Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Cảm thức thời gian trong thơ Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.03 KB, 27 trang )

2014-2015
Họ và tên: Hoàng Mai Phương
Lớp: 11 Văn 2
Trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong
2014-2015
Chuyên đề Thơ Mới
Cảm thức thời gian trong thơ Xuân Diệu
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Chủ nghĩa lãng mạn, ra đời từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ban
đầu là chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và sau đó là chủ nghĩa lãng mạn tích cực,
đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với các nhà văn hiện thực khi đó và cả sau
này nữa. Một trong những thành tựu của chủ nghĩa lãng mạn hính là thơ ca
trữ tình. Georges Duhamel nhận xét: "Phát xuất từ tâm hồn cá nhân, thơ trữ
tình tỏa ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ tình không chỉ là
đặc tính của một loại thơ, đối với tính nhạy cảm của con người hiện đại, nó
là thực chất, là điều kiện cần và đủ của thơ ca.” Thi đàn thơ Việt Nam giai
đoạn từ đầu thế kỉ X đến Cách mạng Tháng Tám 1945 - một giai đoạn đánh
dấu quá trình lột xác chuyển mình của thơ ca dân tộc trên con đừờng hiện
đại hóa, đã lĩnh hội và tiếp thu một cách xuất sắc thể loại này với “Thơ
Mới”.
Trong vòng chưa đầy nửa thế kỉ, chưa bao giờ người ta chứng kiến
một bước chuyển mình nhanh và mau lẹ tới vậy trong suốt lịch sử quá trình
phát triển của văn học dân tộc. Tiếp xúc với làn gió Tây phương mới mẻ lạ
kì, “người thanh niên Việt Nam được dịp ngó trời cao đất rộng, nhưng cũng
nhân đó mà cảm thấy cái thê lương của vũ trụ, cái bi đát của kiếp người”,
mang tới một cơn ba đào khuấy đảo cả thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ với
“những khuôn khổ nghìn năm không di dịch” một nền thơ đã có sự đổi mới
về thi hứng lẫn thi pháp – Thơ Mới. Đây chính là lúc Chủ nghĩa lãng mạng,
với việc đề cao chủ nghĩa cá nhân thực sự có những thành tựu rực rỡ. Lần
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2


1
2014-2015
đầu tiên, những ý thức cá nhân, những quan điểm, những khuynh hướng
thảm mỹ, xúc cảm, con mắt cá nhân được đề cao và được xem như đích đến
thiết yếu của văn chương. Thơ Mới trở thành một hiện tượng văn học có tính
lịch sử, một cuộc vận động đổi mới về văn chương có phần lý thuyết và thực
hành, có người khởi xướng về quan niệm và có nhà thơ sáng tác đi đến
khẳng định thành tựu với những tác phẩm có giá trị trong một giai đoạn lịch
sử văn học nhất định. Một trong những đóng góp to lớn của Thơ Mới chính
là sự phát triển ý thức về “cái tôi” cá nhân: “Sự xuất hiện ý thức về cái tôi cá
nhân là một bước tiến quan trọng trong hành trình tư tưởng và nghệ thuật
của nhân loại. Bởi vì sáng tạo nghệ thuật mang tính đặc thù, đó là sự sáng
tạo của một cá nhân Cho nên sự giải phóng bản ngã, giải phóng cái tôi của
chủ thể sáng tạo sẽ phát huy khả năng sáng tạo của nghệ sĩ, làm xuất hiện
nhiều phong cách cá nhân”
Và giữa lúc hoang mang trong những niềm đam mê không được thỏa
mãn, sự luyến tiếc não nùng, sự thức giấc, bừng tỉnh ngộ, quay cuồng trong
nỗi buồn, nỗi bất hạnh, cái chết, và cả sự tự do… ta chợt thấy “một nguồn
sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” - hồn thơ Xuân
Diệu - một trong các hiện tượng của dân tộc. Chàng thi sĩ Xuân Diệu - với
những tư tưởng mới mẻ đại diện cho thế hệ trẻ cấp tiến bấy giờ - đã góp vào
văn mạch dân tộc một “cái tôi” dám yêu và sống hết mình, dám tỏ bày
những quan điểm, suy nghĩ và tình cảm của con tim, và khao khát giải phóng
từ bỏ những quan niệm cố hữu lạc hậu của một nền Văn học đã qua nay chỉ
còn vang bóng. Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam đã áp dụng
thuyết hiện sinh vào thi ca - xuất hiện và đã chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi
đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ, gạt bỏ
những giấc mộng sầu man mác của Lưu Trọng Lư, hoài bão mơ hồ trong thơ
Thế Lữ, Xuân Diệu thẳng thắn, dứt khoát và say sưa phát biểu những ham
muốn riêng tư, những khao khát trần thế của mình. Với tiếng thơ của một

con người trẻ tuổi và trẻ lòng lúc bấy giờ, Xuân Diệu bồng bột biết bao
trước cuộc sống, trao cả lòng mình hồn mình cho nàng tiên của sự sống, yêu
đến say đắm, thiết tha đến vội vàng, và khát khao đến cuồng si, mãnh liệt.
Và bởi thế, hơn ai hết, Xuân Diệu nhận thức rõ nét đế đớn đau, khắc nghiệt
giá trị của thời gian, của thời khắc tuổi trẻ. Đỗ Lai Thúy cũng đã từng khẳng
định, chỉ với “con – mắt – thời – gian” của Xuân Diệu, thời gian mới trở
thành một nỗi ám ảnh.
Lịch sử vấn đề:

Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
2
2014-2015
Nhắc tới Xuân Diệu, bên cạnh nhớ tới một nhà thơ “mới nhất trong
các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) hay “người mang đến cho thơ mới nhiều cái
mới nhất” (Vũ Ngọc Phan), ta vẫn thường nói đến cái nồng nàn, tha thiết
trong cảm xúc thơ – điều đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối nghĩ, lối cảm của
ông trước những nguồn cảm hứng thi ca. Và thời gian cũng là một trong
những nguồn cảm hứng chịu ảnh hưởng từ cảm quan ấy của Xuân Diệu. Bàn
về cái nhìn của Xuân Diệu về thời gian và yếu tố thời gian hiện lên trong thơ
Xuân Diệu không phải là một đề tài xa lạ.
Chu Văn Sơn trong “Phân tích bình giảng tác phẩm Văn học 11 Nâng
Cao” cũng đã nêu lên được cảm thức thời gian của Xuân Diệu qua tác phẩm
“Vội vàng”. Tuy nhiên, cảm thức ấy chỉ được nhìn nhận, gói gọn trong một
tác phẩm, chưa mang tính khái quát cao và tạo được tính thuyết phục.
Tương tự, bài viết “Cảm thức thời gian và lòng yêu đời, ham sống
trong thơ Xuân Diệu” đã đề cập tới khát vọng làm chủ thời gian trong thơ
ông, nhưng mới chỉ xét trong phạm vi ba bài thơ “Thơ duyên”, “Vội vàng”
và “Đây mùa thu tới”.
Đầy đủ hơn cả có lẽ là Đỗ Lai Thúy với bài viết “Xuân Diệu, nỗi ám
ảnh thời gian”, với một hệ thống luận điểm chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục và dẫn

