graphit)
* Khi cho dòng điện một chiều đi qua có hiện
tượng:
- ở catot: kim loại Cu bám vào điện cực.
chuyên gia trình bày những phần nội
dung của mình để đảm bảo các thành
viên trong một nhóm đều hiểu tất cả
nội dung bài học, giải đáp, trao đổi
những vấn đề chưa rõ. Báo cáo kết
quả hoạt động nhóm (15 phút).
- Tổ chức thảo luận chung cả lớp
giữa các nhóm với nhau.
- GV gọi bất kỳ thành viên nào đó
trong nhóm trả lời câu hỏi của GV
hoặc yêu cầu HS ở các nhóm khác
đặt các câu hỏi có liên quan.
- GV sẽ hoàn thiện dần nội dung bài

học bằng phương pháp trình chiếu
dưới sự đóng góp ý kiến của các
nhóm.
4. Kiểm tra đánh giá kết quả hoạt
- ở anot: Bọt khí O
2
thoát ra.
* Ở Catot có thể xảy ra sự khử ion Cu
2+
hoặc
H
2
O.Xét thế điện cực chuẩn:
E
0
(Cu
2+
/Cu) = 0,34 V; E
0
(H
2
O/H
2
)= - 0,83 V.
Vì vậy ở đây xảy ra sự khử các ion Cu
2+
thành
Cu bám trên catot: Cu
2+
+ 2e → Cu

* Ở Anot: Có thể xảy ra sự oxi hoá các ion
SO
4
2-
hoặc H
2
O.Xét thế điện cực chuẩn
E
0
(H
2
O/O
2
) = -0,83V; E
0
(SO
4
2-
/H
2
O)= 1,7V.
H
2
O dễ bị oxi hóa sinh ra khí O
2
ở anot:
2H
2
O → O
2

+ 4 H
+
+ 4e
* Cực (-) ← CuSO
4
→ Cực (+)
(H
2
O)
Cu
2+
, H
2
O H
2
O, SO
4
2-
Cu
2+
+ 2e → Cu 2H
2
O → O
2
+ 4 H
+
+ 4e
* Phương trình điện phân
Điện phân dd CuSO
4

với anot đồng (anot tan) :
Ở anot: Nguyên tử Cu bị oxi hóa thành ion
Cu
2+
đi vào dung dịch: Cu
(r)
→Cu
2+

(dd)
+ 2e.
Anot dần dần bị hòa tan.
Ở catot ion Cu
2+
bi khử thành Cu bám trên bề
mặt catot:
Cu
2+

(dd)
+ 2e → Cu
(r)
Phương trình điện phân:
anotCu
(r)
+ Cu
2+

(dd)
Cu

2+

(dd)
+ Cu (r)catot

động nhóm (5 phút).
- Gv tổ chức cho HS làm bài kiểm
tra cá nhân (5 phút) vào giấy hoặc
vở bài tập chuyên dùng cho hoạt
động nhóm.
5. GV chiếu đáp án cho HS tự chấm,
rồi thu lại chấm lại điểm, tính điểm
cố gắng của các nhóm theo cách tính
của cấu trúc. Thông báo kết quả vào
giờ học sau.
III. ỨNG DỤNG CỦA SỰ ĐIỆN PHÂN
1. Điều chế kim loại.
2. Điều chế một số phi kim (H
2
; O
2
)
3. Điều chế một số loại hợp chất (KMnO
4
,
NaOH, H
2
O, nước giaven )
4. Tinh chế một số kim loại: Cu, Pb, Zn, Fe,
Ag, Au

