Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.55 KB, 49 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Vai trò của Đảng và nhà nước trong nền kinh tế rất lớn đặc biệt kể từ sau
Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát
triển kinh tế của nước ta. Với vai trò chèo lái vận mệnh của cả đất nước, sau
năm 1986 rất nhiều nhà máy, xí nghiệp mọc lên, đời sống của người dân được
cải thiện rõ rệt. Đây là một bước đi hoàn toàn đúng đắn. Vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế đang được nâng lên đáng kể. Để có được những thành tựu đó,
Đảng và Nhà nước ta không ngừng nỗ lực, đổi mới và hoàn thiện mình để đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân và xã hội. Để đảm trách tốt được
vai trò này, Nhà nước cần có những biện pháp và công cụ hữu hiệu để can
thiệp vào hoạt động kinh tế. Một trong những công cụ quan trọng để Nhà nước
can thiệp đúng lúc và kịp thời một cách toàn diện vào nền kinh tế chính là ngân
sách nhà nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối
ngân sách nhà nước là rất quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Bởi lẽ,
ngân sách nhà nước là công cụ tài chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã
hội, giải quyết những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại sự công bằng cho
người dân,… Nhưng để đảm bảo tốt những vai trò trên thì ngân sách nhà nước
phải được cân đối. Mà nhà nước quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) bằng
luật, thông qua luật và các văn bản quy phạm pháp luật quy định. Chính vì vậy,
năm 1996 Luật Ngân sách nhà nước ra đời, được sửa đổi năm 1998 và được
thay thế bằng Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 đã đánh dấu bước đổi mới
quan trọng trong quản lý ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn tình trạng hiệu quả sử dụng
NSNN thấp, thấp thoát, lãng phí. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua,
ngân sách nhà nước không ổn định và mất cân đối đã kéo theo những hậu quả
làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nảy
sinh như: thu vào ngân sách nhà nước không đủ chi dẫn đến nợ nước ngoài
nhiều, lạm phát tăng nhanh, không có nguồn tài chính để đầu tư đúng mức vào
1



hoạt động kinh tế… Vì vậy, tăng cường công tác quản lý ngân sách là một
nhiệm vụ bức thiết của Đảng và Nhà nước ta nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, tiền, tài sản Nhà nước, đồng thời tạo niềm tin cho nhân dân trong công
cuộc đổi mới đất nước. Điều này càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh Việt Nam
cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới đang buộc phải thắt chặt quản lý tài
chính để đối phó với cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu trong
thập kỷ vừa qua. Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề phức tạp nhưng
nó có một vai trò quan trọng đối với kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển đổi,
hội nhập và cùng với những lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Quản lý
cân đối ngân sách nhà nước - thực trạng và giải pháp” làm đề tài tiểu luận
của mình.
2. Kết cấu bài tiểu luận
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 phần:
Phần 1. Tổng quan về ngân sách nhà nước và cân đối ngân sách nhà
nước.
Phần 2. Thực trạng quản lý cân đối ngân sách nhà nước.
Phần 3. Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý cân đối ngân sách
nhà nước ở Việt Nam.

2


B. NỘI DUNG
Phần 1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ CÂN
ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm ngân sách Nhà nước
Từ "ngân sách" được lấy từ thuật ngữ "budjet" một từ tiếng Anh thời
Trung cổ, dùng để mô tả chiếc túi của nhà vua trong đó có chứa những khoản

tiền cần thiết cho những khoản chi tiêu công cộng. Dưới chế độ phong kiến,
chi tiêu của nhà vua cho những mục đích công cộng như: đắp đê phòng chống
lũ lụt, xây dựng đường xá và chi tiêu cho bản thân hoàng gia không có sự tách
biệt nhau. Khi giai cấp tư sản lớn mạnh từng bước khống chế nghị viện và đòi
hỏi tách bạch hai khoản chi tiêu này, từ đó nảy sinh khái niệm ngân sách Nhà
nước.
Trong thực tiễn, khái niệm ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi của
một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí để
thực hiện một kế hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định
của một chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là ngân sách
Nhà nước.
Từ điển Tiếng Việt thông dụng định nghĩa: "Ngân sách là tổng số thu và
chi của một đơn vị trong một thời gian nhất định."
Điều 1 của Luật ngân sách Nhà nước được Quốc hội khoá XI nước Cộng
hoà HCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai, năm 2002 ghi rõ: "Ngân
sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước".
2. Các đặc trưng cơ bản của ngân sách Nhà nước
Từ điều trên, có thể thấy đặc trưng của ngân sách Nhà nước bao gồm:
- Về cơ cấu: ngân sách Nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản thu, khoản
chi của Nhà nước. Hình thức biểu hiện bên ngoài, ngân sách Nhà nước là một
3


