Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

đời sống kinh tế, văn hóa của người pu péo ở huyện đồng văn tỉnh hà giang (1986-2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.85 MB, 113 trang )




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







ĐỖ ĐỨC THÔNG





ĐỜI SỐNG KINH TẾ, VĂN HÓA CỦA NGƯỜI PU PÉO
Ở HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG
(1986 – 2012)





LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN








Thái Nguyên, 2014




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







ĐỖ ĐỨC THÔNG





ĐỜI SỐNG KINH TẾ, VĂN HÓA CỦA NGƯỜI PU PÉO
Ở HUYỆN ĐỒNG VĂN TỈNH HÀ GIANG
(1986 – 2012)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13




LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Loan





Thái Nguyên, 2014



i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn




Đỗ Đức Thông



Xác nhận của Trưởng khoa chuyên môn





PGS.TS. HÀ THỊ THU THỦY








ii


LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Quế Loan cùng các thầy cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam-
Khoa Lịch sử trường đại học Sư phạm Thái Nguyên đã hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình, động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Trong thời gian đi thực tế luận văn tại các làng xã tác giả đã nhận được
sự giúp đỡ của các già làng, trưởng bản, huyện ủy, UBND huyện Đồng Văn

tỉnh Hà Giang. Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quí báu đó.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự động viên, khích lệ của gia đình, bạn
bè đã giúp đỡ trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn



Đỗ Đức Thông


iii

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các ký tự viết tắt iv
Danh mục các bảng v
MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2

3. Mục đích đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4


5. Đóng góp của luận văn 5

6. Cấu trúc của luận văn 5

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI PU PÉO Ở HUYỆN ĐỒNG
VĂN, TỈNH HÀ GIANG 6

1.1.Dân số và phân bố dân cư 6

1.2. Nguồn gốc tộc người 9

1.3. Đôi nét về huyện Đồng Văn và các xã có người Pu Péo sinh sống 11

Chương 2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA NGƯỜI PU PÉO Ở HUYỆN
ĐỒNG VĂN, TỈNH HÀ GIANG 21

2.1. Nông nghiệp 21

2.1.1. Trồng trọt 21
2.1.2. Chăn nuôi 29

2.2. Lâm nghiệp 31

2.3. Thủ công nghiệp 33

2.3.1. Nghề dệt 33

2.3.2. Nghề mộc 35




iv

2.3.3. Nghề đan lát 35

2.3.4. Chế biến thực phẩm 36

2.3.5.Nghề làm ngói máng 38
2.3.6. Nghề rèn 39

2.3.7. Nghề bốc thuốc chữa bệnh 40

2.4. Buôn bán trao đổi 41

2.4.1. Mua bán các sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp 41

2.4.2. Buôn bán 42

2.5. Khai thác nguồn tài nguyên 43

Chương 3. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA 45

3.1. Văn hóa vật chất 45

3.1.1. Ăn uống 45

3.1.2. Trang phục 50

3.1.3. Nhà cửa 52


3.2 Văn hóa xã hội 56

3.3. Văn hóa tinh thần 63

3.3.1.Tập quán cưới xin 63

3.3.2. Tập quán ma chay 65

3.3.3. Lễ hội 68

3.3.4. Dân ca, dân vũ 75

3.3.5. Tín ngưỡng 78

KẾT LUẬN 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

PHỤ LỤC 94




iv


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN




VIẾT LÀ

ĐỌC LÀ
DT
ĐV
HG
HN
KT
Nxb
NN
TT
Tr
UBDT
UBND
XH
Dân tộc
Đồng Văn
Hà Giang
Hà Nội
Kinh tế
Nhà xuất bản
Nhà nước
Thị trấn
Trang
Ủy ban dân tộc
Ủy ban nhân dân
Xã hội









v


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang

Biểu 1.1: Thống kê tộc người Pu Péo ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang tính
đến tháng 3 năm 2011. 8

Biểu 1.2: Danh sách các hộ Pu Péo còn nhiều khó khăn 16

Biểu 2.1: Các mặt hàng mua bán 41

Biểu 2.2: Hệ thống chợ phiên ở Đồng Văn 43


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình hình thành và phát triển của các tộc người, kinh tế, văn
hóa là những yếu tố quan trọng có mối liên hệ mật thiết với nhau và là nền tảng
của mỗi quốc gia dân tộc.

Kinh tế là những hoạt động đầu tiên để đảm bảo cuộc sống của con
người. Trong quá trình vận động và phát triển của mình, mỗi tộc người đều
dựa vào điều kiện đặc trưng riêng mà hình thành nên những loại hình kinh tế
đặc trưng. Bên cạnh đó vẫn có sự giao thoa, đan xen, hỗ trợ nhau giữa các nền
kinh tế trong quá trình vận động và phát triển là khá phổ biến.
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình, có thề nói văn
hóa đóng vai trò quan trọng cho việc định hướng một nền kinh tế vững mạnh.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, tộc người Pu Péo được coi là một
trong những thành viên quan trọng trong cộng đồng tộc người Việt Nam, thuộc
ngôn ngữ Thái Ka-đai có tên tự gọi là Ka beo hay tên gọi khác là La quả hoặc
Pen ti Lô Lô. Địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào ở các huyện vùng
caonhư Đồng Văn, Mèo Vạc,Yên Minh, Bắc Mê của tỉnh Hà Giang [15].
Theo số liệu điều tra dân số và nhà ở năm 2009 của Tổng cục Thống kê,
thì người Pu Péo ở Việt Nam có 900 người đứng thứ 51 trong cộng đồng 54 tộc
người thiểu số Việt Nam, được xếp vào một trong năm dân tộc ít người nhất
nước ta. Tuy dân số ít, song bằng sự đoàn kết, sức sáng tạo, người Pu Péo ở
Việt Nam đã xây dựng cho mình một đời sống kinh tế, văn hóa đặc thù của cư
dân sống ở vùng núi cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên và truyền thống của
tộc người mình [4, tr. 134-225]. .
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn cuộc sống, nhằm góp phần
nhỏ vào tìm hiểu đặc điểm kinh tế, văn hóa của người Pu Péo ở Việt Nam nói