chứng phong phú.
Qua đó, có thể thấy được, Xuân Diệu và cảm thức thời gian trong thơ
ông thực sự là một mảnh đề tài hấp dẫn, thú vị, khơi gợi nhiều hứng thú cho
người đọc.
Mục đích nghiên cứu:
Bài viết này sẽ tổng hợp đầy đủ, trọn vẹn những cảm thức về thời gian
trong thơ Xuân Diệu qua việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những tác phẩm
đặc sắc của ông. Qua đó làm rõ được một cách có hệ thống phong cách nghệ
thuật, quan điểm, tư tưởng cũng như tài năng và những đóng góp to lớn của
Xuân Diệu đối với thơ ca Việt Nam nói riêng và Văn học nước nhà nói
chung.
NỘI DUNG
1. Những khái niệm – lý thuyết chung về thời gian:
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
3
2014-2015
Một số từ điển định nghĩa rằng, “thời gian” là một hình thức tồn tại cơ
bản của vật chất diễn biến một chiều theo ba trạng thái là quá khứ, hiện tại
và tương lai.
Với các nhà Vật lý, thời gian là thứ mà có thể đo được chính xác bằng
một chiếc đồng hồ. Các nhà Toán học lại quan niệm thời gian một chiều
được xem là liên tục, nhưng có thể chia thành các “thời khắc” giống như
từng tấm ảnh của một cuộn phim.
Có thể thấy, một khái niệm chính xác về thời gian là một thách thức
lớn đối với mọi lĩnh vực. Chỉ dựa vào những khái niệm trên, ta đã có thể
hiểu được rằng “thời gian” là một khái niệm rất khó định nghĩa, khó hiểu,
khó hình dung, và với mỗi cá thể, mỗi cách nhìn khác nhau, cảm thức về
“thời gian” lại được thể hiện theo một cách khác nhau. Với Newton, “Thời
gian là độc nhất, tuyệt đối và có giá trị phổ quát khắp mọi nơi.” Còn Einstein
lại cho rằng: “Thời gian trôi đi chỉ là ảo ảnh mọi khác biệt giữa quá khứ,

hiện tại; tương lai chỉ là những ảo ảnh dai dẳng.”
Theo giáo sư Trịnh Xuân Thuận – một nhà vật lý thiên văn học nổi
tiếng người Việt quốc tịch Mỹ đã nói rằng: “các vấn đề về thới gian và
phương hướng vận động của nó còn lâu mới được giải quyết và còn bị bao
bọc trong môt màn sương mù dày đặc” và phân loại thời gian thành hai loại:
thời gian vật lý - thời gian khách quan, và thời gian tâm lý - thời gian chủ
quan, phụ thuộc vào ý thức con người. Phương Đông ta, triết lý nhà Phật
quan niệm thời gian không phải một thực tại cứu kính, nó không tồn tại tách
biệt hiện tượng và người quan sát. Như trong một bài viết, Minh Chi đã nói
đến một ý nghĩa khác : “thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan của nhận
thức trực cảm của chúng ta, nó không tồn tại ở ngoài chủ thể.” Ý nghĩa này
về thời gian, đặt trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, đã được thể hiện rõ nét
hơn cả. Văn chương nói riêng và thơ ca nói chung, suy cho cùng đều xuất
phát từ tiếng lòng, cảm xúc, tình cảm của con người. Mà qua lăng kính tâm
hồn, bất cứ khái niệm, thực thể, hiện tượng nào đều không bị bó buộc, vạn
vật đều có thể biến tính, biến hình và được cảm thức theo những cách khác
nhau. Thời gian cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Thời gian qua ngòi bút
nhà văn hoàn toàn có thể phá bỏ quy luật vận động vốn dĩ của nó, đảo lộn
trình tự hoặc bỏ qua một hoặc hai ba chiều vận động vốn có của nó. Đó là
cách một nhà văn làm ngưng đọng một khoảnh khắc, kéo dài và nới rộng nó
ra; cũng như nén lại, co vào một khoảng thời gian một trăm năm đến một thế
kỉ. Với thơ ca – nơi người nghệ sĩ gửi gắm vào đó tất cả tình cảm, cảm xúc
của mình với khát vọng tạo dựng một thế giớ ichủ quan đầy hình ảnh, thì
cảm thức về thời gian gắn liền với cảm thụ của nhà thơ trước cuộc đời cũng
như ý nghĩa chung về cuộc sống nhân sinh. Niềm rung động của nhà thơ với
đời càng dạt dào, nỗi lòng với cõi đời càng thiết tha bao nhiêu, thì những
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
4
2014-2015
cảm thức trước mỗi khoảnh khắc lại càng trở nên tinh tế, mãnh liệt và linh

diệu bấy nhiêu.
2. Những quan điểm về thời gian trước Xuân Diệu:
“Con người là một sinh vật duy nhất biết mình phải chết”. Lời nói đó
của một triết gia phản ánh nỗi ám ảnh, day dứt của con người về sự sống và
cái chết, cũng là những ám ảnh, day dứt về thời gian. Thời gian trôi qua vô
hình nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong các biến cố lịch sử, trong các thành
quả của nhân loại. Nó có quan hệ gắn bó với con người, bởi con người luôn
sống và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định của lịch sử.
Con người thời trung đại với quan niệm “Thiên nhân nhất thể” đã có
những quan niệm thời gian, theo chu kì, theo tuần, thời gian như một vòng
tròn lặp lại năm này qua năm khác đến, tựa như một sự xoay vần vĩnh viễn
không điểm dừng:
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Thời gian của một năm cũng là vĩnh viễn bởi nó ra đi rồi quay trở lại:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
(Tự tình II - Hồ Xuân Hương)
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Theo thuyết tuần hoàn, giờ qua giờ, ngày nối ngày, năm lại năm, thời
gian không có điểm dừng, nó trôi mãi trong khoảng không vô định của vũ
trụ. Bởi thế, con người trước thời gian bắt đầu nảy sinh lãnh đạm, hờ hững,
bình thản trước sự chảy trôi của thời gian. Mùa xuân và hoa mai là một trong
những thể nghiệm của người đời, là bước đi của thời gian vô hạn trong
không gian hữu hạn. Trong “Bài cáo tật thị chúng” Mãn Giác Thiền sư đã
lấy hình ảnh xuân đến xuân đi, hoa tàn hoa nở là một quy luật của tự nhiên,
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
5

