Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận môn Quản lý ngân sách nhà nước (khủng hoảng tài chính)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.58 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Tên tiểu luận:
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH NĂM 2008 VÀ CÁC CÔNG CỤ
TÀI CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ
HỌC VIÊN THỰC HIỆN:
LỚP CAO HỌC:
Cần Thơ, tháng 9 năm 2014
1
Contents
MỤC LỤC
2
I. LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế Mỹ diễn ra từ giữa năm 2008 dù đã
đi qua tuy nhiên hậu quả mà nó để lại cho nền kinh tế nhiều nước là hết sức
nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn đang gồng mình vật lộn với
những khó khăn mà nó để lại. Đây là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực,
bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp và bản thân nó lại là nguồn
gốc trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2010. Khủng
hoảng Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng một
tượng đài, một đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo
theo nó là bao nhiêu khó khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu. Phạm vi ảnh
hưởng và mức độ thiệt hại về kinh tế của cuộc khủng hoảng này là rất lớn, đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng như hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp của nó.
Vậy, khủng hoảng tài chính là gì? Cuộc khủng hoảng tại Mỹ bắt nguồn từ
đâu? Tại sao một cuộc khủng hoảng tại Mỹ lại có thể tạo ra làn sóng ảnh hưởng
lớn như vậy và như các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã ứng phó với


cuộc khủng hoảng ấy như thế nào? Những vấn đề này đã được bản thân tôi thực
hiện nghiên cứu trong quá trình học tập môn Quản lý ngân sách nhà nước. Theo
đó, tiểu luận này sẽ chú trọng tìm hiểu bản chất của cuộc khủng hoảng tài chính,
tác động của nó tới một số quốc gia trên thế giới và việc sử dụng các công cụ tài
chính ứng phó với cuộc khủng hoảng này của Chính phủ Việt Nam.
3
II. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 VÀ CÁC CÔNG CỤ TÀI
CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ
1. Khái niệm Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đoàn
tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Các loại khủng hoảng tài chính:
1.1. Khủng hoảng ngân hàng
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi
ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách
hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các
khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thế dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến
nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường
nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng
ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng,
nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự
thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố
gây ra khủng hoảng tài chính.
1.2. Khủng hoảng trên thị trường tài chính
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân
chính: do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các bong bóng
đầu cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà
nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt
ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất
lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự

trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố
định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những
“bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham
gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài
4
chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất động sản), nhưng không nhằm mục đích
đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu cơ, với hi vọng sẽ bán ra với giá
cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao,
vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ
đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn
mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều
người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều
người cùng bán, gây tình trạng rớt giá, họ không cần hiểu biết nguyên do khi
nào cần mua vào, khi nào cần bán ra nên gọi là “tâm lý bầy, đàn”.
1.3. Khủng hoảng tài chính thế giới
Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình
hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ quốc gia, gây khủng
hoảng tiền tệ.
Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế: Các tập đoàn thường
vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư
không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán
được các khoản vay đế đầu tư dẫn tới phá sản. Do bị hiệu ứng dây chuyền từ
khủng hoảng chung, khi đó các doanh nghiệp không vay được vốn đế đầu tư
hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng.
Một số hướng giải quyết: Giải toả được những hoảng sợ về thanh khoản,
về tính lỏng bằng 2 chiến lược là cung cấp thanh khoản cho thị trường và thuyết
phục các thành viên thị trường rằng họ không cần phải ngay lập tức bán đi các
tài sản của mình. Để thị trường yên tâm thì cần có một cơ chế bảo hiếm tiền gửi
hoạt động tốt. Người đóng vai trò là cho vay cuối cùng là Ngân hàng trung ương
sẽ cung cấp thanh khoản cho thị trường và để thị trường tự phân bổ, điều tiết

lượng thanh khoản đó. Khi đó, công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp hữu hiệu
giúp NHTW cho vay là nghiệp vụ thị trường mở với các giao dịch mua bán lại
tín phiếu Kho bạc do Chính phủ phát hành. Ngoài công cụ chính sách tiền tệ
gián tiếp là cho vay trên nghiệp vụ thị trường mở, cho vay trực tiếp với lãi suất
5
phạt. NHTW ở tình thế rất khó khăn do phải bảo vệ tỷ giá trong khi thị trường
cho rằng cuối cùng thì việc bảo vệ tỷ giá không quan trọng bằng các mục tiêu vĩ
mô và đến một lúc nào đó thì đồng tiền sẽ giảm giá.
Thuế và các hạn chế khác có thể không khuyến khích các nhà đầu tư dài
hạn và có khi còn làm trầm trọng thêm tình hình. Việc cần làm là giải quyết
khủng hoảng thanh toán đế hạn chế thiệt hại bằng cách: loại bỏ những không
chắc chắn của nhà đầu tư về tính trong sạch của các thể chế cá nhân. Thêm vào
đó, buộc các thể chế này phải xử lý những vấn đề về tài sản của mình như định
giá thấp và bán cho cơ quan cơ cấu lại nợ của Chính phủ. Điều này làm tăng
tính lỏng và giảm bớt khó khăn cho người cho vay - ngân hàng. Tuy nhiên, để
giải quyết khủng hoảng tài chính triệt để thì cần phải ngăn chặn nó bằng cơ chế
giám sát, thanh tra và các công cụ, kỹ thuật thích hợp.
2. Cuộc khủng hoảng thế giới năm 2008
Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế tồi
tệ nhất kể từ sau Thế chiến thứ II bắt đầu lan rộng. Từ sự suy thoái của thị
trường nhà đất Mỹ với nguyên nhân được người ta nhắc đến nhiều nhất sau này
là "cho vay dưới chuẩn" (tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản không
đủ đảm bảo trả nợ), cuộc khủng hoảng lan sang thị trường tài chính và rồi tới
kinh tế toàn cầu.
Cơn địa chấn thực sự nổ ra vào ngày 7/9 với việc hai đại gia cho vay thế
chấp của Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac bị quốc hữu hóa. Sau đó, lần lượt
Lehman Brothers, Washington Mutual tuyên bố phá sản. Merill Lynch bị Bank
of America mua lại, còn AIG phải nhận hàng chục tỷ USD cứu trợ từ Chính phủ
Mỹ. Để cứu vãn nền tình thế, ngân hàng trung ương các nước đã phải cắt giảm
lãi suất, bơm tiền cho các công ty hay mua lại nợ xấu. Tuy nhiên, động thái đó