bảng liệt kê các khoản thu khoản chi bằng tiền của Nhà nước được dự kiến và
cho phép trong một khoảng thời gian nhất định.
- Về mặt pháp lý: ngân sách Nhà nước phải được cơ quan có thẩm quyền
quyết định. Thẩm quyền quyết định ngân sách Nhà nước, ở hầu hết các nước là
thuộc về các cơ quan đại diện (Nghị viện). Ở Việt Nam, Quốc Hội cũng là cơ

quan có thẩm quyền thông qua và phê chuẩn ngân sách. Quốc Hội thảo luận và
quyết định về tổng mức, cơ cấu và phân bổ ngân sách trung ương. Mọi hoạt
động thu chi ngân sách đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật do Nhà nước ban
hành.
- Về thời gian thực hiện: Theo quy định hiện hành, ngân sách Nhà nước
dự toán và thực hiện trong một năm, năm này gọi là năm ngân sách hay năm
Tài khoá. Ngân sách Nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn lực để nuôi sống bộ máy, vừa là công cụ
hữu hiệu trong tay Nhà nước để điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội.
- Về bản chất của ngân sách Nhà nước, đằng sau những con số thu, chi đó
là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể khác như doanh
nghiệp, hộ gia đình, cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập
phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
Ngân sách Nhà nước Việt Nam gồm: ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính
các cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Phù hợp với mô hình tổ
chức chính quyền Nhà nước ta hiện nay ngân sách địa phương bao gồm: ngân
sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp
tỉnh). Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
ngân sách cấp huyện) và ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân
sách cấp xã).
II. QUẢN LÝ CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm cân đối ngân sách Nhà nước
Trong tiếng Việt "cân đối" có thể là danh từ, động từ, hoặc tính từ. Với tư
4


cách một danh từ, cân đối ngân sách Nhà nước là mối quan hệ cân bằng giữa
tổng thu và tổng chi ngân sách Nhà nước.

Với tư cách một động từ, cân đối ngân sách Nhà nước có nghĩa là làm cho
tổng thu và tổng chi ngân sách Nhà nước được cân bằng.
Với tư cách một tính từ, ngân sách Nhà nước cân đối có nghĩa là tổng thu
và tổng chi có tương quan cân bằng.
Cân đối ngân sách Nhà nước nhằm mục đích đảm bảo tài chính cho Nhà
nước thực hiện được tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của mình, chứ không phải
đơn giản chỉ để tổng thu và tổng chi bằng nhau.
Cân đối ngân sách Nhà nước phải đảm bảo không chỉ cho tổng thu cân
bằng với tổng chi, mà còn phải đảm bảo cho cơ cấu thu, chi hợp lý; mối quan
hệ về lượng giữa thu chi ngân sách Nhà nước và thực trạng nền kinh tế; mối
quan hệ hợp lý giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương v.v…
Trong thực tiễn, cân đối ngân sách Nhà nước luôn ở trong trạng thái vận
động, không ngừng phát sinh mâu thuẫn giữa thu và chi, cũng như giữa các bộ
phận cấu thành ngân sách Nhà nước v.v…
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong
đó dự trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm Thu và chi ngân
sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối,
hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế
có phát triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu vào ngân sách nhà
nước, còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào ngân sách
nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để hỗ trợ. Điều đó dễ dẫn đến ngân sách
nhà nước bị mất cân đối.
2. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước
- Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu
và chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu
đã đề ra. Nó vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, vừa
bị ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu kinh tế- xã hội. Cân đối ngân sách nhà nước
không phải là để thu chi cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng,
5