2

chung và ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang nói riêng, cũng như nâng cao ý
thức trách nhiệm, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, bảo tồn những giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc trong công cuộc xây dựng nông thôn mới đang

được phát động trên cả nước hiện nay, và đặc biệt nâng cao nhận thức về lịch
sử Việt Nam để phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, tôi quyết định
chọn đề tài: “Đời sống kinh tế, văn hóa của người Pu Péo ở huyện Đồng
Văn tỉnh Hà Giang (1986- 2012)” làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Người Pu Péo có mặt trên 300 năm ở nước ta, tuy dân số ít, nhưng tộc
người Pu Péo sớm được các nhà nghiên cứu giành nhiều sự quan tâm tìm hiểu.
Các tác tác phẩm đề cập đến người Pu Péo chủ yếu là lĩnh vực văn hóa truyền
thống văn nghệ dân gian của tộc người.
Tác phẩm đề cập đến người Pu Péo sớm nhất phải kể đến là “Kiến văn tiểu
lục” của tác giả Lê Quí Đôn viết vào giữa thế kỉ XVIII. Trong tác phẩm này người
Pu Péo chỉ mới được đề cập tới đặc điểm tộc người và địa bàn cư trú.
Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, tôi đã tiếp cận được một số tác
phẩm nghiên cứu chuyên sâu về tộc người, những tác phẩm đó đã hỗ trợ tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện luận văn. Đó là các công trình nghiên cứu sau:
Năm 1996, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn “Việt Nam hình
ảnh 54 dân tộc” đã giới thiệu tổng quát về bức tranh 54 dân tộc ở nước ta trong
đó có người Pu Péo.
Cuốn “Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam “của giáo sư Nguyễn Văn
Huy do nhà xuất bản giáo dục xuất bản năm 1997 đã đề cập một số đặc điểm cơ
bản về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Pu Péo ở Việt Nam.
Năm 2000, các tác giả Nguyễn Chí Huyên, Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn
Bảo đã viết sách “Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía bắc Việt
Nam”, trong sách đã đề cập một cách toàn diện về nguồn gốc các tộc người
thiểu số sống ở vùng biên giới phía bắc Việt Nam trong đó có tộc người Pu Péo
ở Hà Giang.


3


Nghiên cứu một cách khá toàn diện về người Pu Péo ở Việt Nam phải kể
đến đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Văn hóa người Pu Péo” của Trần Văn Ái được
nghiệm thu năm 2006. Đây là một đề tài nghiên cứu một cách chuyên sâu và toàn
diện về văn hóa truyền thống người Pu Péo trên đất nước Việt Nam. Sau đó, đề tài
đã được tác giả chỉnh sửa và xuất bản thành sách cũng trong năm này.
Cuốn “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam” do nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam xuất bản năm 2010 đã đề cập những đặc trưng cơ bản về tộc người Pu Péo
ở Việt Nam như trang phục, nhà ở, tập quán…
Về “Văn hóa dân gian của dân tộc Pu Péo ở Việt Nam” đã được tác giả Trần
Văn Ái viết và được Nhà xuất bản Dân tộc xuất bản năm 2011 đã nghiên cứu
chuyên sâu về văn hóa dân gian của tộc người Pu Péo ở Việt Nam
Năm 2011, cuốn “ Tổng quan văn hóa truyền thống các dân tộc Việt
Nam” của giáo sư, tiến sĩ Hoàng Nam (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội), đề cập
một cách khái quát về các tộc người thiểu số ở Việt Nam trong đó có trình bày
khái quát về văn hóa ruyền thống của tộc người Pu Péo.
Nhìn chung, do mục đích nghiên cứu, các tác phẩm trên cũng đã đề cập đến
khá toàn diện về tộc người Pu Péo sống trên lãnh thổ nước ta. Tuy nhiên có thể
thấy, hầu hết các công trình đều nghiên cứu về văn hóa truyền thống của tộc người
này, còn vấn đề các yếu tố văn hóa truyền thống các tri thức địa phương trong hoạt
động kinh tế có còn được bảo lưu phục vụ cho đời sống của đồng bào ở mức độ
nào, sự biến đổi văn hóa ở tộc người này thực trang đang diễn ra. Đó chính là
khoảng trống trong các nghiên cứu trên mà tác giả mong muốn thông qua luận văn
của mình sẽ làm sang tỏ vấn đề đó. Chính vì vậy, tôi đã chọn vấn đề tìm hiểu về
đời sống kinh tế và văn hóa của tộc người Pu Péo trong giai đoạn 1986 – 2012 tại
huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang làm luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu được thực trạng và những biến đổi chủ yếu về đời sống kinh tế,
văn hóa của dân tộc Pu Péo ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang kể từ năm 1986
đến năm 2012.



