Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

đề cương ôn tập môn hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.81 KB, 31 trang )

Câu 1 (Vấn đề dân tộc): VKĐH toàn quốc lần thứ X, Đảng ta có nêu: “Vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta…” (VKĐH
X, Nxb CTQG-HN năm 2006-Tr 121).
Bài làm: Vấn đề dân tộc là một nội dung có ý nghĩa chiến lược của chủ nghĩa Mác-Lênin
và của cách mạng XHCN; là vấn đề thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi phải được giải quyết một
cách đúng đắn và thận trọng. Để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, cần hiểu rõ vấn đề dân tộc và
mối quan hệ giữa các dân tộc mà từ đó đề ra phương hướng giải quyết tốt nhất, triệt để nhất.
Điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nghiên cứu và vận dụng các quan điểm khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc.
Trước hết, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành trong quá trình phát
triển của lịch sử dựa trên cơ sở: Có một lãnh thổ chung ổn định, một nền kinh tế chung, có
chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp và một nền văn hóa mang bản sắc, tính cách dân
tộc.
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của CNTB, V.I.Lênin đã
phát hiện ra hai xu hướng khách quan hình thành dân tộc, đó là: Xu hướng thứ nhất, do sự
thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác
lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Trong thời kỳ TBCN, ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng
dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà các tộc người đó có sự trưởng thành về ý
thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành
lập các dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và
vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong
từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu
hướng này nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của LLSX, của
khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện
nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế
rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Tuy nhiên, hai xu thế này là một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ quyền độc lập, quyền
tự chủ, tự quyết nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình phồn vinh, công bằng, văn minh bên
cạnh sự hòa nhập cộng đồng quốc tế.
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc; sự tổng kết kinh
nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga … V.I.Lênin đã khái


quát lại thành "Cương lĩnh dân tộc" của Đảng cộng sản. Trong tác phẩm “Về quyền dân tộc tự
quyết”, Người nêu rõ: Một là, “các dân tộc hoàn toàn bình đẳng”. Đây là quyền thiêng liêng
của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc lớn hay nhỏ không phân biệt
trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân
tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác, thể hiện trong
luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế. Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là
cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
các dân tộc. Hai là, “các dân tộc được quyền tự quyết”. Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm
chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị-xã
hội và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập
về chính trị tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và cũng
bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để
có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có
thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc. Ba là, “liên hiệp công
Trang 1
nhân tất cả các dân tộc”. Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản
trong cương lĩnh dân tộc của các đảng cộng sản. Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là
cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp NDLĐ rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp
công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh
thể.
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo không được xem nhẹ vấn đề
nào. Thực tiễn cách mạng trên thế giới trong thời gian qua đã chứng minh được tính đúng đắn,
khoa học, cách mạng của “Cương lĩnh”. Những nơi nào, thời điểm nào quốc gia nào vận dụng
đúng đem lại thành quả hết sức to lớn, ngược lại khi vận dụng sai hoặc bóp méo lý luận dẫn đến
thất bại, thậm chí bị tan rã, sụp đổ…
Trong thời đại ngày nay, Sau khi “chiến tranh lạnh” kết thúc, ảnh hưởng của nhân tố dân tộc,
nhân tố tôn giáo trong môi trường quốc tế ngày càng tăng lên với trào lưu tư tưởng và hoạt
động của chủ nghĩa dân tộc sôi động ở một số khu vực. Các thế lực ly khai, cực đoan tôn giáo
và khủng bố cấu kết, lợi dụng nhau, càng làm cho vấn đề dân tộc, mâu thuẫn dân tộc có cục

diện ngày càng phức tạp. Trên thế giới đã xảy ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc, cướp đi sinh
mạng hàng triệu người ở các quốc gia trên thế giới. Trong một quốc gia đa dân tộc, nhất là các
quốc gia phát triển theo con đường TBCN, các dân tộc lớn thông qua đại biểu của mình, giữ vị
trí thống trị trong cơ cấu quyền lực, dẫn đến chi phối nhất định về phân phối của cải vật chất,
ban hành các quy chế pháp lý có lợi cho mình, làm các dân tộc thiểu số bị thiệt thòi buộc họ
phải đứng lên đấu tranh đòi lại những quyền lợi. Bên cạnh đó, ở nhiều quốc gia, xung đột giữa
các dân tộc là do những vấn đề về lịch sử và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc mới. Với học
thuyết "một quốc gia, một dân tộc", chúng gây ra chia rẽ, xung đột, kích động chủ nghĩa ly
khai, mục đích tạo ra các cuộc chiến tranh giúp chúng được hưởng lợi ích từ những xung đột,
mâu thuẫn đó.
Ở nước ta với đặc điểm là một quốc gia đa dân tộc, người Kinh chiếm 86,2%; và 53 dân tộc
anh em khác, với khoảng 14 triệu người, chiếm 13,8% dân số cả nước. Các dân tộc thiểu số cư
trú trên địa bàn rộng, chủ yếu ở miền núi, vùng cao, vùng trung du. Đặc trưng nổi bật trong
quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân tộc, hoà hợp dân tộc trong một cộng
đồng thống nhất đã trở thành truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch
sử cho đến ngày nay. Mặt khác, do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một
kết cấu công xã nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm,
dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế
độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng khách quan cố kết các dân tộc trên cơ sở có chung lợi
ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một tương lai và tiền đồ. Song, bên cạnh mặt cố kết tạo
nên tính cộng đồng chung, có nơi có lúc vẫn xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quan hệ dân tộc.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn dùng mọi thủ đoạn chia rẽ dân tộc
và can thiệp vào nội bộ nước ta. Do đó, “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc” được Đảng ta
khẳng định là vấn đề “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”; coi việc
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên CNXH.
Trãi qua 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
dân tộc của một quốc gia. Tạo sự bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Tập

Trang 2
trung đầu tư phát triển vùng miền núi, dân tộc, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ tri thức người
dân tộc, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Có thể thấy quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã cơ bản được thực hiện trên mọi lĩnh vực chính
trị, kinh tế, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội, ở vùng miền núi, nơi các dân tộc thiểu số sinh sống
đã khẳng định điều đó. Hiện nay các tỉnh miền núi, dân tộc tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng
năm trên 10%. Nông nghiệp và các cây công nghiệp thế mạnh phát triển mạnh. Có 60-70% diện
tích nông nghiệp được tưới tiêu. 95% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, đời sống của người
dân được cải thiện. Mạng lưới y tế có hầu hết ở các xã, 90% trẻ em được tiêm chủng phòng
bệnh. 90% địa bàn có đồng bào dân tộc được phủ sóng phát thanh và 70% số vùng được phủ
sóng truyền hình. Tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta đã giảm mạnh gấp 2
lần so với tỷ lệ giảm nghèo chung của cả nước, từ 60,7% năm 2004 xuống còn khoảng 43%
tính đến hết năm 2008. Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng hiện nay của đồng bào dân
tộc thiểu số ước đạt 500.000 đồng/người/tháng; tăng gần 30% so với 2006. Đồng thời, bình
đẳng giới đối với đồng bào dân tộc thiểu số cũng đang được cải thiện, tỷ lệ phụ nữ người dân
tộc thiểu số tham gia chính quyền trên tổng số cán bộ có xu hướng tăng từ 13,58% năm 2006
lên 13,8% năm 2008. Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an
ninh được giữ vững.
Thực tế đó khẳng định: Trong khi vấn đề dân tộc ở nhiều nước trên thế giới diễn biến phức
tạp đã và đang gặp nhiều khó khăn, thì kết quả thực hiện công tác dân tộc cùng những đổi thay
to lớn trong đời sống xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam là một
minh chứng trước cộng đồng thế giới về sự đúng đắn trong đường lối, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước Việt Nam ta. Những thành tựu nước ta gặt hái được đó cùng với sự phát
triển về kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, có điều kiện tiên quyết từ chiến lược xử
lý vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Song, trong quá trình phát triển, chúng ta cũng còn những hạn chế nhất định như: Tình trạng
chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư
là một đặc trưng cần quan tâm nhằm từng bước khắc phục sự chênh lệch đó để thực hiện
bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta. Nhiều vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở trình độ
rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của bà con dân tộc thiểu số còn