mà cân đối ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh
tế- xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này cũng quyết
định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên việc tính toán
thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, mà cân
đối ngân sách nhà nước có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách
hợp lý các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, bằng khả năng quản lý hoặc phân bổ nguồn
lực có hiệu quả.
- Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa
các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực
giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình
trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Cân
bằng thu- chi ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt mức tuyệt
đối được vì hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến động Nhà phải điều chỉnh
hoạt động thu, chi cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý
để đảm bảo sự ổn định về kinh tế- xã hội giữa các địa phương. Mặt khác, nếu
ngân sách không cân bằng mà rơi vào tình trạng bội chi thì cần đưa ra những
giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên
liệu.Trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định
các con số thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi
tiết hóa từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu
phù hợp với hoạt động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn
lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các
khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu
kinh tế- xã hội.
3. Nội dung cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước gồm có 3 nội dung sau:
- Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước;
- Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước;

- Bội chi ngân sách nhà nước.
6


4. Tổ chức cân đối ngân sách nhà nước
Quá trình thu chi ngân sách Nhà nước bao giờ cũng ở trong trạng thái
biến đổi không ngừng và chuyển hoá giữa cân đối - không cân đối, không cân
đối - cân đối… Trong chính sách ngân sách, chúng ta hướng tới một ngân sách
Nhà nước "cân bằng thu, chi" (thu không bao gồm các khoản vay nợ).
4.1. Nguyên tắc thực hiện cân đối ngân sách Nhà nước ở nước ta
Theo Luật ngân sách Nhà nước 2002 thì:
Ngân sách Nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày
càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải
nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.
Bội chi ngân sách Nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo
đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu
cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp
tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách
cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối
ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ
nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong
nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Cân đối thu chi ngân sách Nhà nước là một mặt cân đối lớn trong nền
kinh tế quốc dân, nó vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các mặt cân đối

khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong thực tiễn, do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan mà hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước không phải lúc
nào cũng cân đối.
Về khách quan, hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước bắt nguồn từ hoạt
7


động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Trong điều kiện hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, đạt tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, nền kinh tế
có tỷ lệ lạm phát thấp thì khả năng cân đối thu, chi ngân sách Nhà nước được
thực hiện tương đối thuận lợi. Ngược lại, trong điều kiện hoạt động sản xuất
kinh doanh có dấu hiệu suy thoái, lạm phát ở tốc độ cao thì khả năng cân đối
thu, chi của Ngân sách Nhà nước gặp khó khăn.
Về chủ quan, do những tác động của chính sách kinh tế xã hội của Nhà
nước làm nảy sinh sự mất cân đối thu, chi của ngân sách Nhà nước. Một hệ
thống chính sách kinh tế xã hội phù hợp có tác động tích cực đến phát triển
kinh tế xã hội và dựa trên khả năng của nguồn lực tài chính quốc gia thì khả
năng cân đối thu - chi ngân sách Nhà nước có điều kiện thực hiện. Ngược lại,
một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội mang ý nghĩa chủ quan, không xuất
phát từ thực trạng kinh tế - xã hội, không dựa trên khả năng nguồn lực tài
chính quốc gia, thì vấn đề cân đối thu - chi ngân sách Nhà nước khó đảm bảo.
Tuỳ theo cách tiếp cận nguyên nhân của sự mất cân đối mà có các
phương pháp giải quyết khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp phổ biến hiện nay
là: Thực hiện hình thức Tín dụng Nhà nước, hình thành quỹ dự trữ, dự phòng
tài chính...
4.2. Biện pháp quản lý tài chính để cân đối ngân sách Nhà nước
Trong khâu lập dự toán ngân sách Nhà nước.
Ngay từ khâu lập dự toán, thu ngân sách Nhà nước phải được xác định
trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, chi ngân sách Nhà nước phải đảm bảo các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Dự toán ngân sách của các đơn vị dự toán, của các cấp chính quyền, các
bộ ngành được xây dựng theo chế độ, tiêu chuẩn, định mức và lập chi tiết theo
mục lục ngân sách Nhà nước.
Dự toán ngân sách của các cấp được tổng hợp theo từng loại thu, từng
lĩnh vực chi theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả
nợ.
Dự toán ngân sách của các Bộ, cơ quan Trung ương, các cấp chính quyền
8