cũng không thể ngăn cản Nhật, EU, Mỹ, Nga và nhiều quốc gia khác trên thế
giới rơi vào suy thoái trong quý IV năm đó. Theo cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên
bang Mỹ (FED) - Alan Greenspan, đây là cuộc khủng hoảng "hàng trăm năm
mới có một lần".
6
Sau nhiều động thái, đến tận cuối năm 2009, khu vực đồng tiền chung châu
Âu tuyên bố EU, trừ Hy Lạp và Tây Ban Nha, đã thoát khỏi suy thoái. Các nền
kinh tế khác như Nhật Bản, Singapore, Hong Kong (Trung Quốc), Đức, Pháp
cũng cho biết đã ra khỏi thời kỳ đen tối nhất. Với tăng trưởng quý III đạt 2,2%,
nền kinh tế lớn nhất thế giới - Mỹ cũng đã qua đáy sau 4 quý tăng trưởng âm
liên tiếp.
Với kết quả như vậy, "suy thoái kép" - cụm từ ám ảnh các nhà quản lý
cũng như chuyên gia kinh tế suốt vài năm đã không trở thành sự thật. Tuy nhiên,
thay vào đó lại là hàng loạt những cuộc khủng hoảng mang tầm quốc gia hoặc
khu vực diễn ra trên khắp thế giới khi điểm yếu của mỗi nền kinh tế bộc lộ và bị
khoét sâu. 5 năm khủng hoảng, người ta đã chứng kiến một nước Mỹ với những
cuộc chơi tài chính rủi ro, lấn át cả kinh tế thực, một châu Âu ì ạch với những
khoản nợ công khổng lồ, Trung Quốc phát triển nóng và khó có khả năng "hạ
cánh mềm", trong khi Nhật Bản vốn đã chật vật với bài toán tiêu dùng trong
nước lại không may khi phải hứng chịu thảm họa kép động đất - sóng thần Với
những nghịch lý như vậy, theo Kinh tế trưởng của IMF - Olivier Blanchard cho
rằng dù đã qua khỏi giai đoạn tồi tệ nhất nhưng thế giới vẫn sẽ phải mất ít nhất
10 năm để lấy lại đà phục hồi như giai đoạn trước khủng hoảng. Nhận định này
không phải là quá bi quan nếu nhìn vào bức tranh kinh tế toàn cầu hiện nay.
Tại Mỹ, 5 năm sau khủng hoảng tài chính, nền kinh tế số một thế giới vẫn
chưa hoàn toàn hồi phục. Theo AP, đây là cuộc khủng hoảng có đà phục hồi
chậm chạp nhất kể từ Đại suy thoái những năm 1930. Riêng năm 2009, 140
ngân hàng Mỹ bị xóa sổ, GDP nước này cũng tăng trưởng âm 2,8%. Hai đại gia
sản xuất ôtô General Motors (GM) và Chrysler nộp đơn xin bảo hộ phá sản
trong cùng năm đó. Cuộc chiến nâng trần nợ công năm 2011 còn khiến Mỹ lần