thiếu thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài, thiếu thuốc chữa bệnh, nạn mù chữ và tái mù chữ
còn ở nhiều nơi. Đường giao thông và phương tiện đi lại nhiều vùng rất khó khăn; điện, nước
phục vụ cho sản xuất đời sống nhiều vùng còn rất thiếu; thông tin, bưu điện nhiều nơi chưa
đáp ứng yêu cầu của đời sống ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh
Tiếp tục kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, quan điểm, đường lối của Đảng ta tại
ĐHĐB toàn quốc lần thứ X đã khảng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí
chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Phát triển kinh tế,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực
hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới.
Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc
phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính
Trang 3
sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác
ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng
bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
Từ quan điểm trên, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là phát triển mọi
mặt về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, từng bước khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng
đồng bằng, trung du, miền núi, để xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng, giúp
đỡ lẫn nhau trên cơ sở tôn trọng lợi ích, truyền thống lịch sử , văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập
quán của các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tập trung một số nội dung, nhiệm vụ
chủ yếu như: Một là, có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhằm khắc phục tình trạng kinh
tế tự cung tự cấp, mở rộng giao lưu hàng hoá, ổn định và từng bước cải thiện đời sống đồng bào
các dân tộc ít người. Cụ thể là các chương trình 135, chương trình xóa đói giảm nghèo; các
chương trình điện, đường, trường, trạm để phát triển giao thông giữa các vùng nông thôn, vùng

sâu, vùng xa thuận lợi hơn, đưa điện lưới quốc gia về tận các vùng đặc biệt khó khăn, tạo điều
kiện thuận lợi cho con em và đồng bào dân tộc được khám chữa bệnh và đến trường… đặt sự
phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số trong quan hệ hữu cơ với các vùng trong cả nước và
trong quan hệ phân công lao động quốc tế là nhu cầu đòi hỏi khách quan. Phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN phù hợp với điều kiện, trình độ sản xuất nhằm
khai thác tiểm năng thế mạnh của từng vùng dân tộc, đặc biệt các vùng dân tộc ít người. Đổi
mới chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển và xây dựng nông thôn mới;
thực hiện vững chắc công tác định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc miền núi; sắp xếp bố
trí lao động dân cư trên quy mô cả nước. Hai là, chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát triển
văn hóa, tư tưởng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc. Tôn trọng phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, truyền thống và bản sắc văn hóa các dân tộc. Ba là, thực hiện chính sách đại đòan
kết dân tộc, xây dựng cơ cấu xã hội giai cấp mới, cùng với quá trình phát triển KT-XH miền
núi, làm tăng thên chất lượng mới trong quan hệ giữa các dân tộc. Thực hiện dân chủ hoá xã hội
giữa các vùng dân tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một cách quan liêu
mệnh lệnh làm mất khả năng sáng tạo của quần chúng các dân tộc. Bốn là, có chính sách đối
ngoại về vấn đề dân tộc với nội dung tư tưởng “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước
trên thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, cả song phương,
đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và cùng có lợi”.
Đặc biệt tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực trên tinh thần láng
giềng thân thiện, cởi mở.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính toàn diện, tổng hợp, quán
xuyến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các
dân tộc trong cả cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh tế-xã hội của các dân tộc là nền tảng để
tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục
sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Do đó, chính sách dân tộc còn mang
tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân đạo, bởi vì, nó không bỏ sót bất cứ
dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ dân tộc; nó tôn trọng
quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó còn
nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh
em trong cả nước.

Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung, tính chất của chính sách dân tộc có ý nghĩa quyết
định tới việc định hướng và đổi mới các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, làm cho
Trang 4
chính sách dân tộc đi vào cuộc sống.
Tóm lại, kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đại
đoàn kết dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra “Chiến lược
lâu dài về vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc”. Và như ta thấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng mà 54 dân tộc anh em trong cộng đồng Việt Nam luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, yêu
thương chống giặc ngoại xâm và đang cùng nhau ra sức xây dựng CNXH ở Việt Nam, phá tan
mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch. Từ đó càng khẳng định cho chân lý sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không
bao giờ thay đổi”.
Trang 5
Câu 2 (Vấn đề gia đình): Chủ tịch Hồ Chí Minh chĩ rõ: “nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của
xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng CNXH mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”
(HCM toàn tập, Nxb CTQG, HN-1996, tập 9, trang 523).
Bài làm: CNXH khoa học đề cập đến vấn đề gia đình như là một vấn đề lý luận không thể
thiếu được trong toàn bộ học thuyết phát sinh và phát triển của xã hội XHCN. Cách mạng
XHCN đã làm thay đổi tất cả mọi mặt của lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có đời sống gia
đình. Xây dựng gia đình văn hóa mới là mục tiêu cụ thể của cách mạng XHCN, nhằm mục đích
mang lại đời sống ấm no hạnh phúc cho từng gia đình và tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng CNXH.
Theo học thuyết Mác-Lênin, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, hình thành
và phát triển trên cơ sở hai mối quan hệ hôn nhân và huyết thống, đồng thời có sự cố kết nhất
định về kinh tế-vật chất, qua đó nẩy sinh những nghĩa vụ và quyền lợi cho các thành viên của
mình và còn là tổ chức kinh tế-tiêu dùng, một môi trường giáo dục-văn hóa và cơ cấu, thiết lập
xã hội.
Trong xã hội, gia đình có vị trí, vai trò rất quan trọng: Trước hết, gia đình là những hình

thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế. Trong tiến trình
lịch sử nhân loại, các P T S X cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
TBCN, XHCN đã lần lượt thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ
chức, quy mô và kết cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể-quần hôn, đối
ngẫu bước sang hình thức gia đình cá thể, một vợ một chồng. Gia đình không chỉ là sản phẩm
mà nó còn là nhân tố quan trọng tác động vào sự phát triển của xã hội. Thứ hai là, gia đình là
tế bào của xã hội. Có thể ví “xã hội” là một “cơ thể” sống hoàn chỉnh và không ngừng biến
đổi được "sắp xếp, tổ chức" theo nhiều mối quan hệ, trong đó “gia đình” được xem là một “tế
bào”, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mục đích chung của sự vận động biến đổi của xã hội trước
hết vì lợi ích của mỗi công dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi tế bào của xã hội (gia đình)
và là khâu trung gian nối liền cá nhân với xã hội. Thứ ba là, gia đình là nơi biểu hiện đặc thù
bản chất của xã hội, nó biểu hiện trình độ phát triển của xã hội. Bởi vì, gia đình được coi là
thiết chế cơ sở, đầu tiên, nhỏ nhất trong xã hội. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo
những quy luật chung của cả hệ thống và trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống
của mỗi nền văn hoá, mỗi vùng và địa phương khác nhau và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi
thành viên và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình.
Trang 6
Thông qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình, mỗi cá nhân, mỗi
gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối với những tác động của xã hội,
thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách của xã hội. Sự đồng thuận hay không đồng
thuận của những tác động từ xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong
thiết chế gia đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại. Thứ tư là,
gia đình là nơi xã hội hóa con người đầu tiên. Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi
thành viên được nuôi dưỡng, chăm sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động cống hiến
và hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thông qua gia đình và với gia đình.
Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát
triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động của xã hội.
Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình. Xây dựng gia đình là trách
nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn
định và phát triển của chính xã hội.

Với vị trí và vai trò nêu trên, gia đình có những chức năng, nhiệm vụ cơ bản như sau: Một là,
tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng có của gia đình.
Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng
cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội. Hoạt động
sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính con người,
của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng của con người. Hai
là, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình.
Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt
động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ chức
đời sống của gia đình và tạo tiền đề, cơ sở cho việc thực hiện tốt các chức năng khác. Ba là,
chức năng giáo dục của gia đình. Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả
giáo dục tri thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm
mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là
phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối sống,
tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng
quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia
đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục.
Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con
cháu. Bốn là, chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia đình. Nếu như
trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống gia đình là điều kiện và
tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý được coi là một
chức năng có tính văn hoá - xã hội của gia đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng,
cùng với các chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều
vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế hệ, những căng thẳng
mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công tác nhiều khi có thể được giải quyết
trong một môi trường gia đình hoà thuận. Sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các
nhu cầu tâm sinh lý giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái làm cho mỗi thành viên có điều kiện
sống lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần là những tiền đề cần thiết cho một thái độ,
hành vi tích cực trong cuộc sống gia đình và xã hội.

Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ thuộc vào vị thế, lứa
tuổi đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng nói trên. Trong đó, người phụ nữ
Trang 7
có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi họ là người do đặc thù tự nhiên - sinh học, đảm nhận và
thực hiện một số thiên chức không thể thay thế.
Ở Việt Nam, trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với
những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc. Những giá trị
truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thuỷ
chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua
mọi khó khăn thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá
trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia
đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình
vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Xây dựng gia đình văn hóa mới là mục tiêu cụ thể của cách mạng XHCN, nhằm mục đích
mang lại đời sống ấm no hạnh phúc cho từng gia đình và tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng CNXH. Bởi vì, muốn có gia đình tốt phải có xã hội tốt; mặt khác, gia đình chính là sản
phẩm của xã hội và mang bản chất của xã hội. Do đó, để xây dựng gia đình mới XHCN ở nước
ta phải đảm bảo những tiền đề và điều kiện để sau đây:
Về điều kiện kinh tế-xã hội. Việc thủ tiêu chế độ bóc lột, từng bước xác lập và củng cố
hoàn thiện QHSX mới, thực hiện cải tạo XHCN đối với nền kinh tế quốc dân là yếu tố cơ bản
và quan trọng nhất để từng bước xoá bỏ những tập quán hôn nhân cũ chịu ảnh hưởng nặng
nề của các giai cấp thống trị trong xã hội cũ, xoá bỏ cơ sở kinh tế của tình trạng bất bình
đẳng về giới, bất bình đẳng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên trong gia đình.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, phát triển nền kinh thị trường định hướng XHCN, một
mặt từng bước hình thành hoàn thiện và phát triển các cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH,
mặt khác, tạo ra những điều kiện, những cơ hội để phát huy mọi tiềm năng của mọi gia đình,
mọi thành viên trong xã hội. Phát triển theo định hướng XHCN còn là tiền đề để từng bước
giải quyết đúng đắn giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội,
xoá đói giảm nghèo. Điều đó cũng tạo ra những cơ sở, điều kiện phát triển gia đình, từng bước
khắc phục những hạn chế, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, hình thành các yếu

tố tích cực trong gia đình, thực hiện bước chuyển từ gia đình truyền thống sang gia đình mới
theo định hướng XHCN.
Về điều kiện chính trị và văn hoá - xã hội. Về chính trị: Cùng với sự xác lập và từng
bước phát triển kinh tế, nhà nước XHCN chú ý đến việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực
hiện một hệ thống pháp luật, trong đó có Luật hôn nhân và gia đình. Cùng với hệ thống chính
sách và pháp luật được xây dựng, ban hành nhằm đảm bảo thực hiện lợi ích của mọi công
dân, trong đó có phụ nữ, Luật hôn nhân và gia đình ngày càng hoàn thiện đã thực sự là cơ
sở pháp lý cho quá trình thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, xây
dựng gia đình bình đẳng, dân chủ, bảo đảm cuộc sống gia đình, hạnh phúc và bền vững. Với
sự ra đời và hoàn thiện của hệ thống pháp luật và chính sách bảo đảm thực hiện thắng lợi
mục tiêu xây dựng CNXH, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được sự thừa nhận và bảo vệ
của pháp luật - cơ sở trực tiếp của xây dựng gia đình hạnh phúc trong CNXH. Chính điều đó
đã tạo ra ngày càng đầy đủ hơn những điều kiện để gia đình có thể kế thừa những giá trị văn
hoá truyền thống trong quan hệ tình yêu, hôn nhân của mỗi dân tộc, vừa phát triển những nhân
tố mới, tích cực hơn của hôn nhân, gia đình hiện đại. Về văn hoá: Trong quá trình xây dựng
CNXH, giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học - công nghệ luôn được coi là quốc sách
hàng đầu, tạo ra ngày càng nhiều cơ hội, điều kiện phát huy đầy đủ khả năng mỗi công dân,
mỗi gia đình. Cùng với phát triển khoa học - công nghệ, một hệ thống chiến lược và
Trang 8
chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí cũng được nhà nước xây dựng và
tổ chức thực hiện. Các thành viên xã hội, mọi gia đình đều được hưởng những thành quả do
chính sách phát triển giáo dục, nâng cao dân trí. Dân trí cao là một tiền đề xã hội quan trọng
để xây dựng gia đình bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc.
Về điều kiện xã hội. Cùng với phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nhà
nước XHCN cũng chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện một hệ thống các chính sách xã
hội trên các lĩnh vực dân số, kế hoạch hoá gia đình, việc làm, y tế và chăm sóc sức khoẻ, bảo
hiểm xã hội Những chính sách này được xây dựng, từng bước đi vào cuộc sống mà kết quả
của nó là việc tạo ra những điều kiện và tiền đề quan trọng đối với những thay đổi theo
chiều hướng tích cực trong hình thức tổ chức, quy mô, kết cấu gia đình.
Phương hướng cụ thể xây dựng gia đình văn hóa góp phần xây dựng xã hội lành mạnh ở

nước ta như sau:
Một là: Xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay phải trên cơ sở kế thừa, giữ gìn và
phát huy các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam, đồng thời tiếp thu những
giá trị tiến bộ của thời đại về gia đình.
Bên cạnh nhữ ng mặ t tiêu cự c, gia đình truyền thống có những giá trị tốt đẹp cần
được kế thừa, phát huy trong điều kiện mới. Trong số các giá trị đó phải kể đến truyền thống
vừa cố kết trong gia đình lại vừa đoàn kết tình làng nghĩa xóm; tình yêu gia đình gắn chặt với
tình yêu dân tộc.
Trong điều kiện hiện nay, sự chuyển đổi hệ giá trị từ gia đình truyền thống sang gia đình
hiện đại đang đòi hỏi phải tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hoá của nhân loại. Những giá trị
văn hoá ấy chỉ có thể được chọn lọc, được tiếp thu một khi các giá trị tốt đẹp của gia đình
truyền thống được bảo tồn, được phát huy dung nạp những nội dung giá trị mới phù hợp với
văn hoá và đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam.
Hai là: Xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay được thực hiện trên cơ sở quan hệ
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bảo đảm quyền tự do kết hôn và ly hôn.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là bước phát triển tự nhiên của tình yêu chân chính và được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ không hề bác bỏ sự quan tâm,
hướng dẫn, chia sẻ tâm tư tình cảm của các bậc cha mẹ. Sự quan tâm đúng mức của cha mẹ
thường là giúp cho con cái có trách nhiệm hơn, sống đúng mực hơn trong tình yêu, ý thức được
đầy đủ hơn về trách nhiệm mỗi người trong hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ bao giờ cũng gồm hai mặt tự do kết hôn và tự do ly hôn. Nếu
tự do kết hôn được xây dựng và là sự phát triển của tình yêu chân chính, thì ly hôn là kết cục
khó tránh khỏi khi tình yêu không còn nữa. Ly hôn chính đáng là cần thiết, nhưng cần có sự
bảo đảm của pháp lý, có sự hỗ trợ, hoà giải của các đoàn thể xã hội, của cộng đồng làng xóm,
dân phố.
Ba là: Gia đình mới ở Việt Nam được xây dựng, trên cơ sở các quan hệ bình đẳng,
thương yêu, có trách nhiệm cùng chia sẻ, gánh vác công việc của các thành viên để thực
hiện các chức năng cơ bản của gia đình và nghĩa vụ xã hội
Trong số các quan hệ giữa các thành viên gia đình, cần đề cập hai quan hệ cơ bản nhất:
quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ - các con. Việc hình thành và từng bước phát triển gia