4

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là về đời sống kinh tế và văn hóa của
người Pu Péo ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang. Trong đó nghiên cứu về đời
sống kinh tế bao gồm nghiên cứu về tập quán sản xuất trong kinh tế nông
nghiệp, khai thác nguồn lợi tự nhiên, thủ công nghiệp và trao đổi hàng hóa.
Nghiên cứu về văn hóa bao gồm những lĩnh vực trong đời sống vật chất và đời
sống tinh thần.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu khái quát vị trí địa lí điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, xã
hội, văn hóa của người Pu Péo ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang từ 1986 đến
2012, làm rõ những đổi thay trong đời sống vật chất tinh thần, xác định những
giá trị văn hóa cần bảo tồn và phát huy trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Đồng Văn tỉnh Hà
Giang, tập trung vào các xã có người Pu Péo sinh sống như Phố Là, Phố Cáo,
thị trấn Phố Bảng, thị trấn huyện Đồng Văn
Về thời gian đề tài nghiên cứu đời sống kinh tế và văn hóa của người Pu
Péo từ năm 1986 cho đến năm 2012.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1.Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu thành văn: Bao gồm các Nghị quyết của Trung ương
Đảng về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, các sách, công trình nghiên cứu
khoa học, các bài viết về nguồn gốc tộc người, những nét đặc sắc trong văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của các tộc người. Ngoài ra, tác giả còn tham
khảo các tác phẩm thông sử, sách chuyên khảo, các bài viết về văn hóa hoặc

liên quan đến văn hóa của người Pu Péo.


5

- Nguồn tư liệu thực địa: Trong quá trình thực hiện đề tài của mình, tác
giả đã tiến hành điền dã nhiều lần tới những địa phương có người Pu Péo hiện
đang sinh sống để khảo sát cảnh quan, tiến hành phỏng vấn những người có
tuổi, am hiểu về đời sống kinh tế và văn hóa của người Pu Péo như các trưởng
thôn, trưởng bản, thầy cúng, thầy thuốc, người dân…để tìm hiểu đời sống kinh
tế, văn hóa của người Pu Péo ở Đồng Văn tỉnh Hà Giang.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, để phục vụ công tác nghiên cứu tôi đã
sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic,
phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh nhằm tìm
hiểu về các vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó, chú trọng phương pháp điền dã
dân tộc học để thu thập các tư liệu thực tế.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống các đặc điểm kinh tế, văn hóa của người Pu Péo ở huyện
Đồng Văn tỉnh Hà Giang. Qua nghiên cứu, đề xuất các giải pháp giữ gìn và bảo
tồn các giá trị văn hóa của người Pu Péo ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang.
- Cung cấp cho giáo viên và học sinh những hiểu biết về dân tộc thiểu số
nói chung và của tộc người Pu Péo nói riêng ở địa phương cụ thể để phục vụ
cho việc dạy và học lịch sử địa phương.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được
cấu trúc làm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về người Pu Péo ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
Chương 2. Đời sống kinh tế của người Pu Péo ở huyện Đồng Văn, tỉnh
Hà Giang.

Chương 3. Đời sống văn hóa


ơ


6

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI PU PÉO Ở HUYỆN ĐỒNG VĂN,
TỈNH HÀ GIANG
1.1.Dân số và phân bố dân cư
Người Pu Péo di cư đến huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang cách ngày nay
khoảng hơn 300 năm, khi đặt chân lên mảnh đất Đồng Văn, đồng bào cư trú ở
các xã Phố Là, xã Phố Cáo, Phố Bảng là chủ yếu [21].
Trước khi chiến tranh biên giới xảy ra (trước năm 1979), người Pu Péo ở
Đồng Văn khá đông. Khi chiến tranh xảy ra, phần lớn các hộ gia đình người Pu
Péo đã đi sơ tán tới các địa phương. Sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều hộ gia
đình người Pu Péo không trở về mà định cư luôn nơi sơ tán. Tại Đồng Văn,
nhiều người có họ hàng như vậy, ví như trường hợp gia đình ông Tráng Mìn Tề
ở thôn Chúng Trải có nhiều họ hàng và người thân hiện có quê ở xã Phố Là
nhưng đã định cư từ năm 1979 ở tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay ngay trên địa bàn
huyện Đồng Văn hay một số xã ở các huyện Yên Minh, huyện Mèo Vạc khi
được hỏi về quê quán đồng bào đều nói quê gốc của mình đều ở xã Phố Là.
Điều này chứng tỏ trước năm 1979 người Pu Péo sống chủ yếu ở xã Phố Là
nhưng sau đó do chiến tranh hoặc mưu sinh trong cuộc sống mà một bộ phận
đồng bào đã phân tán ra một số địa phương khác. Sự di cư này vẫn đang diễn
ra, nhưng sự kiện năm 1979 có lẽ là mốc thời gian đánh dấu sự đi cư mạnh mẽ
nhất của tộc người Pu Péo nói riêng và của nhiều tộc người ở Đồng Văn Hà
Giang nói chung. Theo ông Lục Quân Báo ở thị trấn Phố Bảng, năm 1980, ông

cưới vợ là bà Củng Thị Xuân và được bố mẹ cho ra ở riêng, khi đó, chỉ còn
khoảng 5 hộ gia đình Pu Péo ở thị trấn Phố Bảng.
Từ năm 1986, người Pu Péo cư trú tương đối ổn định tại các xã Phố Là,
Phố Bảng, không có biến động lớn về dân cư. Có một số ít con em của đồng
bào thoát li làm cán bộ đến sinh sống ở các xã khác hoặc ở thị trấn huyện Đồng
Văn. Theo tài liệu của Ban chỉ đạo điều tra dân số, người Pu Péo ở Đồng Văn