2014-2015
một định luật hiển nhiên của cuộc sống, biểu lộ tâm thế của nhà sư trước quy
luật sinh, tử ở cõi nhân gian, cái tịch diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ.
Mùa xuân cũng như sự sống thiên nhiên chuyến biến bất tận: "xuân
qua" rồi "xuân tới", "hoa nở" rồi "hoa tàn" Mùa xuân là vĩnh hằng. Cỏ cây,
trăm hoa cũng như vạn vật, con người đều bị chi phối theo quy luật khắc
nghiệt của tự nhiên:
Xuân qua, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Bước đi của mùa xuân "qua tới", cũng như trăm hoa "rụng nở",
một lối nói đầy cảm xúc, làm cho thơ vốn khô khan đã trở thành câu thơ đẹp
và hay.
Trong cuộc sống vốn vận động theo thời gian "Trước mắt việc đi
mãi ". Con người, có sinh tất có tử, lúc khoẻ mạnh ắt có lúc ốm đau, bệnh
tật, có tuổi hoa niên trẻ tráng tất cái già sẽ đến. Quy luật cuộc sống là như
thế, Đó là lẽ thường tình, có gì đáng sợ, đáng lo bởi “Thác là thể phách, còn
là tinh anh” :
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Hai câu trên nói lên sự tuần hoàn của bốn mùa, tiêu biểu là sự chuyển
vần của mùa xuân. Mỗi độ xuân về, trăm hoa nở đua sắc khoe hương. Hình
ảnh "trăm hoa cười" tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ, cho vẻ đẹp của cây
cỏ thiên nhiên và mùa xuân. Và khi mùa xuân đi qua, ngày tháng sẽ trôi
nhanh theo các mùa rồi trở về mùa xuân. Cỏ cây, hoa lá, tạo vật cũng biến
đổi, sinh trưởng hay phai tàn theo thời gian. Khi mùa xuân trôi qua, "trăm
hoa rụng" theo quy luật của tự nhiên. Hai câu thơ mang màu sắc triết lí, khái
quát quy luật tồn tại của thiên nhiên và sự vận động của thời gian.
Cành mai có một sức sống mãnh liệt cũng vì lẽ đó. Một sức sống cùng
sự trường tồn của vòng thời gian vô tận. Mãn Giác dùng hình ảnh đơn giản
miêu tả thực tại, giúp người đời tự ngộ ra cái điều cơ bản nhất, quan trọng

nhất để có cách sống tốt đẹp và an nhiên, bình tĩnh. Cành mai cũng như cuộc
đời không mới cũng không cũ, không đi cũng không về, không mất mát đâu
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
6
2014-2015
cả. Tất cả chỉ là một vòng tuần hoàn vô cùng vô tận như âm giai bất diệt của
mùa xuân.
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết.
Đêm qua sân trước, một cành mai.
Qua đó, ta thấy thời gian ở trong văn học trung đại nói chung, bài kệ
“Cáo tật thị chúng” nói riêng thể hiện một quan niệm sống đẹp, chuyên về
tầm cao sâu triết lí đạo Phật: con người trước sự biến thiên xoay vần của thời
gian vẫn phải giữ thái độ an nhiên, bình thản, tự tại, không hoang mang mà
cứ lặng lẽ trôi theo dòng chảy không ngừng của thời gian một cách lặng lẽ,
trung thành. Con người là một phần của vũ trụ, một ngày rồi cũng sẽ hòa
nhập với cái vĩnh hằng của trời đất.
Và nếu thời gian không chuyển di theo một dòng chảy tuần hoàn thì
cũng được đo bừng những đại lượng rất lớn, bằng những khái niệm được
nhìn trên một tầm vĩ mô:
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì
(Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều)
Đời người thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài hơn
(Tản Đà)
Bên cạnh đó cũng đã có những nhà thơ nắm bắt, ý thức được sự hữu
hạn của đời người bên cái vô hạn của thời gian trường cửu khi buông những
lời than thở: “Xuân thì bất tái lai”, hay “Cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ”.
Nhưng hầu hết vẫn bị phụ thuộc nhiều vào những thi pháp trung đại với lối
nói ước lệ cổ điển, trang trọng, mang tính khái quát cao:

Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi
Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi.
(Nguyễn Công Trứ)
Và phải tới Thơ Mới, đến với Xuân Diệu, ta mới thấy được ý thức sâu
sắc đến cuồng nhiệt của thi nhân trước dòng thời gian chảy trôi vĩnh hằng.
3. Những quan niệm về thời gian trong Chủ nghĩa lãng mạn
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
7
2014-2015
Trong chủ nghĩa lãng mạn, vấn đề thời gian được thể hiện qua rất
nhiều khía cạnh khác nhau. Một trong những chủ đề mà khi nhắc tới Chủ
nghĩa lãng mạn, ta không thể không nói tới, chính là sự hoài niệm, đề cao, lí
tưởng hóa quá khứ. Theo đó, thời gian đi từ quá khứ đến hiện tại, tương lai
theo đồ thị đi xuống. Có người tìm về những vẻ đẹp truyền thống của một
thờiq uá khứ đã lùi xa:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Ông đồ - Vũ Đình Liên)
Có thi nhân lại hoài niệm, tỏ lòng tiếc nuối với những vẻ đẹp bình dị,
xưa cũ của làng quê chân chất ngày xưa:
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa

Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
(Chân quê - Nguyễn Bính)
Không chỉ mang nặng nỗi niềm hoài cổ, thời gian trong chủ nghĩa
lãng mạn còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ với thời

gian, hay nói một cách khác là nó đặc trưng cho cách hiểu thời gian từ
góc độ cá nhân. Với mỗi giác quan khác nhau, mỗi góc nhìn khác nhau, kết
hợp với sự ảnh hưởng từ trào lưu thơ tượng trưng, siêu thực từ Tây phương,
rất nhiều cách cảm nhận độc đáo về thời gian được thể hiện:
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh.
(Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ)
Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu, thể hiện một cách rất riêng,
rất xuất sắc đặc trưng cho cách hiểuthời gian từ góc độ cá nhân ấy. Với nhà
thơ, thời gian được nhìn như một đối tượng “thù địch” với sinh mạng cá
nhân. Với ông, bi kịch lớn nhất của con người lãng mạn chính là thời gian.
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
8
2014-2015
4. Cảm thức thời gian trong thơ Xuân Diệu
4.1. Xuân Diệu quan niệm thời gian là một đường thẳng tuyến tính,
không tuần hoàn, một đi không trở lại.
Tiếp nhận với những quan điểm mới mẻ tân kì từ Tây phương cùng
niềm yêu đời yêu sống vẫn luôn âm ỉ trong tim, Xuân Diệu không nhìn nhận
thời gian theo chiều vĩ mô như các nhà thơ Trung đại mà với ông, thời gian
một đi không trở lại, và vũ trụ là một khách thể độc lập với con người. Thời
gian như một dòng chảy vô thủy, vô chung mà mỗi khoảnh khắc qua đi là
mất đi vĩnh viễn. Đã có không chỉ một mà khá nhiều bài thơ chứa đựng quan
điểm ấy của Xuân Diệu. Bài thơ “Thời gian” ra đời như một tuyên ngôn về
thời gian của Xuân Diệu:
Dưới thuyền nước trôi
Trên nước thuyên chuồi
Và nước, và thuyền