đình mới, cần đặc biệt chú ý đến bình đẳng trong quan hệ vợ - chồng. Kết hợp nhiều giải
pháp, biện pháp, trong đó sự đồng bộ của việc đề ra và thực hiện các chính sách kinh tế, văn
hoá, giáo dục góp phần quan trọng tạo ra và từng bước củng cố quan hệ bình đẳng vợ -
Trang 9
chồng trong tham gia quyết định các vấn đề trọng đại của gia đình cũng như tham gia các
hoạt động xã hội.
Cùng với quan hệ vợ chồng, trong xây dựng gia đình mới cần chú ý đến quan hệ cha, mẹ -
con cái, quan hệ giữa anh, chị - em, quan hệ ông, bà - các cháu trong các gia đình nhiều thế
hệ. Trong xây dựng các quan hệ này, sự tác động của xã hội đóng vai trò hết sức quan trọng,
thông qua các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội, văn hoá - giáo dục, tuyên truyền
vận động.
Bốn là: Xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay gắn liền với hình thành và củng cố
từng bước các quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các thiết chế, tổ chức ngoài gia đình
Đoàn kết, tương trợ thương yêu đùm bọc nhau là một giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam và con người Việt Nam, của gia đình truyền thống Việt Nam. Trong giai
đoạn hiện nay, xây dựng gia đình mới cần chú ý trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống
ấy. Các gia đình đoàn kết động viên giúp đỡ nhau cùng thực hiện các chủ trương chính sách
mới, thực hiện những quy ước, phong tục tiến bộ của gia đình, làng xóm, thực hiện từng
bước quy chế dân chủ trong mỗi làng, xã, trong mỗi gia đình đó chính là một phương
hướng quan trọng của xây dựng gia đình mới ở nước ta.
Tóm lại: Ở nước ta hiện nay, Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi
trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, xây dựng gia đình văn hoá mới là chủ trương của
Đảng hiện nay ta, nó có ý nhĩa to rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc ổn định và cải thiện
đời sống, thực hiện kế hoạch hoá dân số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức, văn
hoá tốt đẹp của dân tộc, phát triển LLSX. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “rất quan tâm đến
gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng CNXH mà
phải chú ý hạt nhân cho tốt”.

Trang 10
Câu 3 (Vấn đề con người) : Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn xây dựng CNXH, trước
hết cần phải có con người XHCN” (HCM toàn tập, Nxb CTQG, HN-1996, tập 9, tr 448)
Bài làm: Nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của
mỗi quốc gia. Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển, muốn xây dựng thành công
CNXH cần phát huy có hiệu quả nguồn lực con người của đất nước. Như Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần phải có con người XHCN” (với ý nghĩa là
đặc biệt chú ý đến vấn đề nhận thức của con người về CNXH - tức là phải giác ngộ xã hội chủ
nghĩa).
CN Mác-Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng
thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người XHCN bao gồm cả những con người từ xã hội cũ
để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ XHCN
mang những nét đặc trưng của CNXH, song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng,
tác phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới XHCN là quá
trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc
hậu. Con người XHCN vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng CNXH, vừa là sản phẩm của
quá trình đó.
Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu những giá trị truyền thống của dân tộc,
căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, con người XHCN mà chúng ta phấn đấu xây dựng
có những đặc trưng: Một là, con người có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ. Đồng thời xã
hội tạo ra những điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, v.v. để con người thực hiện được quyền
Trang 11
làm chủ đó. Hai là, con người lao động mới, có tri thức sâu sắc về công việc mà mình đang
đảm nhận, lao động có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp, biết đánh giá
chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản thân. Ba là, con người sống có văn hoá, có
tình nghĩa với anh em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong từng
mối quan hệ xã hội và giải quyết đúng đắn được những mối quan hệ đó; thường xuyên có ý
thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khoẻ, bảo đảm phát triển toàn
diện cá nhân. Bốn là, con người giàu lòng yêu nước, thương dân, có tình thương yêu giai
cấp, thương yêu đồng loại, sống nhân văn, nhân đạo, có ý thức và kiên quyết đấu tranh bảo vệ

chế độ XHCN, bảo vệ những thành quả cách mạng; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu chống phá của kẻ thù.
CNXH có được xây dựng thành công hay không, tuỳ thuộc vào việc chúng ta có phát huy
tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng CNXH, Hồ
Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN".
Để làm rõ hơn quan điểm trên của Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu vai trò nguồn lực con
người trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Trước hết, trong lĩnh vực kinh tế, cần xem xét con người với tư cách là LLSX và vai trò
trong QHSX. Như ta đã biết, trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan
trọng nhất trong LLSX. Ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất
xám trong giá trị hàng hoá ngày càng cao, thì vai trò của người lao động có trí tuệ lại càng
quan trọng trong LLSX. Con người khi được làm chủ những TLSX, được đào tạo một cách
chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm
năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất như huy động vốn, động viên
khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả, quản lý chặt chẽ nguyên liệu vật tư, do vậy,
hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn. Ngày nay vai trò người quản lý trong sản xuất kinh
doanh ngày càng trở nên quan trọng, do vậy, các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ này.
Trong quá trình xây dựng CNXH, người lao động đã trở thành những người làm chủ đất
nước, làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm.
Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh
tế-xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước ngày càng giàu đẹp.
Thứ hai là trong lĩnh vực chính trị. Từ khi giai cấp công nhân và đảng của nó lãnh đạo
toàn xã hội thì con người đã được giải phóng khỏi áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, trở thành
người làm chủ đất nước, nhân dân tự tổ chức thành nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân.
Xét nguồn lực con người trên phương diện chính trị, khi mà người dân có tri thức, có năng
lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những người có đức có tài vào các
cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh.

Có thể khẳng định, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhà
nước XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân; trong quá trình đấu tranh bảo vệ những
thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của
kẻ thù.
Thứ ba là trong lĩnh vực văn hoá. Dưới CNXH NDLĐ đã trở thành người làm chủ trong
đời sống văn hóa xã hội. Hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình do nhà nước quản lý nhằm
Trang 12
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, góp phần nâng cao
mức hưởng thụ văn hoá cho quần chúng NDLĐ. Mặt khác, quần chúng NDLĐ cũng là những
người góp phần xây dựng nên những công trình văn hoá, những người sáng tạo ra các tác
phẩm nghệ thuật.
Một khi, con người có tri thức, có hiểu biết về các hình thức nghệ
thuật, sẽ tham gia
sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao như: những bộ phim hay, những điệu múa
đẹp, những tác phẩm văn học có nội dung phong phú, v.v Những công trình văn hóa, nghệ
thuật như vậy dễ đi vào lòng người, có tác dụng giáo dục đạo đức, góp phần hình thành nhân
cách cho mỗi con người trong xã hội. Con người có văn hoá cũng là những người có nghĩa vụ
bảo tồn những di sản văn hoá tinh thần của đất nước, của nhân loại. Do vậy, nếu mỗi con
người có ý thức, năng lực thực hiện tốt công việc này, thì những giá trị văn hoá tinh thần, giá
trị văn hoá vật chất của xã hội được bảo tồn, lưu giữ, được nâng cao.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, mỗi con người chúng ta có điều kiện
tiếp cận với nền văn hoá nhiều nước trên thế giới. Trình độ tri thức của mỗi người về văn
hoá sẽ là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu
tố không phù hợp để làm giàu cho nền văn hoá dân tộc mình, làm phong phú đời sống tinh
thần cá nhân.
Con người có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu tạo ra những khả năng cho họ có
những đóng góp xứng đáng trong sự phát triển khoa học của đất nước. Đảng và Nhà nước
ta luôn luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, tạo điều kiện cho họ cống hiến hết
khả năng trí tuệ cho đất nước, cho sự phát triển của xã hội.
Thứ tư là trong lĩnh vực xã hội. Những vấn đề xã hội bao gồm: Vấn đề lao động việc