7

tập trung đông nhất ở xã Phố Là và thị trấn Phố Bảng nhưng cũng không đông
chỉ khoảng 300 nhân khẩu [4].
Người Pu Péo định cư trên độ cao lưng chừng núi, họ ở xen cư với các
tộc người khác mà không tách riêng thành thôn xóm đơn lẻ. Cách sống xen cư
như vậy đã làm cho đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người Pu Péo
chịu ảnh hưởng mạnh bởi nhiều tộc người khác. Khi đi điền dã ở các xã Phố Là
hay Phố Bảng, tôi nhận thấy người Pu Péo ngoài tiếng nói của mình, thì đồng
bào còn sử dụng thành thạo tiếng Mông, tiếng Quan Hỏa, đây là kết quả rõ nhất
của quá trình sống cộng cư với nhiều tộc người.
Có thể nói, Pu Péo là một trong số những tộc người ở Việt Nam đang có
nguy cơ bị biến mất. Xã Phố Là là “thủ phủ” của tộc người Pu Péo mà cũng chỉ
có 24 hộ gia đình [21]. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của đồng bào rất thấp. Theo
số liệu thống kê của ban dân số kế hoạch hóa gia đình tỉnh Hà Giang trong
vòng 8 năm trở lại đây, mặc dù được Nhà nước không giới hạn tỷ lệ sinh thậm
chí còn khuyến khích nhưng tộc người Pu Péo ở huyện chỉ tăng thêm 87 người
[43], vì thế mà người Pu Péo được xếp vào vị trí thứ 2 trong 4 tộc người thiểu
số có dân số ít nhất ở huyện [21].
Mặc dù được coi là “cái nôi” của người Pu Péo ở nước ta, song người Pu
Péo ở huyện Đồng Văn lại sống không tập trung thành một bản riêng mà đồng
bào sống xen cư với nhiều tộc người khác. Có thể nói, đây là cơ hội để đồng

bào trao dổi, giao lưu, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa truyền thống của các
tộc người khác làm cho bản sắc của tộc người Pu Péo đa dạng, phong phú;
nhưng ngược lại cũng là thách thức lớn của tộc người nếu không phát huy bảo
tồn những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của tộc người mình thì cũng dễ
bị hòa tan vào văn hóa các tộc người khác.
Trên cao nguyên đá Đồng Văn, người Pu Péo có tổng số dân là 313
người chiếm 30% dân số người Pu Péo trong cả nước và chiếm 50% dân số
người Pu Péo ở tỉnh Hà Giang. Là 1 trong 4 tộc người có số người ít nhất (chưa


8

đến 500 người) ở huyện Đồng Văn họ cư trú tập trung ở các xã Ma Lé, Lũng
Táo, Phố Là, Phố Bảng và thị trấn Đồng Văn trong đó có xã Phố Là và thị trấn
Phố Bàng tập trung đông nhất ( xem biểu 1.1)
Biểu 1.1: Thống kê tộc người Pu Péo ở huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang tính đến tháng 3 năm 2011.
Số
TT
Địa bàn sinh sống xã Số dân
% so với tổng số người
Pu Péo ở Đồng Văn
1 Má Lé 21 6,7
2 Lũng Táo 3 0,9
3 Phố Cáo 38 2
4 Phố Là 132 42
5 Thị trấn phó Bảng 98 1
6 Thị trấn Đồng Văn 21 6,7
Tổng 313 100



Nguồn: Phòng văn hóa dân tộc huyện Đồng Văn năm 2011

Tại các địa phương trên người Pu Péo chủ yếu cư trú tại các nơi như sau;
Xã Má Lé: ở các thôn Má Lủng B, bản Thùng.
Xã Lũng Táo: ở thôn Mo Xó Tủng.
Xã Phố Cáo: ở thôn Sảng Pà.
Thị trấn Phố Bảng: ở các thôn xóm Xóm Mới, Tiểu khu phố 1, Phố Trồ.
Thị trấn huyện Đồng Văn: ở các xóm Tân Tiến, Động Lực, Đồng Tâm
Nhìn chung tại các xã này, người Pu Péo chủ yếu sống xen cư với các tộc
người khác, ngay cả những xã tập trung đông người Pu Péo nhất như Phố Là, Phố
Bảng cũng chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với các tộc người khác. Việc sống xen cư với
nhiều tộc người đã tạo điều kiện thuận lợi cho người Pu Péo trong việc học hỏi các
kinh ngiệm trong sản xuất nông nghiệp cũng như giao lưu văn hóa tạo sự đa dạng,
phong phú về văn hóa tộc người nhưng mặt khác đây cũng là thách thức lớn về
việc bảo lưu những bản sắc văn hóa truyền thống mà không bị hòa tan.


9

1.2. Nguồn gốc tộc người
Từ thế kỉ XVIII, Lê Quí Đôn đã viết về tộc người Pu Péo dưới cái tên La
Quả “ Giống người này thượng cổ ở nội địa, sau ở tản ra trên núi các xã thuộc
châu Bảo Lạc, làm nghề trồng trọt, không bỏ đi nơi khác cùng dân sở tại gánh
chịu lao dịch với ghi nhận của Lê Quí Đôn đã khẳng định rằng tộc người Pu
Péo là một tộc người đã sớm có mặt và sinh sống định cư lâu dài ở nước ta, là
một tộc người phát triển từ lâu và ở nội địa ý nói là ở bên phương bắc (Trung
Quốc) sau đó đã di cư đến Việt Nam có lẽ là trước cả thời Lê Quí Đôn ở thế kỉ
XVIII nhưng chưa có tài liệu nào nói tới vì vậy ngày nay chúng ta chỉ xác định
tộc người Pu Péo có mặt ở nước ta khoảng 300 năm [9, tr.394].

Huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang là huyện biên giới giáp với huyện Ma
Ly Pho của Trung Quốc nơi có nhiều người Pu Péo sinh sống thì việc người
Pu Péo sớm có mặt ở mảnh đất này là hiển nhiên song khó xác định chính
xác họ có mặt bao nhiêu năm, di cư đồng loạt hay lẻ tẻ. Trong cuốn “Văn
hóa người Pu Péo”, tác giả Trần Văn Ái cũng đã nhận định “chúng tôi
không loại trừ trong người Pu Péo ở Hà Giang có một bộ phận từ bên kia
biên giới di cư vào trong khoảng thời gian hai ba trăm năm nay” [2, tr.32].
Trong cuốn sách “ Các dân tộc ở Hà Giang” của nhiều tác giả cũng đã nhận
định rằng “người Pu Péo đến Việt Nam làm nhiều đợt. Một bộ phận dân tộc
này đã dến Việt Nam từ trước thế kỉ XVIII, một bộ phận đến muộn hơn
khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu XIX có thể họ đã có mặt ở đây trước cả người
Mông và người Lô Lô.” [8,Tr. 251].
Một minh chứng tương đối chính xác còn để lại đó chính là nội dung
khắc trên bia mộ của người Pu Péo. Trong quá trình điền dã tại một số xã Phố
Là, Phố Cáo, thị trấn Phố Bảng tác giả thấy trên bia mộ của dòng họ Củng của
gia đình ông Củng Gia Lượng ở xã Phố Là, gia đình ông Tráng Mìn Tề thôn
Chúng Trải xã Phố Là đều ghi rất rõ tổ tiên của dòng họ Củng và Tráng đã từ
Phù Mặc, Quảng Nam thuộc Vân Nam Trung Quốc đi cư tới Đồng Văn được
300 năm.


10

Theo như lời kể của cụ Củng Gia Lượng 83 tuổi ở thôn Chúng Trải xã
Phố Là, huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang, thì trước kia người Pu Péo cư trú ở 9
phó trong đó có 4 phó ở trên đất Đồng Văn tỉnh Hà Giang (Việt Nam) là Phó
Bảng (Mó Biêng), Phó Cáo (Mó Cau), Phó Là (Mó Nê), Phó Lủng (Mó Nuông)
còn 5 phó ở Ma Ly Pho (Trung Quốc) là Phú Trú (Mó Nương), Phú Trác (Mó
Căn), Phú Plioong (Mó Pluông), Phú Trao (Mó Rào). Người Pu Péo di cư vào
Đồng Văn từ rất lâu và họ di cư theo từng đợt nhỏ lẻ tẻ vào các thế kỉ XVIII và

đầu thế kỉ XIX. Đến ngày nay bản thân đồng bào còn thừa nhận tộc người Pu
Péo cùng tộc người Lô Lô có mặt sớm nhất trên cao nguyên đá Đồng Văn này.
Theo sự thống nhất của nhiều nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và dân tộc
học thì ngôn ngữ của tộc người Pu Péo hiện nay thuộc ngữ hệ Thái Ka đai. Tác
giả Trần Văn Ái qua công tác nghiên cứu, khảo sát thực tế và so sánh với các
hệ ngôn ngữ khác và rút ra kết luận rằng “Trong ngôn ngữ Pu Péo vừa có yếu
tố Kađai nói chung vừa có yếu tố ngôn ngữ Tày Thái, vừa có yếu tố ngôn ngữ
Nam Đảo, nhưng gần gũi với ngôn ngữ Tày Thái hơn cả “ [2, tr.34]. Thậm chí
như nhiều tộc người sống trên địa bàn huyện Đồng Văn thì cho rằng phần lớn
địa danh ở huyện Đồng Văn ngày nay đều được đặt tên theo ngôn ngữ người Pu
Péo. Mặc dù không có chữ viết nhưng tộc người Pu Péo vẫn sử dụng tiếng Pu
Péo hàng ngày mặc dù họ rất giỏi nói tiếng Mông hay tiếng Quan Hỏa. Điều
này càng chứng tỏ tộc người Pu Péo đã có mặt ở cao nguyên đá này từ rất sớm
có thể là sớm nhất.
Từ những chứng cứ trên có thể khẳng định rằng tộc người Pu Péo sống ở
huyện Đồng Văn ngày nay có nguồn gốc là người Pu Péo ở huyện Ma Ly Pho
tỉnh Vân Nam Trung Quốc, vì giữa huyện Đồng Văn và huyện Ma Ly Pho có
đường biên giới dài tới 52,5 km [43], nên người Pu Péo di cư sang nước ta làm
nhiều đợt từ thế kỉ XVIII đến cuối XIX. Tuy nhiên, theo nhiều nghiên cứu cho
tới tận ngày nay cũng chưa xác minh được từng đợt cụ thể.


11

Với hơn 300 năm định cư ở nước ta, người Pu Péo đã tự khai sơn phá
thạch dựng lên làng bản và trở thành một thành viên của đại gia đình dân tộc
Việt Nam. Đồng bào đã sát cánh cùng các tộc người láng giềng đổ mồ hôi và
xương máu để giữ gìn, bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam, và dải đất cao
nguyên Đồng Văn - nơi có người Pu Péo tập trung đông nhất, còn lưu giữ được
những yếu tố văn hóa cổ truyền nhất xứng đáng được coi là trung tâm văn hóa