đầu tiên bị hạ xếp hạng tín nhiệm.
Để cứu vãn nền kinh tế, từ tháng 11/2008, FED đã phải liên tục tung ra
các gói kích thích. Chương trình mua lại trái phiếu hiện tại (QE3) đã được thực
7
hiện từ tháng 9 năm ngoái để bơm 85 tỷ USD mỗi tháng vào nền kinh tế. Lãi
suất cũng được duy trì ở mức kỷ lục gần 0% nhiều năm nay.
Tuy nhiên, mãi đến thời gian gần đây, kinh tế Mỹ mới có một số dấu hiệu
lạc quan. Nước này đã tăng trưởng 2,8% năm ngoái, cao hơn thời kỳ tiền khủng
hoảng năm 2006 (2,7%). Niềm tin doanh nghiệp và đầu tư trong quý II/2013 đã
được cải thiện. Thị trường nhà đất ấm dần, chứng khoán cũng liên tiếp lập kỷ
lục trong vài tháng gần đây trước các số liệu lạc quan của nền kinh tế. Ngân sách
Mỹ tháng 6 lên cao nhất 5 năm và tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm đáng kể so với
gần 10% cuối năm 2010.
Trong khi đó, sau khi tuyên bố thoát khỏi suy thoái từ cuối năm 2009,
châu Âu lại gần như ngay lập tức sa lầy vào cuộc khủng hoảng nợ công đã bước
sang năm thứ 5. Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ cơn địa chấn tài chính
2008. Các quốc gia tăng cường tung kích thích bằng các biện pháp tài khóa đã
khiến thâm hụt ngân sách và nợ công tăng dần. Khủng hoảng bắt đầu từ cuối
năm 2009 tại Hy Lạp, sau đó lan ra toàn khu vực đồng euro. Hy Lạp, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Ireland và Síp đã phải xin cứu trợ quốc tế để tránh vỡ nợ.
Những diễn biến này đã khiến đồng euro mất giá trầm trọng. Chính sách
thắt lưng buộc bụng của các nước trong khu vực, nhằm giảm thâm hụt và nợ
công, cũng khiến tỷ lệ thất nghiệp tại Hy Lạp hay Tây Ban Nha thường xuyên
trên 25%. GDP Hy Lạp thậm chí còn giảm tới 30% kể từ năm 2008. Lo ngại bởi
cuộc suy thoái dài nhất kể từ khi đồng euro lưu hành và tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục,
các lãnh đạo EU đã phải nới lỏng biện pháp khắc khổ trong vài tháng gần đây.
Vì vậy, hoạt động tại châu Âu đã có một số dấu hiệu khởi sắc. Tốc độ suy thoái
tại Italy và Tây Ban Nha đã giảm trong quý II. Các số liệu thương mại tại Đức
cũng tăng mạnh trong tháng 6. Giới chuyên gia dự đoán khu vực eurozone có
thể tăng trưởng dương trong quý II sau 6 quý liên tiếp co lại.

Trái ngược với tình cảnh tại Mỹ và châu Âu, trong những năm đầu của
cuộc khủng hoảng, khu vực Đông Á – Thái Bình Dương lại là điểm sáng khi
đóng góp tới 40% tăng trưởng GDP thế giới. Những nền kinh tế châu Á, như
8
Nhật Bản, Singapore hay Hong Kong (Trung Quốc) cũng thoát khỏi suy thoái
tương đối sớm, hầu hết vào nửa cuối năm 2009.
Những bài học rút ra
Cho đến giờ, giới quan sát đưa ra kết luận là tài chính toàn cầu phải được
kiểm soát chặt chẽ hơn, chính sách tài chính của thế giới không còn là độc
quyền của một nhóm những cường quốc công nghiệp phát triển nhất hành tinh,
mà phải được mở rộng đến những nước ngày càng có trọng lượng lớn trên nền
kinh tế của toàn cầu, trong số này phải kể đến Trung Quốc, Brazil
Riêng đối với các nước nhỏ đang phát triển, đặc biệt là ở khu vực Đông
Nam Á, Giáo sư Trần Nam Bình, Đại học New South Wales, nhận định: "Những
nước nhỏ không thể chỉ trông chờ vào xuất khẩu và coi đây là một yếu tố tăng
trưởng lâu dài. Những nước này phải dần dần chuyển đổi để đẩy mạnh tiêu thụ
nội địa, chuyển đổi từ sản xuất để xuất khẩu qua các dịch vụ". Theo ông, bài học
chính chúng ta có thể rút ra được là: một nền kinh tế uyển chuyển, linh động có
nhiều khả năng cạnh tranh vẫn là mô hình tối ưu trong mọi tình huống.
Tóm lại khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008 là cuộc khủng khoảng
kinh tế đầu tiên của thế kỷ 21 nhưng không giống các cuộc khủng khoảng kinh
tế trước nó. Có thể gọi đây là cuộc khủng khoảng của các nhà băng, khủng
khoảng tín dụng hay cuộc khủng khoảng "phi vật chất" Có những ngày, những
tuần, hàng loạt ngân hàng tuyên bố phá sản, bị mua lại hoặc bị kiếm soát đặc
biệt. Thế giới đã thực sự chao đảo, nghiêng ngả bởi làn sóng sụp đổ của các nhà
băng. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh
hưởng đến một số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không
lớn như các nước đang phát triển khác.
III. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM:

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh
hưởng đến một số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không
9
lớn như các nước đang phát triển khác.
1. Về thương mại
Cuộc khủng hoảng đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu Việt
Nam sang thị trường Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu. Đây là những thị trường xuất
khẩu quan trọng của Việt Nam.
Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ
xuất khẩu sang Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do cầu tiêu
dùng tại Mỹ đang trên đà suy giảm mạnh bởi tác động của khủng hoảng tài
chính, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng nhất là may
mặc, giày da, gạo, cá basa, cà phê
Cuộc khủng hoảng cũng tác động đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam
sang EU và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Phân
tích của các chuyên gia kinh tế cho thấy, do bị tác động mạnh từ cuộc khủng
hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên
nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ có xu
hướng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam cũng đã giảm.
2.Về hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ
Tuy cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống
ngân hàng, nhưng một số tác động gián tiếp là đáng kể. Trước hết, đó là diễn
biến của tỷ giá và lãi suất USD. Tỷ giá USD với đồng Việt Nam trên thị trường
có nhiều biến động do tâm lý của người dân. Trước tình hình đó, Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có các biện pháp, chính sách để điều hành,
ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn để sản
xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu, rà soát và kiểm
soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại.
3. Về đầu tư nước ngoài