làm, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, v.v. Muốn giải quyết tốt
những vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt vai trò nguồn lực con người.
Giải quyết lao động việc làm là một vấn đề được từng gia đình, toàn xã hội chúng ta quan
tâm, vì có giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm mới phát huy được những thế mạnh của
đất nước, mới giải quyết tốt được những vấn đề xã hội khác. Song, muốn giải quyết tốt vấn
đề lao động việc làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người từ
nâng cao sức khoẻ, trình độ học vấn, tay nghề, năng lực quản lý, tới ý thức chính trị cho
người lao động.
Chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay. Chính sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách
nhiệm của mình, cố gắng nỗ lực phấn đấu vươn lên, đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của
toàn xã hội, sự trợ giúp của Nhà nước, v.v.
Như vậy, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, mà còn là chủ
thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao
động sản xuất, con người cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội, bắt tự nhiên phục vụ cho mình,
và làm đẹp cho tự nhiên; đồng thời trong quá trình đó con người cải tạo chính bản thân mình.
Do vậy, sự phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng đó cũng tạo ra sức mạnh to lớn
trong việc phát huy nguồn lực con người để nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội. Ngược lại, sự
thiếu thống nhất, sự phối hợp không đồng bộ của các thành viên trong xã hội cũng sẽ làm
giảm đi, thậm chí triệt tiêu cả động lực phát triển tự nhiên và xã hội.
Nguồn lực con người, xét về mỗi cá nhân, còn là những yếu tố tiềm năng cấu thành con
người có thể được khai thác. Nhưng hiệu quả việc phát huy nguồn lực con người lại tuỳ
Trang 13
thuộc vào chế độ xã hội, tuỳ thuộc vào cách tổ chức xã hội, phụ thuộc vào năng lực và nghệ
thuật của người quản lý xã hội, phụ thuộc vào cơ chế và chính sách xã hội.
Nguồn lực con người không khai thác, không phát huy được là lãng phí lớn nhất. Đặc biệt
là với đội ngũ trí thức càng hoạt động, càng nghiên cứu, càng làm việc trí tuệ của họ càng đa
dạng, càng phong phú và sâu sắc. Nước ta đang còn là một nước nghèo, kinh tế kém phát
triển, thì việc phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất nước càng trở nên quan trọng.
Trong Chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2010, Đảng ta xác định phát huy nhân tố con

người có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất. Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố thuộc
về thể chất và tinh thần, về trình độ chuyên môn, về tay nghề, về phẩm chất đạo đức, về vị thế
xã hội … tạo nên năng lực của con người mà năng lực đó nếu biết phát huy sử dụng tốt, nó sẽ
trở thành động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát triển. Nhân tố con người ở đây là muốn nói đến
và nhấn mạnh khía cạnh quan trọng nhất của con người : đó là hoạt động của con người, là vai
trò, sức mạnh của con người đối với quá trình phát triển KTXH của đất nước. Nhân tố con
người được xem là nhân tố quyết định trong 4 nguồn lực của sự phát triển, bởi vì để có thể phát
huy, khai thác tốt các nguồn lực về tài nguyên, vị trí địa lý và vốn thì đều phải thông qua con
người - tức là nguồn lực (nhân tố) con người.
Như vậy, nhân tố con người là nhân tố trọng tâm, là xuất phát điểm, là nhân tố bao trùm lên
các nhân tố khác trong quá trình phát triển. Nếu chúng ta biết khai thác, phát huy sử dụng tốt thì
sẽ đem lại sự tiến bộ, phát triển cho nhân loại và cho đất nước. Phát huy nhân tố con người là
làm bộc lộ phát hiện, khai thác, sử dụng và bồi dưỡng mọi tiềm năng của con người vì mục đích
phát triển của chính bản thân con người và vì tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, khi đất nước ta tiến
hành xây dựng CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết
phải có con người XHCN” và đó chính là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong
TKQĐ lên CNXH ở nước ta mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta phấn đấu thực hiện.
Để phát huy vai trò nhân tố con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã đề ra một
số phương hướng chủ yếu sau:
Một là, xây dựng và thực hiện một chính sách xã hội đúng đắn và phù hợp vì lợi ích của con
người, do con người và vì hạnh phúc con người. Trên cơ sở lấy con người làm mục tiêu của sự
phát triển, mọi sự phát triển phải xoay quanh con người chứ không phải con người xoay quanh
mọi sự phát triển. Khi nói con người có vai trò to lớn, không phải là khai thác không có định
hướng mà phải trên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng con người, tạo ra môi trường sống lành mạnh, tôn
trọng bằng cách phát triển nét độc đáo ưu điểm của từng cá nhân.
Hai là, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN, nền kinh tế đó phải đảm bảo vừa là phương thức nền tảng để phát huy vai
trò khai thác nhân tố con người có hiệu quả nhất, vừa là điều kiện để mỗi cá nhân bộc lộ những
khả năng, năng khiếu của mình. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành giúp giải phóng
mọi sức sản xuất, mọi tiềm năng của xã hội, sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo các cá

nhân khai thác tốt nhất các tiềm năng đó của đất nước, đồng thời tạo điều kiện cho con người
lao động sáng tạo, năng động hơn, phát triển khoa học và kỹ thuật, từ đó tác động trở lại phát
triển con người. Nhưng cũng cần phải luôn lưu ý, nền kinh tế hàng hóa có mặt trái của nó và là
nguyên nhân làm hạn chế việc nâng cao hiệu quả phát triển con người. Nó làm cho con người
dễ chạy theo lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền. Vì vậy, nhà nước cần phải có sự kiểm tra,
kiểm soát, điều tiết kịp thời làm hạn chế những nảy sinh tiêu cực trong cơ chế thị trường.
Ba là, Xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, bảo đảm cuộc sống an toàn cho mọi
Trang 14
người và an ninh cho xã hội. Ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả những hành vi xâm phạm đến
tài sản, phẩm giá của từng cá nhân trong cộng đồng; bảo vệ người lao động, trừng trị những
người vì lợi ích trước mắt của cá nhân mình mà làm tổn hại đến sức khỏe người khác; đồng thời
thực hiện dân chủ hóa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đảm bảo người dân thực sự làm chủ xã
hội của mình theo đúng tiêu chí: Nhà nước của dân, do dân và vì dân; chống tham ô, tham
nhũng; thực hiện công bằng xã hội nhất là về mặt phân phối lợi kinh tế .
Bốn là, Thực hiện cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực văn hóa tinh thần, tạo điều kiện xây
dựng cho người lao động có một đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú. Trong phát triển
kinh tế thì phải lấy văn hóa làm mục tiêu phát triển. Quan tâm đổi mới giáo dục, đào tạo, nâng
cao dân trí, đào tạo tay nghề, đào tạo nhân tài và thực hiện tốt việc chăm lo sức khỏe của con
người, chăm lo đời sống tinh thần nhân dân.
Năm là, xây dựng và thực hiện giá trị, thang bậc giá trị của người lao động trong đời sống xã
hội để khuyến khích các cá nhân hoạt động tích cực, sáng tạo; nhằm thực hiện việc phân phối
một cách tốt nhất, hạn chế thái độ ỷ lại, trông chờ hay lao động không chân chính.
Tóm lại, trên cơ sở lý luận của CN Mác-Lênin về con người, trong tiến trình cách mạng,
Đảng ta đã từng bước đề ra mục tiêu xây dựng con người XHCN ở nước ta. VKĐH X của Đảng
ta đã rút ra bài học lớn thứ ba là “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiển, nhạy bén với cái mới”. Và
để nước ta có được những con người mới XHCN như mục tiêu của Đảng đã đề ra thì trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, việc nghiên cứu một cách khoa học CN Mác-Lênin và tư tưởng
HCM, đề ra và tổ chức thực hiện các giải pháp nhằm phát huy nguồn lực, nhân tố con người có
ý nghĩa vừa cấp bách, vừa cơ bản, để khơi dậy những tiềm năng to lớn của nhân tố con người,