Xuôi dòng đi xuôi

Nước trôi vô tri
Vô tình, thuyền đi
Nước không biết thuyền
Thuyền biết nước chi
Mỗi câu thơ cất lên lại như một lời thở than đầy não nề vủa chàng trai
trẻ trước cảnh nước chảy thuyền trôi không điểm dừng, chẳng hồi kết, dai
dẳng và miên man. Sử dụng hình tượng dòng nước để nói về thời gian không
phải là một sáng tạo nghệ thuật mới mẻ. Nhà thơ danh tiếng đời Đường
Trung Quốc - Lý Bạch cũng đã tìm ra sự tương đồng kì diệu ấy:
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
(Há chẳng thấy:
Nước sông Hoàng từ trời tuôn xuống
Chảy nhanh ra biển, chẳng quay về,)
( Thương tiến tửu )
Khổng Tử ở phương Đông cũng đã từng đứng bên trên sông ngắm
nhìn dòng nước mà nói với các học trò: Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
9
2014-2015
(Mọi vật đi qua như nước này chảy đi, ngày và đêm không có vật chi ngừng
nghỉ).
Xa nhau một dải đất, cách nhau cả nghìn năm, nhưng những con
người tài hoa ấy đã gặp gỡ nhau trong tư tưởng, trong cảm nhận. Thời gian
trôi không chờ người, năm tháng qua không đợi bất kì ai. Quỹ thời gian
khách quan của cuộc đời, vũ trụ có thể là vô hạn, vĩnh hằng, nhưng túi thời
gian nhỏ bé khiêm tốn của con người thì luôn có giới hạn và thời gian cứ

như dòng nước siết chảy thẳng xuống đáy túi, thấm vào và không thể lấy lại.
Nỗi niềm ấy ám ảnh Xuân Diệu trong từng tác phẩm của mình. Trong
“Đi thuyền” ông đã một lần nữa sử dụng hình ảnh “thuyền” và “nuớc” để
khẳng định ý niệm của mình về thời gian:
Thuyền qua mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Dòng mơ tô tưởng cũng thay khác rồi
( Đi thuyền )
Thuyền chuyển động, nước chuyển động, mây chuyển động, tôi
chuyển động. Bốn cái động tương tác thành chuyển hóa của "tôi" phút trước
sang "tôi" phút này:
Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này
( Đi thuyền )
Xuân Diệu sử dụng cách nói trực tiệp, bộc lộ mạnh mẽ quyết liệt suy
nghĩ của mình thay vì thông qua những hình tượng một cách gián tiếp Biết
sao được, dòng sông thời gian cứ thế cuốn ta đi. Nước thời gian nhuộm tóc
trắng phau phau (Đoàn Văn Cừ) Nhưng nước đi ra bể lại mưa về nguồn
(Tản Đà), mỗi con người, mỗi thế hệ người lại nối tiếp nhau trên dòng thời
gian đi tới phía trước, mang theo tất cả những nỗi niềm nhân sinh của bao
đời bao kiếp như thuở ban đầu, mà chừng như nhân loại không bao giờ thỏa
mãn, bằng lòng. Xuân Diệu thấu rõ nhất sự thật cay đắng ấy. Với ông, mỗi
khắc mỗi giọt của thời gian là cả một niềm se sót, nuối tiếc khôn cùng.
Chàng thi sĩ ấy hiểu rằng mẫu thuẫn giữa cái hữu hạn của đời người với cái
vô hạn của thời gian là không bao giờ có thể giải quyết được hoàn toàn và
trọn vẹn.
Không chỉ diễn tả bước chuyển của thời gian qua hình ảnh “thuyền”
và “nước” - những hình ảnh hữu hình cụ thể - con đường mà nhiều nhà thơ
cổ đã từng đi mòn lối cỏ, Xuân Diệu đã sử dùng một hình tượng vô hình để

nói về thời gian: “ngọn gió”:
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
10
2014-2015
Ngọn gió thời gian không ngớt thổi
Giờ tàn như những cánh hoa rơi
Và càng ý thức rõ nét bao nhiêu, cảm xúc của ông càng dâng lên
mãnh liệt đến độ nảy sinh cảm giác “sợ hãi”:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng)
Cặp từ đối lập tới – qua, non – già càng khắc sâu thêm con mắt đầy
thấp thỏm nhức nhối của Xuân Diệu trước bước chuyển vùn vụt của thời
gian. Thi nhân thấy cái sắp qua ngay trong cái đang đến, thấy cái khoảnh
khắc ngay trong cái trường cửu, thấy cái tàn phai ngay trong sự sung mãn,
thấy cái héo úa ngay trong cái tươi mới ròng ròng.
Như thế, sự trôi chảy của thời gian cứ quẩn quanh ám ảnh mãi trong
tâm tưởng, quấn chặt lấy từng câu thơ Xuân Diệu, như một nỗi nhức nhối
không thể tháo bỏ. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi không trở lại”. Chính ý
thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, thời gian định hướng
chứ không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật trong toàn bộ
sáng tác của anh”.Với ông, thời gian không biết chờ đợi ai, và cũng chẳng
buông tha bất kì ai. Và con người là nạn nhân lớn nhất của thời gian khi hiểu
rõ thời gian sẽ một đi không trở lại, giới hạn ở ngay trước mắt mà bất lực
không thể làm gì để níu giữ, xoay chuyển nó.
4.2. Thời gian với Xuân Diệu cũng chứa đựng sự sống, có
những bước chuyển linh động.
Ý thức rõ nét được sự phũ phàng của thời gian cũng là lúc nhà thơ tập
trung căng mở mọi giác quan của mình chú ý đến từng bước đi của thời gian
từng chút một. “Phút giây hiện tại là sự cô đặc của thời gian… cái thời gian

khách quan đo đếm được bằng máy móc không tồn tại nữa, mà đã chuyển
qua thời gian của cảm giác, tâm trạng. Đó là thứ thời gian tâm linh, không có
quá khứ, hiện tại, tương lai, khoảnh khắc, thiên thu.” Nắm bắt được điều ấy,
thời gian với Xuân Diệu đã không còn là một khái niệm vô hình vô dạng nữa
mà được truyền tải tới người đọc thông qua những hình tượng độc đáo.
Thu của muôn đời là gốc của sầu, mùa Thu tựa như khúc đàn mà cung
phím buông bật làm lòng nguời chùng xuống ,vời vời những hình ảnh đã xa
xôi Trong khoảnh khắc của linh diệu của một mùa chứa đựng bao xúc cảm
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
11
2014-2015
ấy, lòng xhàng thi sĩ Xuân Diệu lại càng nhạy cảm hơn bao giờ hết trước
thời gian vùn vụt trôi trước mắt:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
( Đây mùa thu tới )
Thời gian chuyển động qua từng sắc lá trong vườn, hiển hiện rõ từng
bước chuyển dời của nó tựa hồ như chứa đựng một linh hồn, một sự sống.
Theo Đỗ Lai Thuý thì: “Nếu mùa xuân được coi là bình minh của tuổi trẻ thì
mùa thu được Xuân Diệu coi như bình minh của tuổi già Mà bình minh
bao giờ cũng là thời khắc ngắn ngủi, nhất là bình minh – thu, bởi vì sau đó
không phải là trưa nồng mà là chiều lạnh. Bởi vậy ý thức về thời gian trong
mùa thu trở nên sâu sắc”. Và thật vậy, “đây không chỉ là tiếng báo mùa, mà
là sự hối thúc của thời gian”. Đón nhận và nắm bắt bước chuyển thời gian
của mùa thu qua những thi liệu quen thuộc như hoa thu, lá thu đã không còn
xa lạ:
Hình như có phải mỗi Thu sang
khi chiều bàng bạc lá thu vàng
lúc ngọn Thu phong về man mác
lòng kẻ thi nhân lại bàng hoàng