truyền thống của người Pu Péo ở Việt Nam.
1.3. Đôi nét về huyện Đồng Văn và các xã có người Pu Péo sinh sống
Đồng Văn là một huyện miền núi biên giới của tỉnh Hà Giang nằm ở
điểm cực Bắc của Tổ Quốc, đây là điểm nhô ra cao nhất trên bản đồ Việt Nam.
Đồng Văn có trung tâm huyện cách thành phố Hà Giang 155 km, nơi đây có cột
cờ Lũng Cú là biểu tượng cho chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đây cũng là
cái nôi sinh sống của nhiều tộc người thiểu số. Theo số liệu thống kê về dân số
và nhà ở năm 2009 của tỉnh Hà Giang, toàn huyện có dân số là 64,757 người
trong đó chủ yếu là tộc người Mông chiếm 85% tiếp đó là các tộc người như
Hoa, Dao, Tày, Kinh, Cờ Lao, Lô Lô, Giáy, Pu Péo chiếm 15% Mật độ dân số
là 145 người /km [4].
Thời phong kiến, Đồng Văn thuộc tổng Đông Quan, châu Bình Nguyên,
phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang, sau đó thuộc về châu Bảo Lạc. Khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Ngày 15-12-
1962. Hội đồng chính phủ đã ban hành quyết định số 211 QĐ-CP tách Đồng
Văn thành 3 huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh. Năm 1976 Hà Giang sát
nhập vào tỉnh Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Đồng Văn thuộc huyện của
tỉnh Hà Tuyên. Từ năm 1991 đến nay Đồng Văn là huyện của tỉnh Hà Giang.
Theo số liệu của cục thống kê quốc gia, huyện Đồng Văn có vị trí địa lí
trong tọa độ 23 06 06 đến 23 21 17 vĩ độ Bắc 105 07 35 đến 105 24 40 kinh độ
Đông. Phía Bắc và Tây giáp huyện Ma Ly Pho tỉnh Vân Nam của Trung Quốc,
phía Nam giáp huyện Yên Minh, phía Đông giáp huyện Mèo Vạc, huyện có


12

đường biên giới quốc gia với Trung Quốc là 52,5 km. Tổng diện tích tự nhiên
là 446,66 km trong đó 11,837 ha là đất sản xuất nông nghiệp chiếm 26,51%,,
diện tích núi đá 32,829 ha chiếm 73,49%. [5].
Đồng Văn là huyện nằm trong vùng Công viên địa chất toàn cầu Cao

nguyên đá Đồng Văn được Unesco công nhận năm 2010. Đây là địa phương có
địa hình phức tạp, nhiều núi cao, vực sâu, chia cắt. Nhiều ngọn núi cao như
Lũng Táo 1,911m. Độ cao trung bình 1200m so với mực nước biển. Địa hình
thấp dần từ Tây sang Đông. Đồng Văn có sông Nho Quế và các dòng suối nhỏ
ở Lũng Táo, Phó Bảng, Phố Là chảy qua [43].
Theo cục khí tượng thủy văn thì khí hậu ở huyện Đồng Văn mang tính
ôn đới và phân ra nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau. Một năm chia ra thành 2
mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng
4 năm sau thường có sương mù, sương muối thời tiết khô hanh. Lượng mưa
trung bình khá cao, khoảng 1.600 đến 2.000 mml/năm, ngoài ra còn có mưa đá.
Ở một vài tiểu vùng nhiệt độ có những lúc xuống từ 5 độ C đến 0 độ C như Lán
Xì, Phố Bảng, thời tiết khí hậu rất mát mẻ về mùa hè nhưng rất khắc nghiệt vào
mùa đông.
Giao thông ở huyện Đồng Văn còn rất khó khăn. Đường lên huyện chỉ có
một đường duy nhất là quốc lộ 4C, con đường này hiện nay đã rải nhựa nhưng
mặt đường hẹp, độ dốc, nhiều đèo cao, nhiều cua gấp, đặc biệt đường chủ yếu
bám ven núi đá cheo leo một bên là vực thẳm, nên vào mùa mưa thường gây sạt
lở rất nguy hiểm.
Có thể đi lên Đồng Văn theo hai hướng. Hướng thứ nhất đi theo quốc lộ
4C từ thị xã Hà Giang lên Đồng Văn, hướng thứ 2 có thể đi lên huyện Mèo Vạc
rồi sang Đồng Văn. Hiện nay tuyến giao thông này được coi là tuyến giao
thông huyết mạch để huyện Đồng Văn kết nối với cả nước và cũng là con
đường để giao lưu kinh tế và phát triển các hoạt động du lịch của huyện.


13

Tộc người Pu Péo sinh sống ở các xã Phố Là, Phố Cáo, Má Lé, thị trấn
Phố Bảng và thị trấn Đồng Văn. Đây là các địa phương đều có đường biên giới
với Trung Quốc như xã Má Lé, xã Phố Là, xã Phố Cáo thị Trấn Phó Bảng trừ

thị trấn Đồng Văn. Địa hình ở các xã này rất khó khăn. Hầu hết các xã đều có tỉ
lệ núi đá rất cao, thiếu đất canh tác nông nghiệp, thiếu nước sinh hoạt và nước
tưới nông nghiệp. Cuộc sống nơi đây còn nhiều thiếu thốn, đường giao thông
nhiều chỗ còn khó đi. Chính những khó khăn này đã làm cho cuộc sống của
đồng bào thêm khó khăn.
Nhìn chung, cũng như nhiều tộc người khác sống trên cao nguyên đá
này, cuộc sống của người Pu Péo ở nơi đây cũng rất đơn giản. Họ sống chủ yếu
phụ thuộc vào rừng, cuộc sống tự cung tự cấp là chính và vẫn còn những hộ gia
đình bị thiếu đói trầm trọng.
Theo ông Tráng Mìn Hồ Bí thư thôn Chúng Trải, thì hoạt động trao đổi
hàng hóa với các tộc người khác đã có từ lâu, nhưng trước đây hoạt động mua
bán rất hạn chế vì kinh tế nghèo, còn hoạt động trao đổi với người Trung Quốc
đã xuất hiện từ lâu thông qua hệ thống chợ phiên dọc biên giới ở cả 2 nước
nhưng trước đây việc giao lưu kinh tế của đồng bào bị hạn chế bởi chính sách
cấm vận sau sự kiện tranh chấp biên giới 1979 thì kinh tế của tộc người Pu Péo
hoàn toàn bị hạn chế mua bán trao đổi với Trung Quốc. Giai đoạn này đồng bào
chủ yếu chỉ trao đổi hàng hóa với các tộc người khác thông qua hệ thống các
chợ phiên Đồng Văn, Phố Bảng, Lũng Phìn, Sà Phìn nhưng sự trao đổi hàng
hóa rất thấp. Đồng bào đi chợ chủ yếu mua bán những nhu yếu phẩm, thực
phẩm cần thiết như thịt, rau, dầu, mỡ, muối.
Cũng như nhiều tộc người khác cùng sinh sống ở trên cao nguyên đá giai
đoạn trước năm 1986 người Pu Péo còn hết sức lạc hậu, ở đồng bào còn duy trì
nhiều hủ tục lạc hậu, hiện tượng mù chữ, tảo hôn và hôn nhân cận huyết vẫn
còn đậm nét đã tác động tiêu cực tới đời sống của đồng bào theo như ông Củng
Gia Lượng cho biết (Thời đó người người Pu Péo còn lạc hậu lắm có việc gì