tạo ra những điều kiện động lực cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước hiện nay, đồng thời vừa là động lực phát triển cho chính bản thân con người VN
thời đại.
Trang 15
Câu 4 (Về TKQĐ): Tại sao nói: “TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam vừa phù hợp với quy luật
khách quan, lịch sử, vừa phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta”.
Bài làm: Các nhà sáng lập CN Mác-Lênin phát hiện ra quy luật khách quan của quá trình
biến chuyển cách mạng căn bản và khẳng định lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp
nhau của các hình thái kinh tế-xã hội phát triển từ thấp đến cao diễn ra như “một quá trình
lịch sử-tự nhiên”, Thực tế lịch sử nhân loại đã có năm hình thái kinh tế-xã hội kế tiếp nhau, đó
là: CSNT, CHNL, PK, CNTB, CNXH.
CN Mác-Lênin cũng quan niệm rằng việc xây dựng hình thái kinh tế-xã hội CSCN là một
Trang 16
việc làm lâu dài và phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn thấp-CNXH, giai đoạn cao-CNCS.
Trong quá trình lịch sử đó, theo các Ông, phải có một giai đoạn đặc biệt hay còn gọi là TKQĐ
từ CNTB lên CNXH. Theo V.I.Lênin, TKQĐ lên CNXH là thời kỳ tiếp tục đấu tranh giai cấp
với những nội dung và hình thức mới trên các lĩnh vực của xã hội để tổ chức và xây dựng thành
công một xã hội mới-XHCN. V.I. Lênin diễn đạt hình tượng về TKQĐ lên CNXH như là
“những cơn đau đẻ kéo dài”. TKQĐ được bắt đầu từ khi GCCN giành được chính quyền và kết
thúc khi xây dựng thành công CNXH. Thời gian của thời kỳ này ngắn hay dài tùy thuộc vào
điều kiện của mỗi quốc gia, đây là thời kỳ gian khổ, khó khăn, phức tạp.
Đồng thời, CN Mác-Lênin khẳng định: TKQĐ lên CNXH là một tất yếu lịch sử, bởi vì: Đây
là 1 thời kỳ bắt buộc đối với tất cả các quốc gia muốn đi lên CNXH, vì CNXH không tự phát
trong lòng xã hội tư bản, mà CNTB chỉ tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật cho CNXH,
CNXH cũng không nảy sinh ngay sau khi GCCN giành được chính quyền mà nó là kết quả đấu
tranh cải tạo lâu dài của nhân dân dưới sự lãnh đạo của GCCN thông qua chính Đảng tiên
phong của nó là ĐCS. Mặt khác, trong thời kỳ này còn nhiều tàn dư của xã hội cũ còn in vết
trong xã hội mới. Hơn nữa, công cuộc xây dựng CNXH là một công việc khó khăn, phức tạp,
chưa từng có trong lịch sử. Do đó cần phải có thời gian để tiến hành cải tạo những tàn dư của
xã hội cũ và tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết cho CNXH. Vậy TKQĐ lên

CNXH là tất yếu khách quan, nếu không có TKQĐ thì sẽ không có CNXH và CNCS.
Đặc điểm của TKQĐ là thời kỳ có kết cấu đan xen trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế-xã
hội, vừa có yếu tố XHCN và vừa có yếu tố khác CNXH. Trên lĩnh vực kinh tế, TKQĐ tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, bên cạnh các thành phần kinh tế Nhà nước và tập thể còn có các
thành phần kinh tế khác với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về TLSX; trên lĩnh vực chính
trị-xã hội, TKQĐ Nhà nước của GCCN được thiết lập, củng cố và không ngừng hoàn thiện,
nhưng còn tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, có những lợi ích chung và
những lợi ích khác nhau và trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, trong xã hội còn tồn tại nhiều hệ
tư tưởng, nhiều luồng văn hóa khác nhau, bên cạnh hệ tư tưởng của GCCN mới được xác lập
thì còn hệ tư tưởng xã hội cũ, bên cạnh nền văn hóa mới XHCN mới xác lập còn tồn tại nền văn
hóa cũ. Do vậy, có thể thấy đây là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt giữa GCCN liên minh
với nông dân và trí thức cùng với các tầng lớp xã hội khác đang ra sức phấn đấu đưa đất nước
quá độ lên CNXH với 1 bên là giai cấp bóc lột và các thề lực phản động tuy đã bị đánh đổ
nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn và được các thế lực phản động quốc tế giúp đở để đấu tranh
giành lại “thiên đường” đã mất. Cuộc đấu tranh giai cấp đối với các nước chậm phát triển thể
hiện ở 2 con đường, con đường phát triển đất nước đi lênh CNXH và con đường phát triển đất
nước theo TBCN.
Lịch sử nhân loại chứng minh rằng, đã có một số nước "bỏ qua" một vài hình thái kinh tế-
xã hội tiến lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn, như: Mỹ, Canada bỏ qua chế độ phong kiến,
Đức, Ba Lan bỏ qua chế độ CHNL …và CN Mác-Lênin cho rằng, sự thật đó cũng nằm trong
quy luật chung của lịch sử và trong thời đại hiện nay nó đang tiếp tục diễn ra. Tính quy luật
đặc thù về "bỏ qua chế độ TBCN để đi lên CNXH" (ở những nước nông nghiệp, chưa qua chủ
nghĩa tư bản) cũng nằm trong quy luật chung là "quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên
phạm vi toàn thế giới", bắt đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) và tất cả các nước
XHCNĐông Âu, Trung Quốc (từ 1949 đến nay), Cuba (từ 1959 đến nay), Triều Tiên, Lào,
… - tức là trong thời đại ngày nay, thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng XHCN.
Vì thế Đảng ta và Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng nghiên cứu về những điều kiện cơ
bản để ra đời hình thái kinh tế-xã hội CSCN theo hình thức "đặc biệt của đặc biệt" - tức là từ
Trang 17
những nước vốn là nông nghiệp lạc hậu dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản đi lên CNXH.

Do đó, “TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam vừa phù hợp với quy luật khách quan, lịch sử, vừa phù
hợp với điều kiện cách mạng nước ta” và ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã xác định “Làm cách
mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Và trên thực tế nước ta
đã thực hiện quá độ lên CNXH từ năm 1945.
Theo tính quy luật chung, Việt Nam muốn có CNXH tất yếu phải trãi qua TKQĐ lâu dài, khó
khăn và phức tạp để phát triển LLSX cao, hiện đại; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
CNXH và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và
có sự giác ngộ của nhân dân ở trình độ cao, bởi vì hơn ai hết, nhân dân ta đã trãi qua và bị áp
bức, bóc lộc dã man dưới các chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc, do vậy khi giành được
chính quyền, không còn con đường nào khác, đó là con đường phát triển đất nước đi lên
CNXH. TKQĐ đó có sự lãnh đạo của ĐCSVN, sự quản lý của Nhà nước Dân chủ cộng hòa
(Nay là Nhà nước Cộng hòa XHCN VN).
Như vậy, nước ta bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có tính chất lịch sử
phù hợp với lợi ích dân tộc và nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nhưng làm
cho CNXH trở thành hiện thực ở một nước như nước ta thật không đơn giản. Hiện nay cuộc
khủng hoảng toàn diện và sâu sắc của CNXH hiện thực đang đặt CNXH trước sự công kích gay
gắt chưa từng có và từ chiều hướng này đã làm nảy sinh những khuynh hướng dao động hoài
nghi thậm chí phủ định khả năng đi lên CNXH ở những nước còn lạc hậu về kinh tế, trong khi
đánh giá đầy đủ những khó khăn hiện nay, nước ta vẫn kiên trì đi theo con đường XHCN mà
nhân dân ta đã chọn lựa và thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện sự nghiệp xây sựng đất
nước. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh; xã hội công bằng dân chủ, văn minh theo
con đường XHCN, điều quan trọng nhất phải là cải tiến căn bản tình trạng kinh tế- xã hội kém
phát triển; đẩy mạnh CNH; HĐH đất nước; chiến thắng những cản trở trong việc thực hiện mục
tiêu đó trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH. Bài học kinh nghiệm
đầu tiên của thắng lợi là: " Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH."
Về mặt lịch sử, thời kỳ quá độ ở nước ta trãi qua 2 giai đoạn: giai đoạn trước khi thống nhất
đất nước năm 1975 và giai đoạn cả nước thống nhất quá độ đi lên CNXH sau năm 1975.
Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam tạm thời chia hai
miền: miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; miền Bắc bước vào thời kỳ
quá độ lên CNXH - hậu phương lớn của cách mạng miền Nam Đảng ta đã xác định rõ: đặc