5. Mạ điện
3.9. KẾT QUẢ
Để có được kết quả như trên chúng tôi đã tiến hành thực nghiêm sư phạm để đánh giá
khả năng vận dụng phương pháp DHHT theo nhóm nhỏ trong day học hoá học và hiệu
quả của các đề xuất về tổ chức hoạt động học hợp tác trong giảng dạy hoá học
3.9.1. Chuẩn bị thực nghiệm
*Nguyên tắc lựa chọn đối tượng thực nghiệm:
- Lựa chọn HS các lớp 12 – Ban KHTN tương đương nhau về chất lượng học tập ở
trường THPT đã chọn.
- Lựa chọn cặp lớp đối chứng và lớp thực nghiệm theo các yêu cầu tương đương nhau
về các mặt:
+ Số lượng HS, độ tuổi.
+ Chất lượng học tập nói chung và môn hoá học nói riêng.
+ Lớp thực nghiệm, lớp đối chứng do cùng một giáo viên phụ trách.
+ Thực hiện cùng một bài dạy theo hai phương pháp khác nhau: Lớp thực
nghiệm dạy theo phương pháp DHHT, lớp đối chứng dạy theo phương pháp của GV
thường sử dụng.
* Trên cơ sở các yêu cầu đã nêu chúng tôi chọn các lớp thực nghiệm - đối chứng theo
bảng
ST Giáo viên dạy
Lớp thực nghiệm Lớp đối chứng
Phạm Thị Ngọc Huyền Lớp Sĩ số Lớp Sĩ số
12A1 37 12A2 36
3.9.2. Tiến hành thực nghiệm
Trước khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi đã tổ chức gặp gỡ và trao đổi với các giáo
viên dạy thực nghiệm về các vấn đề sau:
- Soạn, in sẵn phiếu điều tra kiến thức, giáo án lên lớp nội dung đề kiểm tra và các
phương án triển khai kế hoạch giảng dạy để giáo viên nghiên cứu trước.
- Sau đó tiến hành trao đổi kĩ lưỡng, cẩn thận với các giáo viên dạy lớp thực nghiệm về
phương pháp tiến hành bài giảng, cách thức tổ chức giờ học theo phương pháp DHHT,

dự đoán một số tình huống có thể xảy ra trong giờ học và cách giải quyết.
Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm đánh giá trong năm học 2009 – 2010 tại trường
THPT với số lượng lớp thực nghiệm là 1 lớp.
3.9.3. Kết quả thực nghiệm
3.9.3.1. Kết quả điều tra HS
Chúng tôi đã thu được 37 phiếu phản hồi của HS từ 2 lớp dạy của nhà trường. Kết quả
như sau:
Ý kiến của HS về giờ học hoá học có sử dụng phương
pháp DHHT
Số HS Tỉ lệ %
Rất thích 30 81,08
Thích 6 16,21
Bình thường 1 0,2
Không thích 0 0
Kết quả thu được về lí do sở thích của phương pháp học này, đa số các HS đều cho
rằng phương pháp đã giúp cho các em được tranh luận, thảo luận và được làm thí
nghiệm hoá học.
Kết quả câu 2: Nhận xét phần tổ chức giáo viên trong tiết học của HS.
Điều thích: Đạt hiệu quả của tiết học, các em được thảo luận, dễ hiểu, nắm bắt được
kiến thức của bài học.
Điều chưa hài lòng: Thời gian cho hoạt động nhóm ít nên một vài HS không thực hiện
kịp các nội dung trong phiếu học tập.
Kết quả câu 3: Học tập theo PPDH hợp tác các em gặp những thuận lợi, khó khăn gì ?
- Thuận lợi: Mỗi HS được rèn luyện cách trình bày trước đám đông, tinh thần trách
nhiệm đối với nhóm. Đặc biệt HS kém cũng hiểu được bài và mang điểm về cho nhóm,
giúp các em không tự ti, mặc cảm trong học tập, kích thích hứng thú học tập của các
em.
- Khó khăn: Trình độ giữa các thành viên, phát biểu ý kiến đóng góp cho nhóm.
3.9.3.2. Kết quả của bài kiểm tra của tiết dạy thực nghiệm
Bài kiểm

tra
Lớp Số
HS
Điểm x
i
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
ĐC 36 0 1 2 4 2 5 7 5 9 2 1
TN 37 0 0 0 0 1 2 3 5 13 8 5
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
110
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
§C
TN
Đồ thị biểu diễn kết quả bài kiểm tra thông qua tiết dạy thực nghiệm và tiết dạy
đối chứng
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận

×