14

xảy ra cũng đều mời thầy cúng về, người ốm không đi khám bệnh ở trạm y tế,

người phụ nữ khi sinh con phải tự sinh tại nhà nên rất nguy hiểm tới tính mạng,
tỉ lệ sinh con đạt thấp thường gây tử vong). Bên cạnh đó người Pu Péo còn duy
trì tục hôn nhân cận huyết thống gây lên tình trạng tuổi thọ của đồng bào chỉ
đạt trung bình là 45 tuổi, nhiều đứa trẻ khi sinh ra hay mắc bệnh hiểm nghèo
khó qua khỏi, chính điều này trong thời gian dài dân số của người Pu Péo tăng
không đáng kể [44].
Tục tảo hôn diễn ra mạnh, mặc dù tộc người Pu Péo không khuyến khích
lấy nhiều vợ tính chung thủy một vợ một chồng rất bền vững nhưng lại kết
hôn sớm. Theo lời kể của bà Củng Thị Xuân ở Phố Mới thị trấn Phố Bảng
cho biết bản thân bà và những người Pu Péo cùng tuổi đều kết hôn sớm có
người dựng vợ gả chồng từ khi 13, 14 tuổi. Do phong tục tập quán cùng với
sức ép của dòng họ và gia đình, không cho phép người Pu Péo kết hôn với các
tộc người khác.
Cái đói nghèo của đồng bào còn bởi tồn tại quá nhiều hủ tục lạc hậu
trong tang ma, cưới xin đặc biệt là là tang ma. Theo nhiều người già ở thôn
Chúng Trải xã Phố Là cho biết, ngày trước, làm lễ ma cho người chết rất tốn
kém, phải mổ nhiều trâu, bò, lợn, gà. Đồng bào thường để người chết trong nhà
nhiều ngày với quan niệm như thế thì người chết mới đem phúc về cho người
sống. sau khi chôn cất xong phải tiến hành làm lễ cúng ma khô (lễ chay). Lễ
chay mới thực sự tốn kém, trong lễ này người ta mổ cả vài con trâu, bò và
nhiều lợn, gà cúng bái, ăn uống trong nhiều ngày những gia đình nghèo thì phải
đi vay mượn trong họ và sau đó phải trả nợ, có gia đình trả nợ trong nhiều năm.
Vì thế mà giai đoạn trước năm 1986 đời sống của đồng bào luôn trong tình
trạng thiếu lương thực, ngô là món ăn chính trong những tháng giáp hạt phải ăn
độn thêm cả khoai, sắn chỉ có lễ Tết mới ăn cơm trắng.
Mặc dù được coi là tộc người có mặt sớm nhất trên cao nguyên đá
Đồng Văn này nhưng do đặc thù dân số quá ít tộc người Pu Péo ở huyện
Đồng Văn không có làng bản riêng của mình mà đồng bào ở lẻ tẻ xen cư với



15

các tộc người Mông, tộc người Cờ Lao và tộc người Hoa. Chính vì thế mà
người Pu Péo ở Đồng Văn chỉ được coi là em út của các tộc người khác trên
cao nguyên đá này.
Nhìn chung, kinh tế của các tộc người nói chung, của người Pu Péo nói
riêng trên cao nguyên đá Đồng Văn vẫn còn rất khó khăn, toàn huyện có 17 xã
và 2 thị trấn thì có tới 15 xã nằm trong diện xã nghèo. Vì vậy đã có nhiều dự án
được triển khai để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế của đồng bào, trong
các dự án đó phải kể đến các dự án 135, dự án 30a, dự án đầu tư dành riêng cho
người Pu Péo trị giá 10 tỷ đồng giai đoạn 2005 – 2010. Đây là những dự án
nhằm hỗ trợ cho đồng bào xây dựng hệ thống điện, đường, trường, trạm và một
phần hỗ trợ đời sống. Bên cạnh đó dự án còn dành một phần kinh phí để khôi
phục, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của người Pu Péo. Cho
đến nay hầu hết người Pu Péo đều được thừa hưởng những chính sách từ dự án
mang lại. Hiện nay tất cả các xã có người Pu Péo sinh sống đều có trường mầm
non, trường tiểu học, điểm văn hóa bưu điện xã, trạm y tế, nước sạch, nhà sinh
hoạt cộng đồng, thủy lợi, điện sinh hoạt. Tuy nhiên, dự án mới chỉ đáp ứng
được những nơi người Pu Péo sống tập trung như xã Phố Là, vẫn còn nhiều hộ
Pu Péo ở các xã Phố Cáo, xã Má Lé chưa được hưởng những thành quả từ dự
án do đồng bào sống đơn lẻ ở những nơi địa hình phức tạp [42].
Từ khi có những chính sách quan tâm, ưu tiên, tạo điều kiện phát triển
của Đảng và chính quyền địa phương, cuộc sống của người Pu Péo ở Đồng Văn
đang dần có những chuyển biến. Đời sống vật chất của đồng bào đã dần được
cải thiện theo như nhận xét của ông Củng chẩn Tráng là người Pu Péo Chủ tịch
xã Phố Là (bây giờ các anh về Phố Là sẽ không thấy còn hộ gia đình người Pu
Péo nào lấy ngô làm lương thực chính nữa). Mặc dù vậy, so với các tộc người
khác trong huyện Đồng Văn, thì tỉ lệ đói nghèo của người Pu Péo còn khá cao,
trong 72 hộ vẫn còn 20 hộ đói nghèo chiếm 27% (xem biểu 1.2) [21].