điểm lớn nhất của miền Bắc, xét về kinh tế, là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá
độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Những thành tựu của miền Bắc trong
những năm chống Mỹ, cứu nước đã thực sự xứng đáng là hậu phương lớn của miền Nam và
có vai trò quyết định nhất đến toàn bộ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước: giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Vận dụng những quan điểm cơ bản mà V.I. Lênin đã nêu ra về đặc điểm thời kỳ quá độ
lên CNXH ở "những nước tiểu nông", Đảng ta và nhân dân ta đã có những thành quả bước
đầu trong xây dựng CNXH, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng khoảng thời gian
1975-1985, chúng ta đã phạm một số sai lầm, trong đó có biểu hiện chủ quan, nóng vội,
giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế: đó là quá chú trọng hai thành phần kinh tế là quốc doanh
và tập thể một cách hình thức, thực hiện quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, hành chính bao
cấp của Nhà nước; nhận thức chưa đúng quan điểm của V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần kinh tế đan xen nhau trong thời kỳ quá
độ, do đó đã biến chế độ sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình thức bề ngoài -
Trang 18
nhiều tư liệu sản xuất chung của xã hội, nhất là đất đai, trở nên không có chủ cụ thể Đó là
một trong những nguyên nhân làm triệt tiêu các động lực, các tiềm năng của toàn dân ta, của
đất nước ta và không phát huy hết nội lực, không tranh thủ được sự hợp tác quốc tế. Vì vậy,
kinh tế, xã hội đã lâm vào trì trệ, khủng hoảng
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự mở đầu chính thức công cuộc
đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định đúng đắn và đã mang nhiều
thành tựu to lớn trên nhiều phương diện. Về lý luận: con đường đi lên CNXH ngày càng được
làm sáng tỏ hơn. Về Chính trị: định hướng XHCN được vững vàng, vai trò lãnh đạo của Đảng
được tăng cường, nhà nước XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân ngày một củng cố.
Quan hệ quốc tế được mở rộng. Về kinh tế: chúng ta đã từng bước chuyển từ nền kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng
XHCN; nền kinh tế có sự phát triển nhanh và tương đối liên tục. Về văn hóa-tinh thần: CN
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tỏ rõ sức sống vững bền, nhiều nét mới trong giá
trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Thể chế chính trị ổn định, đất nước ta
đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế-xã hội để bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-

HĐH, đó là thành tựu vĩ đại của hơn 20 năm đổi mới vừa qua. Đồng thời, chúng ta đã có nhận
thức ngày càng rõ hơn về "thời kỳ quá độ lên CNXH", có thể thấy rõ những bước cụ thể hoá
về phát triển "bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và
kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây
dựng nền kinh tế hiện đại" (ĐH X của Đảng).
Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành CNH, HĐH đất nước. Động lực chủ yếu
để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của toàn xã hội. Phù hợp với học thuyết, trong TKQĐ ở nước ta vẫn
còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau, còn tồn tại nhiều
giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp cũng là tất yếu nhưng cuộc đấu tranh này hoàn toàn khác
trước đây và trong xã hội còn nhiều nền văn hóa khác, hệ tư tưởng khác. Do đó, trong giai đoạn
hiện nay, "Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
đẩy mạnh CNH, HĐH; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".
Để tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam tiến lên, chúng ta phải tiếp tục thực hiện có hiệu quả
những phương hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân; củng cố liên minh giữa
giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng ta lãnh đạo làm nền tảng và là
nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền dân
chủ, làm chủ, quyền lực của nhân dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội
phạm và kẻ thù của nhân dân.
Thứ hai, phát triển LLSX, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân về vật chất và tinh thần.
Trang 19

Thứ ba, thiết lập từng bước QHSX XHCN đáp ứng yêu cầu và tính chất của sự phát triển
LLSX qua nhiều hình thức đa dạng về sở hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất, hợp tác sản xuất
kinh doanh trong nước và quốc tế. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó
kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho cả nền kinh tế quốc dân;
từng bước phát triển kinh tế tri thức một cách phù hợp, có hiệu quả và đúng định hướng
XHCN. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ đạo.
Thứ tư, tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng chủ đạo đời sống tinh thần của đất
nước. Kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá của dân tộc ta và của nhân loại. Xây dựng con
người XHCN có trí tuệ, đạo đức, lối sống, phong cách có văn hoá, văn minh; có thể chất
và đời sống thẩm mỹ lành mạnh. Đấu tranh loại trừ các biểu hiện phản văn hoá, văn minh, phi
đạo lý, đạo đức trái với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và của nhân loại
tiến bộ, trái với mục tiêu và bản chất của CNXH.
Thứ năm, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tập hợp mọi lực lượng xã hội tán thành và phấn đấu vì mục tiêu chung:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vững bước đi lên CNXH. Thực
hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, độc lập và cùng có lợi với
các nước, các tổ chức quốc tế
Thứ sáu, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
XHCN. Thực hiện tốt quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, gắn chặt kinh tế với quốc
phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thứ bảy, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam, theo phương
châm: phát triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt để Đảng ta
luôn luôn trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín đáp ứng vai trò lãnh đạo
xã hội ta trên mọi lĩnh vực trước những yêu cầu ngày càng cao hơn, với những vận hội mới
lẫn những thử thách mới.
Đó là những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
những quan điểm về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng và cũng là định hướng cho
quá trình quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Thực hiện có hiệu quả những phương hướng đó luôn

luôn là nhiệm vụ cơ bản của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhằm xây dựng một xã hội “một
xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao, dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp
bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới".
Có thể xem đây là mô hình CNXH của Việt Nam. Những đặc trưng trong mô hình đó vừa
phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin về xây dựng CNXH, vừa thể hiện
tính đặc thù dân tộc, có tính đến các đặc điểm của thời đại.
Trang 20
Trang 21
Câu 5 (Về liên minh giai cấp): “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh GCCN
với nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách
mạng Việc Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Bài làm: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: “… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”, từ tư tưởng của Người cho ta
thấy rõ: ĐĐK dân tộc là tập hợp mọi người dân vào cuộc đấu tranh chung. Trong tiến trình cách
mạng Việt Nam, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ ĐĐK toàn dân tộc, xác định đó là đường lối,
chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu trong kháng chiến cứu nước, trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc… ĐĐK toàn dân tộc thực sự là nhân tố đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp
cách mạng Việt Nam, là một vấn đề cốt tử của cách mạng… Như ĐH X của Đảng khẳng định:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh GCCN với nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng
một cách đơn độc chống lại GCTS thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh

được với đại đa số NDLĐ mà chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách
mạng thì cách mạng nhất định thắng lợi. Sở dĩ như vậy là vì giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức có những vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội.
Trong cách mạng XHCN, liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là
một tất yếu khách quan:
Trước hết, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cuộc cách mạng XHCN. Đây là cuộc cách
mạng cuối cùng trong lịch sử với nội dung rộng lớn, toàn diện trên tất cả tất cả các mặt, các lĩnh
vực của đời sống xã hội nhằm lật đổ CNTB, xây dựng thành công CNXH, CNCS với tích chất
gây go, quyết liệt, lâu dài gian khổ. Để thực hiện được nội dung, mục đích của cuộc cách mạng
XHCN, phải có một lực lượng đông đảo dưới sự lãnh đạo của GCCN nhằm tạo sức mạnh tổng
hợp để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng XHCN. Do đó, cần phải liên minh 3 lực lượng đông
đảo trong xã hội, đó là liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Hai là, là từ vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong
cách mạng XHCN.
Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng XHCN, với SMLS thủ tiêu CNTB, xây
dựng thành công XHCN, XHCS trong phạm vi mỗi nước, mỗi dân tộc và trên toàn thế giới.
Trong cuộc đấu tranh đó GCCN phải có lực lượng, phải thực hiện liên minh giai cấp để tạo
thành sức mạnh to lớn nhằm xóa bỏ CNTB, xây dựng thành công CNXH. Muốn thực hiện
thắng lợi SMLS của mình GCCN phải tiến hành liên minh chặt chẻ với nông dân và trí thức.
Giai cấp nông dân Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin là lực lượng xã hội đông
đảo, có vai trò quan trọng trong sản xuất và xây dựng chính quyền. Trong xã hội cũ nông dân bị
bóc lột nặng nề, có nguyện vọng được giải phóng. Song, do địa vị kinh tế-xã hội của mình
không cho phép nông dân có khả năng tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Chỉ có thể
thoát khỏi áp bức bóc lột và phát huy vai trò khi giai cấp nông dân liên minh chặt chẻ với
GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN.
Trí thức là tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng ngày càng tăng trong cách mạng XHCN. Trí
thức tham gia tích cực vào quá trình xây dựng CNXH, đổi mới đất nước, đi đầu trong lĩnh vực
Trang 22
phát triển khoa học, công nghệ và văn hóa tinh thần. Song, trong xã hội cũ, trí thức cũng bị bóc
lột và không có khả năng tự giải phóng mình, muốn thoát khỏi áp bức bóc lột và phát huy cao