( Thu, thơ, và nỗi nhớ )
Nhưng Xuân Diệu, với sự kết hợp nhuần nhị giữa những thi liệu đã
quen mắt ấy cùng cách diễn đạt rất mới, rất Tây, rất tân kì: “hơn một”, đã
mang tới hiệu quả thẩm mĩ và biểu cảm đặc sắc. Nhà thơ đã tinh tế phát hiện
ra từ những sự biến đổi, chuyển giao nhỏ nhặt, nhẹ nhàng, khẽ khàng nhất
của sự vật, để rồi cảm thấu được bước chuyển tĩnh lặng mà mau lẹ của thời
gian đất trời, thời gian đời người. Dường như Diệu đã huy động mọi giác
quan để cảm nhận cảnh vật của đất trời lúc sang thu và sự rũa mòn của thời
gian như tạo thành những luồng cảm giác run rẩy, rung rinh trong lá theo
cách riêng của mình. Để rồi Thế Lữ khi đọc các dòng thơ tả cảnh của Xuân
Diệu đã cảm thấy thi sĩ như đang nói: “tất cả chúng tôi run rẩy tựa dây đàn”.
Nhà thơ đã cảm thấy mùa thu bằng tất cả cảm giác của cơ thể. Điều đó đã
tạo nên câu thơ nổi tiếng mà Hoài thanh nhận xét là rất tiêu biểu cho cách
cảm thụ của Xuân Diệu.
Không chỉ hiện hữu trong từng bước chuyển, thời gian còn chảy trôi
với những bước chuyển động tàn nhẫn, khắc sâu sự đối lập giữa thời gian vũ
trụ với thời gian của một kiếp người:
Ngọn gió thời gian không ngớt thổi
Giờ tàn như những cánh hoa rơi
( Giờ tàn )
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
12
2014-2015
Thời gian lướt qua vùn vụt như gió lướt, tích tắc trong khoảnh khắc
cánh hoa rơi, khiến con người bàng hoàng, sửng sốt.
Và khi thời gian trôi chảy dịch di với vận tốc có thể đo đếm được mỗi
phút trôi qua lại là những niềm sa xót:
Những ngày cứ thắt đi từng phút
Rồi mặt trời cao. Nắng cháy tràn
Trưa đến thôi rồi! Bình đã vỡ

Nửa ngày xinh đẹp đã tiêu tan
“Nửa ngày” - từ sáng sớm tới khi mặt trời lên đỉnh điểm, vốn là một
khoảng thời gian không ngắn, nhưng với Xuân Diệu, nửa ngày dường như
trôi qua còn nhanh hơn cả mấy vần thơ. Đạt được đến độ tinh vi đó có lẽ là
do năng lực trực cảm trời sinh của Xuân Diệu khi đã tinh tế nắm bắt được
cái tốc độ di chuyển nhạy bén vô cùng của thời gian. Từ đó, thơ của ông
dường như không chỉ là tả cảnh nữa mà đã trở thành sự nhận thức của các
giác quan. Là xúc giác, cảm giác với hơi ấm không gian, hơi ấm con người:
Thế là xuân. Ngày chỉ ấm hơi hơi
Như được nắm một bàn tay son sẻ
( Xuân không mùa )
Hay đôi khi với xúc giác, thị giác:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
( Đây mùa thu tới )
Cũng có bằng là thị giác, thính giác:
Bông hoa dứt cánh, rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần
( Ý thu )
Và dù bằng cách cảm nhận nào, thời gian mang trên mình linh hồn, sự
sống của nó cũng đều dịch di thật mau lẹ, chẳng kịp đợi người. Bi kịch ấy đã
khiến nhà thơ đã hơn một lần phải cất tiếng thở than đầy khắc khoải:
Đêm lùa ta thức, một mình đau
Nghe tiếng giờ đi, não dạ sầu
(Hư vô)
Đối với Xuân Diệu “Sự sống chẳng bao giờ chán nản”. Từ đó, Xuân
Diệu có một nhận thức về thời gian mang phong cách riêng, nét riêng của
mình. Nhà thơ nhận thức về thời gian cũng là nhận thức cuộc đời ở dạng vận
động, ở tiến trình không đứng yên của nó. Vì thế, nói như nhà nghiên cứu
Đỗ Lai Thuý: “Thơ Xuân Diệu là thế giới mở rộng đa thanh.” Trong bản

giao hưởng âm thanh này nổi lên những giai âm như “Đây mùa thu tới” : sự
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
13
2014-2015
thức nhận thời gian; “ Vội vàng”: một ứng xử với thời gian; “Gửi hương cho
gió”: tình yêu như sự chiến thắng thời gian; sau cùng, “Thơ thơ” : nghệ thuật
như là sự vĩnh cữu hóa thời gian.
4.3. Xuân Diệu tâm niệm con người trước thời gian cần phải có
bản lĩnh chiếm giữ và chế ngự.
4.3.1. Con người cần phải có thái độ sống tích cực, sống vội, sống tận
hưởng tận hiến.
Với Xuân Diệu, khi thời gian là kẻ thù nguy hiểm và dai dẳng nhất,
luôn chực chờ đe dọa sinh mạng con người, sinh mạng cá nhân. Thái độ đó,
quan niệm đó được Xuân Diệu trình bày một cách rõ ràng trong văn xuôi
của mình: Thời gian chỉ là sự cử động. Nếu tôi đứng, máu tôi ngừng… thời
gian của tôi sẽ không còn nữa ( Trường ca ). Bởi vậy, để thời gian không
mất đi, con người phải không ngừng vận động. Nhưng có điều quan trọng là
phải vận động ngang với tốc độ quay của cuộc đời, ngang với nhịp điệu
chuyển vần của vũ trụ.
Đồng nghĩa với việc nhận thức về dòng chảy thời gian “vô thủy, vô
chung”, một đi không trở lại, Xuân Diệu đã đem đến những vần thơ sôi nổi,
gấp gáp về một quan điểm sống hết mình trong từng hơi thở:
Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
( Vội vàng )
Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo
trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc
trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến
những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra
cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ

lụi tàn " Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung
sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo
bởi nó ngắt thành hai câu chứa đựng hai tâm trạng, hai cảm xúc trái ngược
nhau: sung sướng - vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là
"vội vàng một nửa". Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi
xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc,
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
14
2014-2015
đã vội càng "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân." Ông đã nhận ra một
thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh
và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận
hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất
người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn
nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để
thời gian trôi đi phí hoài.
Xuân Diệu cũng đã từng tự bạch: “Với lòng tôi trời đất chỉ có hai mùa
Xuân và Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh Xuân với Thu
là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất của tâm hồn”.
(Thu – Trường ca). Thay đổi thời tiết chính là thay đổi tấm lòng là vì vậy.
Mùa là thời gian. Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian bằng nội lực chủ quan,
bằng tốc độ sống với cảm thức “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”, và
bằng cả cường độ sống, dồn nén, chất chứa để thăng hoa trong “một phút
huy hoàng”.
Thái độ sống nôn nao, mọi sự đợi chờ thi sĩ đều sợ bỏ phí mất từng
thời khắc của tuổi thanh xuân,trong bài thơ “Thanh niên” Xuân Diệu viết:
Ngươi đang ở! Ta vội vàng dữ quá!
Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn!
Sống toàn tâm và thức cả giác quan
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ;

Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ.
Những vần thơ ấy cất lên thực sự là “những vần điệu vẫn phập phồng
mãi theo hơi thở cuộc đời” (Nguyên Hồng). Dường như thơ Xuân Diệu luôn
âm thầm dội vào lòng ta tiếng thôi thúc sống hết mình, sống tận hưởng, tận
hiến, vận hết tốc lực đến lực cạn sức kiệt để đuổi kịp tốc độ giật chớp của
thời gian. Chỉ có như thế, con người mới có khả năng nắm bắt và tận hưởng
trọn vẹn cuộc sống này.
Có một nỗi lo luôn thường trực, canh cánh trong suy nghĩ người thi
nhân tài hoa ấy:
Trái tim ngừng trong một lúc vô biên
Thời gian hết đất trời không còn nữa
“Vô biên” vốn là một từ mang tính chất bao la, vĩ đại, mà những thứ
bao la vĩ đại ấy thường khó có thể dừng lại, ngăn cản tỏng một sớm một
chiều. Nhưng với ý thơ và hồn người thi sĩ, điều đó với Xuân Diệu hoàn
toàn có thể. Trong giây phút ấy, thời gian như kéo ra, con người dã hòa tan
vào trời đất. Lúc này có lẽ là lúc Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, khiến
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
15
2014-2015
cho thời gian ngưng đọng lại và con người có thể bắt kịp nhịp chảy của nó,
hòa nhập vào cuộc đời. Và dù chỉ “một lúc” thôi nhưng cũng đã đủ để thỏa
lòng yêu đời, yêu sống đến thiết tha rạo rực của Xuân Diệu:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Thái độ vượt lên chiến thắng thời gian được thể hiện đậm nét trong
nhiều bài thơ của Xuân Diệu. Thắng vượt thời gian bằng tốc độ sống nhanh
gấp, vội vàng và cả cường độ sống mạnh mẽ, vồ vập với bao thèm khát. Thế
giới thơ của Xuân Diệu đầy những từ ngữ: giục giã, vội vàng, mau, gấp, mau
lên … bởi thi nhân e sợ “lỡ làng”, “muộn màng”, “không kịp”, “lỡ thì”:
Mau lên chứ ! Thời gian không đứng đợi

(Giục giã)
Chưa có một nhà thơ nào luyến tiếc thời gian đến xót xa như Xuân
Diệu, vì vậy trong niềm say sưa bồng bột trước cuộc đời, tình yêu, sự hiện
hữu của thời gian khiến ông chưa bao giờ bình thản. Đối lập với khát vọng
sống hết mình với thực tại, níu kéo từng phút, từng giây để sống, để yêu của
Xuân Diệu, nhiều nhà Thơ mới khác lại lý tưởng hóa quá khứ, tìm về với
quá khứ, chán ghét thực tại và họ chỉ có thể tìm thấy những gì đẹp đẽ nhất ở
trong quá khứ mà thôi.
Đó là Thế Lữ, hóa thân vào một “chúa sơn lâm” trong cũi sắt để mà
tưởng nhớ đến chốn rừng xanh oai linh, thiêng liêng, hùng vĩ:
Ta sống mãi trong tình thương, nỗi nhớ
Thuở tung hoành, hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
(Nhớ rừng - Thế Lữ)
Nhưng tất cả sự oai linh hùng vĩ đó đều chỉ còn là quá khứ đã xa, thực
tại chính là không gian tù túng, chật hẹp, giả dối nơi vườn bách thú:
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
16
2014-2015
Của chốn ngàn năm cao cả âm u.
Cảm xúc của vị chúa tể rừng xanh, hay chính là cảm xúc của bao con
người trong thời đại ấy khi “sống trên quê hương mình mà không phải của
mình”: chán ghét thực tại, mất hi vọng vào tương lai và chìm đắm trong

những ảo mộng quá khứ oai linh.
Không chỉ một mình Thế Lữ, mà hầu hết những nhà thơ mới cùng
thời kì với Xuân Diệu đều có xu hướng nghiêng mình về quá khứ đã qua
như vậy. Đó còn là Lưu Trọng Lư hoài niệm về những lí ức mà Lòng rượi
buồn theo thời dĩ vãng/ Chập chờn sống lại những ngày không. Hay những
tiếng kêu thương thống thiết của Hàn Mặc Tử khi nuối tiếc nhớ lại một thời
dĩ vãng đã qua.
Nhưng với Xuân Diệu, ông ý thức được rằng mất mát sẽ đến nếu ta
không chớp thời cơ. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới
nhớ mùa xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, viên mãn nhất. Nhận thức
được dòng thời gian tuyến tính vùn vụt trôi của đời, con người phải biết
sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình để ôm cho chặt, siết cho
trọn, thâu cho hết những tinh hoa đời người. Trước dòng đời chảy trôi, một
thái độ sống hối hả, cuống quýt, giục giã là rất cần thiết với mỗi con người
thật sự muốn “được sống”.
Xuân Diệu đã nêu lên được một lối sống tích cực, có ý nghĩa, một lối
sống dành cho những con người, trẻ lòng với niềm nhiệt huyết và đam mê
cháy bỏng trong cuộc đời.
4.3.2. Con người phải biết níu giữ những vẻ đẹp trong cuộc đời trước
thời gian chảy trôi.
Có ai hay vì sao chàng thi sĩ Xuân Diệu lại có cái nhìn day dứt đến thế
trước cuộc sống? Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh để lí giải điều này : “Nhìn
một cách tổng quát toàn bộ sự nghiệp văn học của Xuân Diệu thấy có một tư
tưởng chi phối tất cả, ấy là niềm khát khao giao cảm với đời - cuộc đời hiểu
theo nghĩa chân thật và trần thế nhất !”. Thật vậy! Nếu cùng thời Xuân Diệu,
Thế Lữ thoát lên tiên, Huy Cận giải bày nỗi sầu lên cỏ cây, sông nước, Vũ
Hoàng Chương đến với thơ say để quên thực tại chán chường thì Xuân Diệu
rất nhập thế. Ông luôn gắn bó, quyến luyến với cuộc sống, với cảnh và
người nơi trần thế này. Con người rất có ý thức về bản ngã ấy không phải là
một cái tôi khép kín mà là cái tôi luôn mở ra với cuộc đời, khát khao được

hòa điệu với cuộc sống và nắm bắt những gì tươi đẹp nhất của cuộc đời. Đó
là chàng thi sĩ trẻ đứng trước thiên nhiên mà lòng mang nặng bao tâm tư,
khát khao mãnh liệt:
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
17
2014-2015
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
(Vội vàng)
Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh
ta có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi những qui
luật vốn dĩ của tạo hoá. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo
mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống.
Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi
thắm của sự vật, của màu, của hương. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh
lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang
hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất
phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn
diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp
cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống. Xuân Diệu
muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tĩnh. Cái
vô lí đó chính là sự khát khao sống đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn
níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình.Chính Xuân Diệu đã từng
bày tỏ: “sự thiết tha thực không đáng trách, sự cuồng si là một cái bệnh ta
chớ vội đuổi, và ta hãy vui lòng sống cho toàn vẹn tuổi xuân hiếm hoi của
ta.”
Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc
sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp

nhất là cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên
tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về
hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cảm xúc của Xuân Diệu trước cuộc đời và
thiên nhiên tạo vật luôn tươi mới, hồn nhiên, sôi nổi, bồng bột và luôn ở
trạng thái cực điểm nhất. Với Xuân Diệu thiên đường chẳng ở đâu xa mà ở
ngay trên mảnh đất trần gian này. Vì vậy, Xuân Diệu chủ trương chẳng thoát
ly đi đâu cả mà đứng vững ở cõi trần, bám lấy mỗi phút giây mình đang
sống để tận hưởng hạnh phúc, khẳng định sự sống cũng là cách hiện thực
hoá bản thân mình vào thế giới, cũng là cách giải tỏa nỗi cô đơn:
Giơ tay muốn ôm cả trái đất
Ghì trước trái tim, ghì trước ngực
Cho đầy trước mặt khoảng cô đơn
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
18
2014-2015
Bao la muôn đời, sâu vạn vực
(Bài thơ tuổi nhỏ)
Cuộc sống xung quanh ta là đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không tận
hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập.
Cuộc sống xung quanh ta là đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không tận hưởng.
Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập.
Xuân Diệu muốn lưu giữ lại cái khoảnh khắc của tuổi xuân, muốn thời
gian ngưng đọng lại, muốn và muốn như vậy mới có đủ thời gian để thỏa
mãn lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ. Thiên nhiên đẹp quá, nó được
nhà thơ hình dung thật gần gũi, mà cũng thật táo bạo và mới mẻ :
Và đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Mỗi buổi sáng thức dậy mở mắt là thi sĩ được chứng kiến một cảnh
tượng mới mẻ, diễm lệ. Ánh bình minh rực rỡ chiếu sáng thế giới vạn vật.

Nguồn ánh sáng ấy như được toát ra từ vẻ đẹp của người thiếu nữ. Và ở đây
khác với thơ xưa - luôn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp thì ở đây
con người lại làm chuẩn mực cho cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp trở nên
mới mẻ hơn và cũng trần thế, gần gũi hơn rất nhiều. Cái đẹp của thiên nhiên
dường như chẳng đợi thời gian, chỉ cần trong lòng thi sĩ thấy cảnh đẹp thi
được rồi và “Xuân không mùa” cũng nói:
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng

Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa
Tình không tuổi, và xuân không ngày tháng
Cái cảm nhận của “thu lòng, “xuân lòng” đã tạo nên sự đảo lộn quan
niệm của chính nhà thơ “Thu không phải là mùa sầu Xuân, người ta ấm
mà cần tình. Thu, người ta về lạnh sắp đến mà cũng cần đời. Cho nên không
gian đầy những lời nhớ nhung”.
Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt.
Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài
đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả.
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
19
2014-2015
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Hỡi xuân nồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Lòng yêu đời tràn lên như một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi
mới, đầy sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo

từng từ muốn, ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say - sự ngây ngất đến
bất tỉnh vẫn chưa thoả lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để
có sự hoà nhập làm một. Và cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhịêt
chưa bao giờ có trong thơ:
Hỡi xuân nồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời
cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống.
“Vội vàng” là cả một quan niệm sống khà mới mẻ và táo bạo mà
trước đó chưa từng có. Lối sống ở đây là lối sống biết hưởng thụ một cách
chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác
giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ, chạy theo thời gian. Ông kêu
gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những gì cuộc sống ban tặng. Ông
đã quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và
trong cuộc đời nhà thơ, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng
hưởng thụ.
Xuân diệu phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần gũi quanh ta
biết bao điều mới lạ thật đáng yêu, cuộc đời trần thế đẹp và hấp dẫn biết bao,
càng thấy đẹp ta càng muốn tận hưởng, càng muốn tận hưởng thì lại thấy
thời gian thực ít ỏi, thực mỏng manh. Điều nhà thơ “muốn” trong một không
gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con
người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng
chứng kiến:
Đương lúc hoàng hôn xuống
Là giờ viễn khách đi
Nước đượm màu li biệt
Trời vương hương biệt li.
(Viễn khách)
Thiên nhiên và con người mang sức trẻ tình tứ sâu sắc, một thế giới
xuân trời ngồn ngột hương sắc, tinh vi huyền diệu :
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2

20
2014-2015
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si…
(Vội vàng)
Này đây Này đây Này đây.… Tất cả như đang phơi bày ra trước
mắt nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan
xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà, đầy sức sống.
Cùng là viết về xuân, cùng là đứng trong cái tiết xuân trôi chảy,
nhưng Chế Lan Viên không tận hưởng như Xuân Diệu mà luôn tâm niệm
muốn “ở lì” trong quá khứ, thù ghét mùa xuân:
Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nỗi khổ đau.
Xuân Diệu lại như đang vồ vập, ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ
như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng
hấp dẫn mới lạ.
Nhưng thơ Xuân Diệu, không phải lúc nào cũng chỉ có cái vui, cái rạo
rực mà những khoảnh khắc u buồn, nuối tiếc cũng không hề hiếm:
Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa?
Thế nhưng, nỗi buồn ở đây chẳng qua cũng chỉ là một biểu hiện của
lòng ham sống. Cảnh xuân càng đẹp càng lộng lẫy bao nhiêu thì sự nuối tiếc
của thi sĩ càng lớn bấy nhiêu. Người ta chỉ ham sống khi họ thấy cuộc sống
của họ có ý nghĩa, và Xuân Diệu cũng vậy càng yêu, càng đắm càng say

cảnh đời lại càng phát hiện ra biết bao cái tươi đẹp đang chờ đón, để rồi lại
cay đắng nhận ra rằng thời gian trôi đi càng lúc càng vội vã. “Đọc Thơ thơ
và Gửi hương cho gió ta dễ dàng nhận ra một Xuân Diệu đang cô đơn chống
trả lại sự tàn phá của thời gian”. Trong “Núi xa” ông viết:
Lẫn với đời quay, tôi cứ đi
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
21
2014-2015
Người ngoài không thấu giữa lòng si.
Với Xuân Diệu, thiên nhiên cuộc đời là nơi chứa đựng những vẻ đẹp
tuyệt vời nhất thế gian. Và là một nhà thơ, người nghệ sĩ chân chính thì
không ai có thể khước từ xua tay trước những vẻ đẹp ấy. Thế nhưng khi thời
gian có hạn, giới hạn con người không cho phép ta ôm níu ghì chặt hết
những vẻ đẹp ấy, con người cần phải biết xây dựng cho bản thân ý thức trân
trọng cái đẹp ấy, nhận thức đúng đắn về cái đẹp thiết thực, không giả dối.
Xuân Diệu đã gửi gắm trọn vẹn những giá trị ấy vào trong các tác phẩm của
mình, thể hiện một hồn thơ luôn “tha thiết, rạo rực, băn khoăn” với đời.
4.3.2. Con người trong dòng chảy không ngừng của thời gian phải
có thái độ đúng đắn với tình yêu
Lời bài hát nào đó đã để lại ám ảnh sâu sắc với mỗi người về vấn đề
thời gian và tình yêu:
Thời gian trôi qua nhanh như tia nắng say
Khoảng cách siết đôi ta trong phút giây
Tình yêu đặt trong thừoi gian chảy trôi tuyến tính của cuộc đời từ lâu
đã trở thành một đề tài không xa lạ gì trong các sáng tác thuộc lĩnh vực văn
học, nghệ thuật. Với thơ ca – nơi âm thanh cất điệu từ trái tim và tâm hồn
con người, vấn đề này lại được khắc họa ấn tượng hơn bao giờ hết.
Có ai đó đã nói rằng: “Thời gian của Xuân Diệu mang tính chất trần
thế. Cả hai trăm bài thơ tình cũng bị thời gian…ám ảnh”. Khi đứng vững
trên mảnh đất trần gian, bám chặt vào hiện tại. Xuân Diệu nhận ra rằng hạnh