địa phương, các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương được tổng hợp theo
ngành kinh tế, và địa bàn lãnh thổ. Dự toán ngân sách các cấp được đảm bảo
cân đối theo nguyên tắc do luật ngân sách Nhà nước quy định.
Để cân đối ngân sách Nhà nước, trong những trường hợp nhất định, có
thể phải có sự điều chỉnh dự toán ngân sách Nhà nước năm.
Trường hợp có biến động lớn về ngân sách so với dự toán đã phân bổ cần
phải điều chỉnh tổng thể, Chính phủ lập dự án điều chỉnh ngân sách Nhà nước
trình Quốc hội, Uỷ ban nhân dân lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương
trình Hội đồng nhân dân theo quy trình lập, quyết định sử dụng quy định tại
luật ngân sách Nhà nước 2002.
Trường hợp có yêu cầu cấp bách về quốc phòng, an ninh hoặc vì lý
do khách quan cần phải điều chỉnh nhiệm vụ thu, chi của một số cơ quan, đơn
vị, địa phương, song không làm biến động lớn đến tổng thể và cơ cấu ngân
sách,
Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh dự
toán ngân hàng Nhà nước và báo cáo Quốc hội, Uỷ ban nhân dân quyết định
điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương.
Để chủ động cân đối ngân sách Nhà nước, dự toán chi ngân sách Trung
ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được bố trí khoản dự
phòng từ 2% đến 5% tổng số chi nhằm đáp ứng các nhu cầu chi phát sinh đột

xuất trong năm ngân sách. Dự phòng ngân sách được sử dụng để khắc phục
hậu quả thiên tai, địch hoạ và trong trường hợp phát sinh nhu cầu chi cấp thiết
chưa được bố trí đủ dự toán ngân sách được giao. Chính phủ quyết định sử
dụng dự phòng ngân sách trung ương, định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Uỷ ban nhân dân quyết định sử
dụng dự phòng ngân sách địa phương, định kỳ báo cáo Thường trực Hội đồng
nhân dân, báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất. Đối với cấp xã, Uỷ
ban nhân dân quyết định sử dụng dự phòng ngân sách xã, định kỳ báo cáo Chủ
tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp
gần nhất.
9


Việc sử dụng dự phòng ngân sách phải tuân thủ các điều kiện về chi ngân
sách Nhà nước, và quy trình cấp phát quy định theo luật ngân sách Nhà nước
và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật này.
Trong khâu chấp hành ngân sách Nhà nước.
Để khắc phục tính thời vụ của ngân sách Nhà nước, đảm bảo các nhu cầu
chi khi nguồn thu chưa tập trung kịp thời, Chính phủ, UBND tỉnh được lập quỹ
dự trữ tài chính từ các nguồn: tăng thu, kết dư ngân sách, bố trí trong dự toán
chi ngân sách hàng năm và các nguồn tài chính khác theo quy định của pháp
luật. Quỹ dự trữ tài chính chỉ được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi khi
nguồn thu chưa tập trung kịp và phải hoàn trả ngay trong năm ngân sách;
trường hợp đã sử dụng hết dự phòng ngân sách thì được sử dụng quỹ dự trữ tài
chính để chi theo quy định của Chính phủ nhưng tối đa không quá 30% số dư
của quỹ.
Trường hợp nguồn thu và các khoản vay trong kế hoạch của ngân sách
Trung ương không tập trung kịp thời theo tiến độ kế hoạch, sau khi đã sử dụng
quỹ dự trữ tài chính vẫn không đáp ứng nhu cầu chi, Bộ tài chính được tạm
ứng vốn của ngân hàng Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và

phải hoàn trả trong năm, trừ trường hợp đặc biệt do Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quyết định.
Trong quá trình tổ chức cân đối ngân sách Nhà nước, cần phải khai thác
các nguồn thu một cách hợp lý, chống thất thoát nguồn thu của ngân sách Nhà
nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi, đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả; mọi tài
sản được đầu tư, mua sắm bằng nguồn ngân sách Nhà nước và tài sản khác của
Nhà nước phải được quản lý theo đúng chế độ quy định.
Việc ban hành và thực hiện các văn bản pháp luật mới làm tăng chi hoặc
giảm thu ngân sách trong năm phải có nguồn tài chính đảm bảo.
Trong quá trình chấp hành ngân sách Nhà nước, nếu có sự thay đổi về
thu, chi, Thủ tướng Chính phủ và chủ tịch UBND các cấp thực hiện như sau:
Nếu tăng thu hoặc tiết kiệm chi so với dự toán được duyệt thì số tăng thu
hoặc tiết kiệm chi được dùng để giảm bội chi, tăng chi trả nợ hoặc để bổ sung
10