16


Biểu 1.2; Danh sách các hộ Pu Péo còn nhiều khó khăn
STT Địa bàn
thôn, xã
Số hộ
chưa có
đường
Số hộ chưa
có điện
Số hộ chưa
có nước
sạch
Số hộ
chưa có
nhà
Số hộ
nghèo
1 Ma Lé 1
2 Phố Cáo 8 8 8
3 Phố Bảng 10 10
4 Phố Là 3
Tổng

8 1 18 0 21
Nguồn: Phòng văn hóa dân tộc huyện Đồng Văn (năm 2011)



Qua bảng thống kê này cho thấy, trong 72 hộ Pu Péo ở huyện Đồng Văn,
thì có 21 hộ trong diện hộ nghèo của huyện (chiếm 29 %) cao hơn nhiều so với
múc trung bình của huyện, trong đó có 8 hộ chưa có đường giao thông (chiếm
11%), có 1 hộ chưa có điện lưới quốc gia (chiếm 1,9%), có 18 hộ chưa có nước
sạch (chiếm 25%).
Để khắc phục tình trạng này, huyện Đồng Văn đã tổ chức nhiều khóa tập
huấn về trồng trọt, chuyển đổi cây trồng vật nuôi, triển khai giống mới các dự
án 135, dự án hỗ trợ phát triển dành riêng cho người Pu Péo ở Đồng Văn từ
năm 2005 đến 2010, dự án 30 A, chương trình xây dựng nông thôn mới đang
từng bước làm thay đổi đời sống của người Pu Péo.
Khi đi điền dã tại các xã có người Pu Péo sinh sống, tác giả đã thấy cuộc
sống của đồng bào đang chuyển biến tích cực. Hiện nay, không còn gia đình
người Pu Péo nào phải sống trong những căn nhà tạm nữa, đa số đồng bào
không còn sử dụng ngô làm lương thực chính nữa mà đã chuyển sang dùng
gạo, chỉ còn 4 gia đình các ông Ly Nọ Páo, Ly Vản Sò, Ly Mí Sính, Ly Mí Co
ở thôn Sảng Pà xã Phố Cáo vẫn còn dùng ngô đồ (Mèn Mén) làm lương thực.


17

Từ năm 1990, khi quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc được
bình thường hóa, thì hoạt động giao thương giữa hai nước cũng phát triển, một
số người Pu Péo đã lấy việc buôn bán làm nguồn sống chính. Khi điền dã tại xã
Phố Là tác giả thấy hầu như người phụ nữ nào ở đây cũng có thêm nghề đi chợ
buôn bán. Đồng bào thường thu mua các nông thổ sản tại địa phương để bán
sang Trung Quốc và mua những sản phẩm hàng công nghiệp phục vụ tiêu dùng
về bán tại các chợ phiên ở huyện và một số huyện lân cận.
Đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào cũng có sự thay đổi, đặc biệt
những hủ tục trong cưới xin, ma chay đã giảm đi rất nhiều, đồng bào không còn
tập tục hôn nhân cận huyết hay tảo hôn nữa. Do chính quyền địa phương làm

tốt công tác vận động tuyên truyền, nên ngày nay ở các thôn bản của người Pu
Péo khi có người ốm hay sinh đẻ đồng bào không còn mời thày cúng về chũa
bệnh nữa mà đưa ra trạm y tế xã hay bệnh viện huyện. Các xã đều có điểm bưu
điện văn hóa xã.
Trước năm 1986, đa số người Pu Péo không biết chữ, thậm chí con gái
không được đi học, thì ngày nay con cái của đồng bào trong độ tuổi đều đi học,
có nhiều em đã học ở nhiều trường dân tộc nội trú huyện, tỉnh, trường Vùng
cao Việt Bắc, các trường đại học, cao đẳng. Điển hình như gia đình ông Tráng
Mìn Tề ở thôn Chúng Trải có 3 người con, thì cả 3 người con đều đang học đại
học ở Hà Nội. Nhiều con, em của người Pu Péo trở thành những cán bộ hiện
đang công tác tại huyện nhà.
Nhìn chung giai đoạn 1986 – 2012 cuộc sống của đồng bào Pu Péo ở
huyện Đồng Văn có nhiều nét chuyển biến rất quan trọng. Đồng bào không còn
chặt phá rừng nữa mà ngược lại bảo vệ rừng tốt hơn so với nhiều tộc người
khác cùng chung sống trong địa bàn, cuộc sống không còn phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên nữa, cuộc sống tự cấp tự túc trước kia dần bị phá vỡ thay vào đó đã
xuất hiện mô hình sản xuất gắn với kinh tế hàng hóa, nhiều hộ gia đình người

×