nhất vai trò của mình, trí thức phải liên minh với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN. Ngược
lại, công-nông không được nâng cao kiến thức, không dần được trí thức hóa, thì không thể xây
dựng CNXH được.
Ba là, từ yêu cầu, đặc điểm kinh tế, chính trị-xã hội của TKQD và của CNXH. Trong TKQĐ
vẫn còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp, các giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất, song
cũng còn những lợi ích riêng của mỗi giai tầng. Muốn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
các lợi ích bảo đảm sự cân bằng và thống nhất về lợi ích kinh tế-chính trị-xã hội của mỗi giai
tầng trong xã hội, thì phải thực hiện liên minh giữa GCCN, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Mặt khác, do yêu cầu xây dựng những cơ sở vật chất của CNXH, đòi hỏi phải xây dựng
và củng cố phát triển khối liên minh công-nông-trí thức, V.I.Lênin chỉ ra: “Nếu không có sự
liên minh ấy thì không thể có dân chủ bền vững, không thể có cải cách XHCN được”.
Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở
châu Âu, nhất là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý
luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên
nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức
được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự nhiên" của mình là giai cấp nông dân. Do
vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và cuộc cách mạng vô sản
này đã trở thành "bài ca ai điếu".
Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin đã
vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công, nông và các
tầng lớp lao động khác trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong
thời kỳ đầu của thời kỳ quá độ, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với
các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác
định trong thời kỳ quá độ không chỉ liên minh giữa các giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao
động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực hiện mục tiêu chung do giai
cấp công nhân lãnh đạo.
Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên
minh với họ là điều tất yếu. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là
nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi
ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó

chính là tính tất yếu về
mặt chính trị-xã hội, là yếu tố tiên quyết.
L
iên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân, nhu cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển của trí thức.
Đối với những nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta thì liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức vừa là vấn đề có tính quy luật tất yếu trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và vừa là lực lượng sản xuất, lực lượng chính trị cơ bản và đông
đảo nhất của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của CN Mác-Lênin, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ĐCSVN đã nêu ra tư tưởng liên minh giữa giai cấp công nghiệp với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức ngay từ ĐHĐB toàn quốc lần thứ II (02/1951) của Đảng chỉ rõ: “Chính quyền của
nước VN Dân chủ Cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân …. lấy liên minh công nhân,
nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do GCCN lãnh đạo”.
Trang 23
Văn kiện Đại hội ĐCS VN lần thứ VII đã khẳng định: “Giai cấp công nhân nếu không có đội
ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công-nông không được nâng cao kiến thức thì không thể
xây dựng được CNXH”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS VN (năm 2001) chẳng
những tiếp tục khẳng định tính tất yếu và vai trò của liên minh công-nông- trí thức trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc VN XHCN mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.
Tính tất yếu của liên minh công-nông-trí thức ở VN trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn là
sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác-Lênin về liên minh
công-nông và các tầng lớp lao động khác và hoàn cảnh cụ thể của VN. Và quan điểm, đường lối
và chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS VN về liên minh công-nông-trí thức là nhất
quán từ khi Đảng ta mới thành lập, lãnh đạo cách mạng VN đến nay và luôn luôn được thực
hiện, kiểm nghiệm qua thực tiễn và phát triển phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của
đất nước và của thời đại.
Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu

cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng CNXH, mà còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy luật chung của cách mạng XHCN ở những nước
có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền kinh tế chậm phát triển.
Cốt lõi của liên minh về kinh tế là mối quan hệ chặt chẽ giữa CN và nông nghiệp. Từ lâu,
Chủ tịch HCM đã khẳng định: “CN và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát
triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.
Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật
của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”.
Nông nghiệp không thể có năng suất cao, hàng hóa nông sản nhiều và chất lượng tốt nếu
không có sự tác động trực tiếp của CN.
Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH
đất nước, nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao…
Như vậy, liên minh công-nông-trí thức là tất yếu khách quan, là quy luật của quá trình cách
mạng XHCN. Liên minh công-nông-trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị-xã
hội vững chắc cho chế độ mới. Bởi vì, đó những lực lượng lao động sản xuất, là những lực
lượng chính trị cơ bản và đông đảo nhất để xây dựng và bảo vệ CNXH. Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân cũng như cách mạng XHCN không thể thành công ở những nước nông nghiệp
nếu ba lực lượng đó tách rời nhau, không được tổ chức lại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của gccn
thông qua ĐCS. Do đó liên minh công-nông-trí thức vừa là nòng cốt, vừa là nền tảng của khối
ĐĐK toàn dân tộc, của Nhà nước XHCN.
Nội dung cơ bản của liên minh công-nông-trí thức trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta là: Kết
hợp đúng đắn các lợi ích (về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội) của GCCN, giai cấp nông dân,
tầng lớp trí thức và của toàn xã hội.
Nội dung chính trị của liên minh: Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản của liên minh thực chất
là mang lại lợi ích chính trị, quyền làm chủ x1t, là xây dựng một Nhà nước XHCN dưới sự lãnh
đạo của ĐCS với đường lối chính trị, đường lối cách mạng nhất quán: Độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH; mang lại lợi ích cho GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức.
Nội dung kinh tế của liên minh: Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vật chất

Trang 24
kỹ thuật của liên minh trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta. Nội dung này của liên minh thực chất
là mang lại lợi ích kinh tế cho các đối tượng liên minh và toàn thể nhân dân lao động; là thời kỳ
phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
KTQD. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay từng bước và từng chính sách phát triển.
Nội dung kinh tế của liên minh trong TKQĐ được biểu hiện qua 3 mối quan hệ kinh tế cơ bản:
Mối quan hệ kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp; giữa Nhà nước với nông dân; giữa Nhà
nước với tầng lớp trí thức. Ba mối quan hệ kinh tế này xuất hiện dựa trên các ýt của nền KTTT
định hướng XHCN.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh: Văn hóa-xã hội là mục tiêu, là động lực của các
nội dung chính trị, kinh tế, suy cho cùng là nhằm phục vụ những nhu cầu, lợi ích vật chất và
tinh thần ngày càng cao của công-nông-trí thức và của nhân dân. Vừa khuyến khích mọi giai
tầng làm giầu chính đáng, vừa tích cực xóa đói giảm nghèo, nhất là cho đại đa số dân cư là
nông dân, miền núi … Nâng cao dân trí, văn hóa cho nông dân, công nhân và nhân dân lao
động, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục phổ thông; chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là công
nhân và nông dân; chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, quan liêu và tệ nạn xã hội. Thực
hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là gia đình thương bênh binh, gia đình liệt sỹ, già cả neo
đơn, khuyết tật … Việc quy hoạch phát triển đô thị gắn liền với công nhân, khoa học và công
nghệ phải gắn liền với quy hoạch xây dựng nông thôn, miền núi, hải đảo … Đây vừa là nội
dung văn hóa-xã hội, vừa mang ý nghĩa kinh tế-chính trị sâu sắc và toàn diện của liên minh
công-nông-trí thức trong xây dựng CNXH.
Để phát huy vai trò của khối liên minh công-nông-trí thức ở nước ta hiện nay, đó là giải
quyết tốt những chính sách đối với từng thành viên trong liên minh như Đại hội X của Đảng đã
khẳng định, đó là:
Đối với GCCN, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm
và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với

công nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển
đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành
phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính
đáng, hợp pháp của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các
khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công
nhân ưu tú.
Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, đưa công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng
đất. Tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến
khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất,
ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất, tiêu thụ nông sản hàng hoá. Hỗ trợ và
khuyến khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ.
Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng
dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất
Trang 25

×