Cuộc khủng hoảng đã bước đầu có ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước
10
ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA). Số dự án FDI đăng ký mới
có xu hướng chững lại, trong tháng 10-2008, tổng số dự án đăng ký mới là 68
dự án với tổng vốn đăng ký là 2.02 tỉ USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu
năm (9 tháng đầu năm có 885 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký là 56,27 tỉ
USD). Khả năng giải ngân vốn FDI và ODA trong năm 2008 cũng đang chịu
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ chưa có tác
động lớn đến Việt Nam do dòng vốn đầu tư vào Việt Nam hầu hết bắt nguồn từ
các nước và vùng lãnh thố trong khu vực như Xin-ga- po, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt
động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ dừng lại ở Mỹ mà đã
lan sang các nước phát triển khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc
gia có đầu tư trục tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm tới
80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc
khủng hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn do chi phí
vốn trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế tăng thêm đầu tư
mới và thực hiện các dự án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở
chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về
tháo gỡ khó khăn cho các công ty mẹ. Do vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế thế giới không bị chặn lại thì chắc chắn nó sẽ tác
động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Giải ngân vốn FDI cũng có thể sẽ giảm, khi mà trong tình hình khó khăn
hiện nay, các công ty đầu tư vào Việt Nam sẽ thận trọng hơn trong kế hoạch tài
chính và đầu tư. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI
nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư,
nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay
vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Ngay cả các dự án FDI
đang triển khai cũng có thế bị chững lại, vì rất có thể, các công ty sẽ phải cân

đối lại nguồn vốn, bảo đảm tài chính an toàn trong khủng hoảng. Riêng các dự
11
án mới cấp phép, nếu chủ đầu tư bị tổn thương lớn từ cuộc khủng hoảng này, thì
có thể bị tạm dừng triển khai, thậm chí rút bỏ. Năm 2010 và các năm tiếp theo,
kinh tế thế giới nói chung và kinh tế châu Á nói riêng được dự báo khả quan
hơn, điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi
suất nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn
định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất
toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VNĐ vào USD của Việt Nam
trong khi lãi suất VNĐ vẫn ở mức cao, có thế dòng vốn này sẽ chảy vào trong
một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong những
trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thế tạo áp lực tỷ giá cho VNĐ. Việc
phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó
khăn và chi phí tăng cao.
Dòng kiều hổi từ trước đến nay vẫn là một dòng ngoại tệ tương đối ổn
định, ngay cả trong thời kỳ kinh tế toàn cầu có khó khăn. Trong một vài năm trở
lại đây, dòng kiều hối về Việt Nam tăng mạnh. Ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân
và đầu tư vào kinh doanh, một phần không nhỏ của dòng kiều hổi này được đầu
tư vào chứng khoán và bất động sản - những lĩnh vực hiện nay không còn
"nóng" như trước. Hơn nữa, một phần lớn nguồn kiều hối về Việt Nam lại từ
nước Mỹ, nơi tăng trưởng kinh tế đang sa sút và tình trạng thất nghiệp gia tăng.
Tuy đầu tư nước ngoài được dự báo là sẽ khó khăn hơn trong những năm tới,
nhưng Việt Nam có thể có những cơ hội nhất định qua cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường
chính trị và kinh doanh ổn định, mà Việt Nam lại đang có những lợi thế trong
hai nhân tố này.
Hiện tại, hầu hết các nhà đầu tư vẫn cam kết nhiều vì họ tin tưởng vào
tương lai và triển vọng đi lên của nền kinh tế nước ta. Nhiều nhà đầu tư cho
rằng, tác động của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức độ

nhất định và sẽ được khắc phục trong thời gian
12
Một điểm thuận lợi nữa của chúng ta là các nhà đầu tư lớn như Nhật Bản,
EU đã hướng vào khu vực Đông - Nam Á và có chiến lược đầu tư dài hạn trong
10 năm tới. Tại khu vực Đông - Nam Á, Nhật Bản hướng nhiều nhất vào Việt
Nam với chiến lược đầu tư nhất quán tư2 Chính phủ cho đến các tập đoàn lớn.
Các động thái gần đây của Nhật Bản đã rất rõ ràng và kiên quyết, cho dù trong
bất cứ hoàn cảnh nào, Việt Nam vẫn sẽ là nơi Nhật Bản phân bổ lại sản xuất của
họ. Nhật Bản cũng đã sáp nhập JICA và JBIC thành một quỹ viện trợ ODA
khổng lồ. Mục tiêu của quỹ này cũng hướng vào Đông - Nam Á, trong đó có
Việt Nam.
4. Về tăng trưởng kinh tế
Những tác động trực tiếp và gián tiếp nêu trên của khủng hoảng tài chính
thế giới đang và sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
của nước ta. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến động của kinh tế toàn
cầu sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng GDP của Việt Nam. Khi kinh tế toàn cầu suy
giảm, những thị trường xuất khẩu lớn của chúng ta như Mỹ, Nhật Bản, EƯ và
một số khu vực có nguy cơ bị thu hẹp, đồng thời thu hút đầu tư, cả gián tiếp và
trực tiếp của chúng ta cũng sẽ bị giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu. Nhiều doanh
nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn do tiêu
thụ hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu tư.
IV. CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH CHÍNH PHỦ SỬ DỤNG SAU
KHỦNG HOẢNG:
1. Các công cụ tài chính của Chính phủ
Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý
1/2008 Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp đế ngăn chặn, phòng
ngừa những hậu quả khôn lường của “cơn bão tài chính”. Rất may là Việt Nam
đã kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý để phòng vệ, chống bão ngay từ đầu
năm. Các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác dụng, lạm phát giảm,
tính thanh khoản giữa các ngân hàng được tăng cường, thanh khoản của thị

trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân thương mại, tăng cường ngân sách nhà
13
nước, thắt chặt chi tiêu công, tăng dự trữ ngoại tệ.
Nhìn chung NHNN điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt tùy
vào diễn biến thị trường, có lúc thắt chặt có lúc mở rộng.
- Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt (2007-2008):
Giai đoạn 2007-2008 đánh dấu thời điếm lạm phát phi mã sau nhiều
năm lạm phát ở mức vừa phải. Nguyên nhân của lạm phát có thể do cầu kéo
(tong cầu của nền kinh tế gia tăng), chi phí đẩy (giá các yếu tố đầu vào tăng),
nguồn cung thiếu hụt (khi nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng hoặc vượt
sản lượng tiềm năng), cung tiền tăng quá mức (việc tăng tổng lượng phương
tiện thanh toán) và yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Tuy nhiên, năm 2008
nước ta được coi là “nhập khấu lạm phát”, tức là nguyên nhân gây ra lạm
phát năm 2008 chủ yếu là do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu tố đầu vào
trên thị trường thế giới tăng cao kỉ lục còn do yếu tố nội sinh của nước ta. Đó
là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đấy lên mức cao, giá điện, nước sinh
hoạt cũng tăng, chính phủ thực hiện cải cách tiền lương làm cho thu nhập dân
cư tăng và chi phí doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng thêm áp lực
lạm phát. Trong điều hành chính sách tiền tệ, việc sử dụng công cụ thị trường
mở và tỉ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm không đáng có, làm cho mức
độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong năm 2008, do tỉ giá giữa
VNĐ và USD xuống thấp kỉ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng suy
thoái kinh tế Mỹ và việc FED cắt giảm mức lãi suất đồng USD xuống thấp
nhất trong vòng nhiều năm qua (có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỉ USD,
tương đương việc bơm khoảng 112.000 tỉ vào nền kinh tế làm cho lạm phát
càng thêm trầm trọng. Biện pháp mua vào hơn 7 tỉ USD có những mặt tích cực
là làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (vốn còn ở mức rất thấp so với các nước
trong khu vực), đồng thời tăng giá trị đồng USD để khuyến khích xuất khẩu qua

đó tạo điều kiện phát trien sản xuất trong nước góp phần giảm bội chi cán cân
14
thương mại. Mặc dù sau đó NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở đế hút
tiền trở lại nhưng chỉ thu lại được khoảng 82.000 tỉ. Tuy nhiên, việc làm này
vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm phát vì với một lượng tiền quá lớn đã được
NHNN cung vào nền kinh tế. Thời kỳ này, NHNN thực hiện một loạt các biện
pháp quyết liệt phối hợp cùng chính sách tài khóa của chính phủ nhằm kiềm chế
lạm phát. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thể hiện quyết tâm của
Chính phủ chống lạm phát bằng câu nói nổi tiếng “hy sinh tăng trưởng để kiềm
chế lạm phát”. Chính sách tiền tệ thắt chặt cùng hàng loạt động thái quyết liệt
trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm
mạnh việc cấp tín dụng của các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã
được chặn đứng và bị đẩy lùi. Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện chính sách
tài khóa “thắt lưng buộc bụng” nhằm hạn chế lượng tiền trong lưu thông như
tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả (tiết
kiệm hơn 40.000 tỉ VNĐ). Dồn vốn cho các dự án đầu tư mang lại hiệu quả tức
thời cho nền kinh tế như các dự án nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, xi măng
.Chính phủ còn giao cho các đơn vị hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà
nước phải tiết kiệm cho thường xuyên 10%, tăng cường chống thất thu thuế và
nuôi dưỡng nguồn thu, cơ cấu lại các khoản nợ và rà soát lại các khoản vay của
các doanh nghiệp nhà nước, tố chức đánh giá hiệu quả hoạt động của các tập
đoàn, tổng công ty thuộc sở hữu nhà nước.
• Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ mở rộng (từ cuối năm 2008-2009)
Chính sách tiền tệ bao giờ cũng có độ trễ thời gian nhất định. Việc “thắt
chặt” tiền tệ mạnh tay của Chính phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh
nhưng cũng làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại vì luồng tiền dành cho
nhu cầu đầu tư, tiêu dung giảm, lãi suất vay vốn quá cao làm cho các doanh
nghiệp không thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, hàng loạt doanh nghiệp
vừa và nhỏ rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. Nền kinh tế thế giới
rơi vào suy thoái, nhu cầu nhập hàng hóa giảm, chu chuyến vốn đầu tư FDI