phúc cuộc đời được kết đọng đầy đủ nhất nơi tuổi trẻ và tình yêu. Bởi thế,
ông khát khao tận hưởng và thiết tha kêu gọi mọi người mau mau tận hưởng
cái hạnh phúc ngắn ngủi, hiếm hoi ấy. Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân,
tình yêu và tuổi trẻ.
Trong tâm tưởng của Xuân Diệu, ngày hôm nay qua đi rồi tháng, rồi
năm, rồi đời người sẽ hết, tuổi già, cái chết là nỗi ám ảnh lớn trong lòng nhà
thơ:
Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi
Tóc ngời mai mốt không đen nữa
Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
22
2014-2015
Và với những vần thơ trong bài “Thanh niên” ta mới thấy hết được sự
nuối tiếc thời gian của nhà thơ:
Ôi thanh niên! Người mang hết xuân thì
Hình ngực nở nụ cười tươi màu tóc láng
Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm đi làm sợ cả hương hoa.
Tuổi trẻ trôi qua vội như thế, đời người chỉ ngắn ngủi dường ấy, thế
nên Xuân Diệu luôn ấp ủ trong lòng một lí tưởng sống cao đẹp trong tình
yêu. Chẳng phải tự nhiên mà người ta trao cho Xuân Diệu cái danh “thi sĩ
tình yêu“, hay “ông hoàng thơ tình“ Hay Thế Lữ trong đề tựa của tập “Thơ
thơ” đã viết: “Đầy đủ hơn là Xuân và Tình. Cho nên Xuân Diệu đắm say với
tình yêu và hăng hái với mùa xuân”.
Thật vậy, nhà thơ lúc nào cũng say đắm, cũng hết mình, cũng cuống
quýt, vội vàng yêu và tha thiết, khao khát được yêu thương:
Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời


Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng

Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi yêu ma
Chết đi rồi vẫn cứ yêu, có lẽ chẳng mấy người nồng nàn, tha thiết
được như Xuân Diệu! Tình yêu như một nỗi ám ảnh kéo dài khắp đời thi
nhân cuồng nhiệt đắm say ấy.
Nhà thơ muốn dành từng phút, từng giây để mà yêu gấp gáp:
Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Không chỉ vận hết tốc lực của bản thân, chàng trai trẻ ấy cũng muốn
người yêu mình yêu vội vàng, yêu gấp gáp, đừng để phí hoài thời gian trôi
vùn vụt trước mắt.
Và khi đọc “Mời yêu” chúng ta mới cảm nhận hết được sự sục sôi, tha
thiết trong tâm hồn thi sĩ:
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
23
2014-2015
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam một chút cũng đành

Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi
Chỉ một giây, một phút, một giờ - những khoảng thời gian có thể đo
đếm, tính toán được, hoàn toàn không phải là dài. Thế nhưng với Xuân
Diệu, chỉ thế thôi cũng đã đủ đầy và trọn vẹn với tình yêu. Con người ấy
phải khát khao hạnh phúc, thèm yêu và thèm sẻ chia đến độ nào để có thể cất
lên được những lời gọi mời tha thiết nhường ấy? Thời gian có thể “nuốt” con
người, nhưng trong những giây phút được sống, con người hoàn toàn có thể

làm chủ được thời gian, hoàn toàn có thể tận hưởng một cách tối đa cuộc
sống này. Sống gấp gáp lên, sống hết mình đi, bởi con người chỉ có một lần
để sống là quan niệm nhân sinh vô cùng tích cực mà Xuân Diệu đã gửi gắm
vào trong những tác phẩm của mình.
Tâm trạng ấy thi nhân cũng đã từng tỏ bày trong “Giục giã” :
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non đã già rồi,
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi
Dù vội vã thế, gấp gáp thế nhưng tình yêu của Xuân Diệu không phải
thứ tình yêu ảo mộng xa vời. Xuân Diệu là người đưa nhục thể vào thơ một
cách đầy tinh tế.
Trong thơ cổ trước kia chưa có cảm giác này. Nhiều lắm như Nguyễn
Du cũng chỉ ngắm nhìn “Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên“ mà thôi.
Ngay đến người “quá quắt, da diết và táo tợn” như Hồ Xuân Hương thì cũng
chỉ dừng ở những hình ảnh mang tính chất “ám tượng“. Thơ mới buổi đầu
trong Mấy vần thơ của Thế Lữ hay Tiếng thu của Lưu Trọng Lư cũng chưa
có cảm giác này. Chỉ đến Xuân Diệu nhục thể trong tình yêu mới được đưa
vào một cách táo bạo mà cũng đầy tinh tế.
Nhục thể trong tình yêu Xuân Diệu là nhục thể của một tâm hồn
“mang sắc lòng tươi quá“, nhưng lại không thô tục. Ông đã diễn tả bao nhiêu
sắc độ của tình yêu với những trạng thái mạnh mẽ như muốn “ôm“, muốn
“riết”, muốn “say”, muốn “cắn”, muốn “ngoàm”, muốn “hút” mà không
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2
24
2014-2015
gợi lên sự sống sượng của xác thịt, trái lại chỉ gợi cảm giác nồng nàn, tha
thiết của tình yêu:
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em

( Vô biên )
Nghiêng đầu bên trái hãy kề nghe
Những ngón tay thần sẽ vuốt ve
Cho điệu lòng anh thêm ấm dịu;
Sờ xem ngực nóng khúc đê mê
( Có những bài thơ )
Suy cho tường, xét cho tận, những cảm giác rạo rực nóng bỏng ấy
cũng là xuất phát từ ý thức yêu vội, yêu hết mình, yêu bằng cả thể xác và
tâm hồn của Xuân Diệu. Con người “chỉ biết yêu“ ấy luôn luôn khát khao
sống cho nên sẽ luôn luôn khát khao yêu, bao giờ cũng thấy chưa đủ:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái.
( Phải nói )
Nhưng khát khao ấy đồng thời cũng luôn hướng về một tình yêu đích
thực, không rời xa thực tại:
Dẫu tin tưởng: chung một đời, một mộng
Em là em anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật
( Xa cách )
Có thể nói tình yêu trong thơ Xuân Diệu chính là một biểu hiện tập
trung nhất của khát vọng sống nơi ông. Bởi khi ý thức được dòng chảy trôi
vô thủy vô chung của thời gian, con người lại càng khát sống, thèm sống
hơn bao giờ hết. Nếu nói về lòng ham sống của thơ ông mà không nói đến
tình yêu thì cũng như chưa nói gì cả. Nếu nói về tình yêu trong thơ ông mà
không hiểu rằng đó là biểu hiện của một khát vọng sống thì cũng chưa hiểu
Xuân Diệu.
Hoàng Mai Phương - Lớp 11V2

25

×