quỹ dự trữ tài chính, hoặc chi một số khoản cần thiết khác, nhưng không được
chi về quỹ tiền lương, trừ trường hợp đặc biệt được cấp có thẩm quyền cho
phép.
Nếu giảm thu so với dự toán được duyệt thì phải sắp xếp lại để giảm một
số khoản chi tương ứng.
Nếu có nhu cầu so với dự toán được duyệt thì phải sắp xếp lại để giảm
một số khoản chi tương ứng.
Nếu có nhu cầu chi đột xuất ngoài dự toán nhưng không thể trì hoãn được
mà nguồn dự phòng không đủ đáp ứng thì phải sắp xếp lại các khoản chi, để có
nguồn đáp ứng nhu cầu chi đột xuất đó.
Khi thực hiện việc tăng, giảm thu, chi, Thủ tướng Chính phủ (đối với
ngân hàng TƯ), chủ tịch UBND (đối với ngân sách địa phương) phải báo cáo
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân cùng cấp vào
kỳ họp gần nhất.

Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước phải bảo đảm các nguyên tắc theo
luật định. Phân cấp đúng đắn vừa bảo đảm duy trì tính thống nhất của Nhà
nước, vai trò chủ đạo của Trung ương, vừa tăng cường tính chủ động và trách
nhiệm của các cấp chính quyền địa phương, các bộ, ngành, các đơn vị sử dụng
ngân sách Nhà nước. Đó cũng là yếu tố quan trọng để thực hiện cân đối ngân
sách Nhà nước một cách tích cực.
Khi nhận được số phân bổ về ngân sách, các Bộ, cơ quan Trung ương, các
tỉnh cần làm tốt công tác giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc cấp dưới.
Về thu ngân sách Nhà nước: Căn cứ mức thu Thủ tướng chính phủ giao,
các bộ, cơ quan Trung ương, các tỉnh và tổng cục Hải quan cần khẩn trương
làm tốt công tác giao dự toán thu cho các đơn vị trực thuộc và cấp dưới. Mức
giao tối thiểu phải bằng mức Thủ tướng chính phủ giao.
Về chi ngân sách Nhà nước. Chính phủ sẽ giao dự toán chi ngân sách
Trung ương cho các bộ, cơ quan Trung ương tối đa bằng mức dự toán theo
phương án phân bổ đã được Quốc hội thông qua. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố thuộc Trung ương giao dự toán chi cho các dơn vị trực thuộc tối đa là
11


100% dự toán chi thường xuyên và cho ngân sách cấp dưới bằng mức 100%
theo phương án phân bổ dự toán chi ngân sách địa phương, uỷ ban nhân dân
huyện giao cho đơn vị trực thuộc cũng tối đa là 100% theo phương án phân bổ
dự toán chi ngân sách đã được Hội đồng nhân dân quyết định.
Những khoản chi trong dự toán và có nguồn thu bảo đảm phải được cấp
phát đúng đủ, kịp thời theo tiến độ, các cấp, các ngành, cơ quan tài chính
không được gây trì trệ, dồn chi vào cuối quý, cuối năm.
Trong khâu quyết toán ngân sách Nhà nước
Trong thời gian chỉnh lý quyết toán: Hạch toán tiếp các khoản thu, chi
ngân sách Nhà nước phát sinh từ 31/12 trở về trước nhưng chứng từ còn đi trên
đường; hạch toán tiếp các khoản chi ngân sách Nhà nước thuộc nhiệm vụ chi