giảm gây khó khăn cho việc xuất nhập khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam
15
đã càng làm cho kinh tể nước ta rơi vào suy thoái trầm trọng hơn. Vì vậy, cuối
năm 2008 khi lạm phát có xu hướng “hãm phanh” thì cũng là lúc NHNN quay
lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Từ tháng 10/2008, khi mà lạm phát
đã được kiềm chế thì NHNN đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ
“thắt chặt” sang “nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện pháp.
Trong tháng 12/2009, để kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín
dụng, phù họp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết của Quốc hội và
chủ trương của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD huy động các
nguồn vốn từ nền kinh tế để mở rộng kinh doanh và đáp ứng các nhu cầu vốn
sản xuất - kinh doanh có hiệu quả, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ
7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu từ 5%/năm lên 6%/năm.
Nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ: nghiệp vụ thị trường mở
được điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung cầu của các TCTD với lãi suất
được điều chỉnh theo mục tiêu quản lý của các TCTD với lãi suất được điều
chỉnh theo mục tiêu quản lý của NHNN. Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện
các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất chào mua giảm dần từ 9%/năm
xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các
TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu
cầu vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên
nhu cầu tham gia các phiên chào mua trên nghiệp vụ thị trường mở không cao
với doanh số trúng thầu chỉ đạt 75% so với lượng tiền chào mua của NHNN.
Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1000 tỉ dồng/phiên. Nửa
cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng tăng cao
theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào
mua qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng trúng thầu binh quân các phiên
tăng mạnh, đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6000 tỉ
đồng/phiên, gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong tháng 12,

NHNN đã chào mua qua kênh nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng xấp xỉ
16
15.000 tỉ đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh
toán tăng cao trong dịp tết dương lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh
hoạt 7 ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và 7%-
8%/năm. Đồng thời để chủ động kiểm soát lạm phát và điều tiết linh hoạt vốn
khả dụng của các TCTD trong hệ thống, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu
NHNN với định kỳ 3 phiên/ tuần, kỳ hạn 3 và 6 tháng, phương thức đấu thầu lãi
suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu thầu bán tín phiếu
NHNN có 2 phiên trúng thầu với doanh số đạt 102 tỉ đồng; mặt khác, NHNN
thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các TCTD gặp khó khăn tam thời về nguồn vốn
bằng VNĐ, tạo điều kiện cho các TCTD cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn
VNĐ và ngoại tệ, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và tăng dự trữ ngoại hối
nhà nước. Kỳ hạn giao dịch hoán đối ngoại tệ được thực hiện là 3 tháng, 6
tháng, 12 tháng với lãi suất tương ứng là 6%/năm, 6.25%/năm, 6.5%/năm. Đến
cuối năm 2009, NHNN chỉ thực hiện giao dịch đổi với các kỳ hạn 3 tháng và 6
tháng với lãi suất được điều chỉnh tăng tương ứng lên mức 7.75%/năm và
8%/năm. Bên cạnh đó NHNN còn cho phép các TCTD xin chiết khấu, tái chiết
khấu và thanh toán trước hạn 20.300 tỉ tín phiếu bắt buộc đã mua trước hạn.
Hỗ trợ lãi suất: Đầu năm 2009, Chính phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm
các nhóm giải pháp cơ bản:
- Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4;
- Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào
tạo lao động;
- Về phía Chính phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy
mạnh xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai
trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại
được phát huy mạnh mẽ. Đen hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi
suất của toàn hệ thống ngân hàng đã đạt 389.107 tỉ đồng, trong đó dư nợ đối với

các doanh nghiệp nhà nước là 61.048 tỉ đồng, doanh nghiệp ngoài quổc doanh là
17
259.454 tỉ đồng và với hộ kinh doanh là 68.605 tỉ đồng. Để đối phó với suy
thoái, Chính phủ đã đưa ra các gói hỗ trợ lên đến trên 17.000 tỉ đồng. Phần lớn
tiền hỗ trợkhông được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi
suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các
doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phẩm, duy
trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, Cũng đã có nhiều ý
kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính phủ rằng can thiệp như
vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các ngân hàng thương mại, làm như vậy thực
chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì trợ giá qua lãi
suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, Và công bằng mà
nói, chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong muốn như: làm
thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và VNĐ (nhu cầu vay vốn VNĐ tăng mạnh, một
số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang vay bằng
VNĐ, ); tạo sức ép cho tỷ giá, Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ
lãi suất, thực tế ngày càng chứng minh cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ
nhất, số tiền hỗ trợ của Chính phủ không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu
chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư, chưa kể quá trình thực hiện có
the phát sinh nhiều tiêu cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào
bẫy thanh khoản, các ngân hàng thương mại (NHTM) không huy động được và
cũng không cho vay được, và rõ ràng là nếu không tăng được tín dụng cho nền
kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi suất qua tín dụng
sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích tiêu dùng và vẫn đảm bảo các
NHTM vẫn huy động được nguồn vốn. Thứ tư, số tiền hỗ trợ qua tín dụng được
khuyeechs đại lên nhiều lần tạo ra nguồn vốn lớn cho đầu tư và tiêu dung xã hội.
2. Đánh giá những tác động và kết quả đạt được sau khi thực hiện các
chính sách trên:
Chính phủ Việt Nam đã đề ra 05 nhóm giải pháp cơ bản:
- Giải pháp thúc đẩy sản xuất - kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu;