của năm trước nếu được cấp có thẩm quyền quyết định cho chi tiếp vào niên
độ ngân sách Nhà nước năm trước; đối chiếu và điều chỉnh những sai sót trong
quá trình hạch toán kế toán.
Trong khâu quyết toán sẽ phải đánh giá hoạt động ngân sách Nhà nước
năm đã qua, trong đó có vấn đề tổ chức cân đối ngân sách Nhà nước…, nhằm
rút ra kinh nghiệm tốt áp dụng cho năm tiếp theo.
Thật ra, tổ chức cân đối ngân sách Nhà nước cũng chỉ là một trong những
nội dung quan trọng của quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách Nhà
nước. Tất cả các giải pháp về kinh tế, tài chính, tổ chức v.v… để thực hiện tốt
việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách Nhà nước cũng là những giải pháp
để tổ chức cân đối ngân sách Nhà nước. Ngược lại, làm tốt việc tổ chức tốt cân
đối ngân sách Nhà nước, sẽ góp phần thực hiện tốt việc quản lý ngân sách Nhà
nước.
4.3. Nguyên tắc đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước ngoài sự cân bằng về thu, chi còn là sự hài
hoà, hợp lý trong cơ cấu thu, chi giữa các khoản thu, chi; các lĩnh vực; các
ngành; các cấp chính quyền thậm chí ngay cả giữa các thế hệ .
Đảm bảo cân đối ngân sách từ một đòi hỏi có tính chất khách quan xuất
phát từ vai trò nhà nước trong can thiệp vào nền kinh tế thị trường với mục tiêu
12


ổn định, hiệu quả và công bằng. Thông thường, khi thực hiện ngân sách các
khoản thu dự kiến sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Vì vậy, tính toán nhu cầu chi sát với khả năng thu trong khi lập ngân sách là rất
quan trọng. Các khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ các nguồn thu
bù đắp.

13



Phần 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÂN ĐỐI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM QUA CÁC NĂM
1. Các khoản thu trong cân đối ngân sách nhà nước
Nhìn từ góc độ kinh tế: Thu ngân sách nhà nước được hiểu là nguồn vốn
tiền tệ của Nhà nước do Nhà nước huy động để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
chính bộ máy nhà nước đó.
Nhìn từ góc pháp lý: Thu ngân sách nhà nước đó là những khoản thu theo
những hình thức pháp lý nhất định. Theo đó, thu ngân sách nhà nước được cụ
thể hóa trong văn bản pháp luật thực định như sau:
“Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí,lệ phí, các
khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ
chức và cá nhân, các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của
pháp luật”.[ Khoản 1 Điều 2 Luật ngân sách nhà nước 2002].
Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài
chính của xã hội dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước. Như vậy, thu ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản
tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước
đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Để tăng cường khai thác và nâng cao các nguồn thu, vấn đề quản lý cân
đối NSNN thông qua các nguồn thu có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Quản lý cân đối NSNN chính là việc quản lý các nguồn thu đó với các
cách thức và công cụ thích hợp.
Quản lý thu NSNN tập trung vào một số vấn đề chủ yếu như: xác lập hệ
thống chính sách thu, lập kế hoạch thu và biện pháp thu, quá trình thu NSNN
thành khoản thu, có thể phân các nguồn thu NSNN thành 2 loại:
- Các khoản thu thường xuyên có tính chất bắt buộc: thuế, phí, lệ phí.

14


- Các khoản thu không thường xuyên: thu từ kinh tế nhà nước, từ hoạt
động sự nghiệp, tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước; các
khoản thu khác.
2. Các khoản chi trong cân đối ngân sách nhà nước
Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ của
Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
- Nhìn từ góc độ kinh tế: Chi ngân sách nhà nước là việc Nhà nước đã sử
dụng các hoạt động tài chính thông qua việc sử dụng ngân sách nhà nước để tài
trợ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước trong một
thời hạn nhất định.
- Nhìn từ góc độ pháp lý: Chi ngân sách nhà nước là một chế độ tài chính
đặc thù theo đó Nhà nước thể hiện quyền sở hữu của mình đối với ngân sách
nhà nước thông qua việc cấp phát tài chính cho những đối tượng thuộc diện
hưởng ngân sách nhà nước. Theo đó, chi ngân sách nhà nước được quy định tại
Khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách nhà nước 2002:
“Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước,
chi trả nợ của Nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật”.
Cơ cấu chi NSNN ở Việt Nam:
* Theo pháp luật về Ngân sách Nhà nước hiện hành ở nước ta, chi NSNN
bao gồm:
- Chi đầu tư phát triển về:
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không
có khả năng thu hồi vốn;
+ Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp Nhà nước; các tổ chức kinh

tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy
định của pháp luật;
15


+ Chi bổ sung dự trữ nhà nước;
+ Chi đầu tư phát triển thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án
Nhà nước;
+ Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật. - Chi
thường xuyên về:
+ Các hoạt động sự nghiệp Giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao, xã
hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, sự nghiệp khoa học công nghệ và
môi trường, các sự nghiệp xã hội khác;
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
+ Quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội;
+ Hoạt động của các cơ quan Nhà nước;
+ Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam;
+ Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, liên đoàn lao động Việt
Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cụ chiến binh Việt Nam,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam;
+ Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
+ Các chương trình quốc gia, dự án Nhà nước;
+ Hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính Phủ;
+ Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
+ Tài trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp;
+ Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
- Chi trả nợ gốp và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
- Chi viện trợ của NSTW cho các chính phủ và tổ chức ngoài nước.