- Giải pháp đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng;
18
- Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt;
- Thực hiện sâu rộng chính sách an sinh và xã hội;
- Phối hợp tốt trong tổ chức chỉ đạo, điều hành
* Bài học rút ra từ khủng hoảng thực tế đã cho thấy, Trí tuệ và bản lĩnh
Việt Nam đã, đang và sẽ bị thử thách, kết quả chống lạm phát, vượt qua khủng
hoảng và triển vọng phát triển kinh tế bền vững ở nước ta sẽ còn tùy thuộc rất
lớn vào quyết tâm chính trị, nhận thức và cách thức giải quyết các điểm mấu
chốt sau: Phối hợp hài hòa bàn tay Nhà nước pháp quyền và bàn tay thị trường
Những cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới đã,
đang và sẽ còn chứng tỏ, khi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước hoặc nắm quá
chặt, hoặc bị buông lỏng quá mức, và cả khi “bàn tay vô hình” của thị trường bị
lạm dụng và đề cao thái quá, thì đều có nguy cơ dẫn đến những cực đoan, ảnh
hưởng xấu đến nền kinh tế và thậm chí dẫn đến khủng hoảng nếu có những bất
đồng quá mức giữa nhà nước và thị trường. Các khiếm khuyết của thị trường tự
do phải được sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động và tích cực của Nhà nước
kiểu mới, mang tính pháp quyền và đại diện cao hơn. Đặc biệt, cần sớm khắc
phục những bất cập về nhận thức và lạm dụng trong thực tế về quyền lực chủ
quan của nhà nước, về sức mạnh thị trường khách quan, về tính đa mục tiêu của
chính sách, cần nâng cao chất lượng xây dựng các quy hoạch, dự án; thực hiện
nghiêm túc các quy định về đấu thầu thực chất, chống thông thầu, ép thầu và các
gian lận thầu khác gây tổn hại lợi ích chung và dài hạn; tăng cường kiểm toán
độc lập, xây dựng và áp dụng rộng rãi hệ thống chỉ tiêu hiệu quả Về dài hạn, cần
chuyển nhanh từ mô hình “nhà nước – nhà đầu tư lớn nhất” và phát triển chủ
yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nước – nhà quản lý công” và phát
triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển dịch nguồn động lực chính trong đầu tư
phát triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà
nước; yêu cầu về tổ chức lại nền kinh tế và các doanh nghiệp trong nước sẽ cấp
thiết hơn nhằm tăng cường sự hợp tác, gắn kết, sức cạnh tranh và hiệu quả sản

xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, cũng như hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội
19
nói chung. Hơn nữa, cần sớm thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ, lành
mạnh trong việc cung cấp các sản phẩm và nguyên , nhiên liệu đầu vào thiết yếu
của nền kinh tế, rồi mới bãi bỏ sự kiểm soát hành chính về giá cả. Coi trọng tính
đồng bộ và chú ý đến tính 2 mặt của các giải pháp chính sách. Bản lĩnh và Trí
tuệ Việt Nam còn thể hiện trong sự dám đối diện, chấp nhận và biết cách vượt
qua thử thách trên cơ sở tuân thủ các yêu cầu, lẫn quy trình của kinh tế thị
trường, coi trọng tính đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm của các mục tiêu, loại
công cụ chính sách và sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan chức năng
hữu quan, nâng cao hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội Ngoài ra, cần coi trọng việc
xây dựng hệ thống số liệu thống kê và dữ liệu thông tin quốc gia và chuyên
ngành hiện đại, có chất lượng cao, đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng về quản lý nhà
nước các cấp, kinh doanh và nghiên cứu khoa học; khắc phục tình trạng phân
tán, chia cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hoá thống nhất giữa các nguồn
và đơn vị quản lý thông tin, gây khó khăn và đắt đỏ cho các đơn vị và cá nhân
có nhu cầu tiếp cận, khai thác và sử dụng các thông tin này, đồng thời làm giảm
sức cạnh tranh của nền kinh tế và gia tăng sự lãng phí các nguồn lực xã hội.
Trọng dụng người tài và đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng. Hiền
tài là nguyên khí quốc gia, vì vậy, Việt Nam cần có nhiều biện pháp, chính sách
để khuyến khích người tài, có chế độ bồi dưỡng hợp lí và nhất là việc đầu tư
đúng mức, tránh “bỏ xót” nhân tài. Muốn được như vậy cần phải có sự nổ lực từ
phía nhà nước và sự đồng thuận từ nhân dân.
Tham nhũng làm thất thu và thất thoát, giảm hiệu quả các nguồn lực xã
hội, những luật định quản lý kinh tế – xã hội, làm nản lòng nhà đầu tư trong và
ngoài nước, gây cản trở cho sự vận hành thông suốt của nền kinh tế với tư cách
một chỉnh thể tự nhiên, là cội nguồn mọi bất ổn, trở ngại và thách thức lớn nhất,
gây tổn thất to lớn, khó lường cho lợi ích, uy tín quốc gia, làm gia tăng tình
trạng rối loạn kỷ cương xã hội, xu hướng ly tâm và mất đồng thuận, kẻ thù nguy
hiểm nhất từ bên trong đối với công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Vì

vậy, phòng, chống tham nhũng đang là bài toán khó mà vẫn chưa có lời giải triệt
20
để. Nền kinh tế trong sạch vững mạnh không thể có hiện tượng tham nhũng.
Đảng và Nhà nước ta cần mạnh tay hơn nữa, đấu tranh không khoan nhượng với
nạn tham nhũng. Tất cả vì một Việt Nam tươi sang và vững mạnh hơn.
V. KẾT LUẬN
Mặc dù gần đây kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng
đã có những dấu hiệu phục hồi, nhưng khó khăn ở phía trước còn rất lớn. Để
ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới,
chúng ta vẫn cần tập trung thực hiện tốt một số giãi pháp sau đây:
1. Tiếp tục thực hiện 09 nhóm giải pháp về tài chính theo Nghị quyết
30/2008/NĐ-CP của Chính phủ, đồng thời tích cực chủ động triến khai các biện
pháp tài chính bổ sung theo tình hình mới gồm: Rà soát lại nhiệm vụ chi và sắp
xếp lại cho phù hợp. Có phương án tìm nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách, tăng
cường các biện pháp chống thất thu. Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa
phương đẩy nhanh chủ trương xây nhà ở xã hội. cần chuẩn bị các phương án
kích cầu dự phòng trong trường hợp các giải pháp hiện nay chưa đủ liều lượng
để kích thích quá trình phục hồi kinh tế.
2. Chính sách tiền tệ hiện nay về cơ bản là đúng hướng. Tuy nhiên, do
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu chưa có hồi kết, tình hình sẽ
biến động liên tục nên về mặt liều lượng, phải bám sát diễn biến của thị trường.
Trong trường hợp cần thiết phải hạ lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu cho
phù hợp với tình hình lạm phát để thúc đẩy sản xuất trong nước. Bám sát tình
hình thị trường để điều chỉnh dần tỷ giá theo hướng có lợi cho xuất khẩu. Nâng
cao khả năng giám sát hệ thống để tránh rủi ro trong hoạt động tín dụng. NHNN
chủ động giám sát các NHTM, tăng cường kiếm tra, kiếm toán nội bộ, khuyến
khích các NHTM tăng vốn đế đảm bảo an toàn hệ thống.
3. Tăng cường chỉ đạo, giám sát chặt chẽ tình hình thực hiện các giải pháp
kích cầu bù lãi suất, đảm bảo yêu cầu: đúng mục đích, thủ tục cho vay nhanh, có
sự kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, liên tục các dự án cho vay.

21
4. Đẩy mạnh giải ngân vốn xây dựng cơ bản, thắt chặt chi tiêu và đầu tư
công, nghiên cứu chuyển đầu tư công sang cho khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh hoặc vay nước ngoài. Đây cần xem như là chiến lược để khuyến
khích các doanh nghiệp tập trung cho sản xuất và thị trường.
5. Nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới. Kích
thích phát triến thị trường trong nước. Đẩy mạnh việc chống buôn lậu, hàng giả
và gian lận thương mại. Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất
khẩu: Tập trung vào xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có lợi thế.
6. Chọn lọc nhập khẩu: Đây cũng là cơ hội đế Việt Nam tranh thủ nhập
khẩu các mặt hàng, công nghệ hiện đại mà các nước phát triển phải bán đi do
kinh tế của họ khó khăn.
7. Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập
trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định. Việt Nam
đang có lợi thế này và vì vậy cần tận dụng tốt cơ hội.
8. Có phương án cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt là đoi mới và hoàn thiện
thể chế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực. Đẩy
mạnh tiến trình cổ phần hoá và cải cách khu vực DNNN.
9. Thành lập cơ quan giám sát hỗn hợp liên ngành để tăng cường giám sát
các gói kích cầu, trong đó có gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất đảm bảo hiệu quả,
công khai, minh bạch.
10. Đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục
hành chính theo hướng đơn giản, hiệu quả, minh bạch.
Những hình ảnh ấn tượng của cuộc khủng hoảng kinh tế đã tác động sâu
rộng vào mọi mặt của các nền kinh tế trên thế giới. Nó đã châm ngòi cho cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Mỹ cùng nhiều quốc gia khác đang gánh chịu
những tổn thất nặng nề mà cuộc khủng hoảng này mang lại. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây đã có nhiều dấu hiệu khả quan cho sự phục hồi và thực tế
nền kinh tế đã bắt đầu vực dậy từ đầm lầy khủng hoảng, tuy còn chậm. Những
22

bài học và kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng này hy vọng sẽ giúp cho nền
kinh tế Việt Nam nói riêng và Thế giới nói chung sẽ phát triển vững chắc trong
tương lai.
23

×