- Chi cho vay của NSTW.
- Chi trả gốc và lãi các khoản huy động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
theo quy định tại khoản 3 điều 8 của Luật NSNN.
- Chi bổ sung Qũy dự trữ tài chính theo quy định tại Điều 58 của Nghị
định 60/2003/NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN.
- Chi bổ sung Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới.
16


- Chi chuyển nguồn Ngân sách từ Ngân sách năm trước sang Ngân sách
năm sau.
3. Thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam qua các năm
3.1. Giai đoạn 2010-2012
Trong giai đoạn 2010-2012 tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) giảm
liên tục từ 27,27% xuống còn 22,9% GDP. Điều đáng nói ở đây là hầu như tất
cả các khoản thu thành phần đều trong xu thế giảm (trừ dầu thô). Khu vực
ngoại gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu mặc dù có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian qua nhưng đóng
góp vào ngân sách cũng giảm mạnh. Điều này được giải thích là do kim ngạch
nhập khẩu các mặt hàng chịu thuế giảm.
Chẳng hạn năm 2012 một số mặt hàng có thuế suất cao giảm mạnh như ô
tô nguyên chiếc giảm 50% về lượng và giảm gần 40% về kim ngạch so với
năm trước, giảm thu ngân sách khoảng 13.370 tỉ đồng so với dự toán; xe máy
nguyên chiếc giảm 43% về lượng và giảm 24,3% về kim ngạch so với năm
trước, giảm thu ngân sách khoảng 880 tỉ đồng so với dự toán. Tương tự, linh
kiện và phụ tùng ô tô giảm 27% về kim ngạch, và giảm khoảng 5.070 tỉ đồng
về thu ngân sách; linh kiện và phụ tùng xe máy giảm 28% về kim ngạch, giảm
thu khoảng 2.650 tỉ đồng so với dự toán... Thêm vào đó thuế suất đối với nhập
khẩu xăng dầu thấp hơn 12% so với dự toán 20%, thuế suất xuất khẩu than chỉ
có 10% so với dự toán là 20% để bình ổn sản xuất.

BẢNG TỶ TRỌNG CÁC NGUỒN THU TRONG GDP 2010-2012 (%)
Tổng

Thu

thu

nội

SOE

FIE

PIT

Phí và

Thuế

lệ phí

ngoài

địa

XNK

Dầu

Viện


thô

trợ

Đất

quốc

2010

27,27 17,4

5,20

3,01

1,22 0,46

doanh
3,25
6,04

3,21

0,55

2,59

2011


7
25,97 15,9

4,55

2,77

1,3

0,37

3,04

5,60

3,96

0,44

2,18

2012

6
22,90 14,4

2,55

8

1,3

0,24

2,88

3,94

4,32

0,24

1,39

0

4,42

3

(Nguồn: Bộ Tài chính
17


Chú giải: SOE: Doanh nghiệp nhà nước; PIT: Thuế thu nhập)
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng mạnh mẽ thời gian qua
chủ yếu do những dự án mới được đưa vào sản xuất như Samsung tăng mạnh.
Những dự án này đang được hưởng các ưu đãi lớn từ nghĩa vụ đóng góp
NSNN, trong khi các dự án đã hoạt động lâu năm tại Việt Nam dường như
cũng bị ảnh hưởng mạnh của đợt suy giảm tăng trưởng này (ví dụ các doanh

nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy...) do đó phần đóng góp ngân sách từ các doanh
nghiệp này cũng giảm. Cũng cần phải nói thêm rằng hoạt động chuyển giá
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là yếu tố làm cho đóng
góp của khối này vào GDP thấp.
Trong bối cảnh kinh tế suy giảm, nhu cầu chi tăng nhưng do nguồn thu
giảm mạnh (năm 2012 giảm 4,37 điểm phần trăm so với năm 2010) nên tổng
chi cũng giảm. Tuy nhiên, cắt giảm tổng chi là do cắt giảm mạnh chi đầu tư
phát triển, trong khi các khoản chi khác như chi thường xuyên lại tiếp tục gia
tăng. Điều này dường như mâu thuẫn với lý thuyết kinh tế: khi suy giảm tăng
trưởng cần tăng chi đầu tư phát triển để kích thích kinh tế chứ không phải cắt
giảm đầu tư. Khoản chi thường xuyên lớn, tăng liên tục đã vô hiệu hóa khả
năng sử dụng công cụ tài khóa để kích thích kinh tế trong thời kỳ suy thoái.
BẢNG TỶ TRỌNG CÁC NGUỒN CHI TRONG GDP 2010-2012 (%)
Tổng chi
Chi đầu tư
Chi thường
Trả nợ viện
2010
2011
2012

30,07
28,33
27,91

phát triển
8,49
7,49
6,01


xuyên
17,45
16,80
18,82

trợ
4,11
4,03
3,08
Nguồn Bộ Tài chính

Tình hình tám tháng đầu năm cũng chưa cho thấy sự cải thiện đối với
nguồn thu. Theo Tổng cục Thống kê trong tám tháng đầu năm 2013 các khoản
thu tăng 10,16% so với cùng kỳ năm 2012 trong đó thu nội địa tăng 11,54%,
thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 20,4%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài (FIE) tăng 35,27% và thu thuế từ khu vực ngoài quốc doanh
tăng 18,36%; trong khi đó thu từ dầu thô giảm 4,94% và thu từ các doanh
18


nghiệp nhà nước giảm 0,22%. Cần lưu ý rằng tốc độ tăng trưởng GDP danh
nghĩa của Viêt Nam luôn cao hơn hai con số (năm 2012 là 16,75%, năm 2011
là 28,83% và năm 2010 là 19,27%). Do đó, nếu tốc độ tăng thu ngân sách vẫn
duy trì như tám tháng qua thì tỷ trọng thu ngân sách trên GDP của năm 2013
lại tiếp tục giảm. Điều này cũng cho thấy sự cải thiện mạnh mẽ của khu vực
ngoại trong đóng góp cho ngân sách là chưa đủ để cải thiện nguồn thu cho
ngân sách nhà nước.
3.2. Tình hình thu, chi ngân sách năm 2013
Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, nhằm thực hiện tốt dự toán ngân
sách nhà nước (NSNN) năm 2013 và các nhiệm vụ khác, ngay từ đầu năm, Bộ

Tài chính đã ban hành Kế hoạch hành động qua Quyết định số 128/QĐ-BTC
nhằm thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày
7/1/2013 của Chính phủ.
Quan điểm chủ đạo trong điều hành chính sách tài khóa năm 2013 được thể
hiện trong Nghị quyết của Chính phủ là thực hiện chính sách tài khóa thận trọng,
phấn đấu tăng thu và tiết kiệm chi NSNN. Đây là những giải pháp kịp thời đã
góp phần không nhỏ vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ thu chi NSNN năm 2013.
Theo ước tính sơ bộ cuối tháng 12/2013 của cơ quan thống kê, tổng thu
NSNN năm 2013 ước đạt hơn 816.800 tỷ đồng, 101% dự toán năm, tăng xấp xỉ
gần 10% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó:
+ Thu nội địa ước đạt 530.000 tỷ đồng, đạt 97,2% dự toán năm. Trong thu
nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) 159.300 tỷ đồng, bằng
91,4% dự toán năm; thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô)
111.200 tỷ đồng, bằng 103,6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài
nhà nước 110.200 tỷ đồng, bằng 91,6%; thu thuế thu nhập cá nhân 45.800 tỷ
đồng, bằng 83,4%; thu thuế bảo vệ môi trường 11.700 tỷ đồng, bằng 81,5%; thu
phí, lệ phí 15.200 tỷ đồng, bằng 146,5%. Thu từ giao quyền sử dụng đất đạt
39.200 tỷ đồng, bằng dự toán và chỉ bằng 86,9% cùng kỳ năm 2012.
+ Thu từ dầu thô cả năm 2013 ước đạt 115.000 tỷ đồng, đạt 102,68% dự
toán.
19


+ Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 140.800 tỷ
đồng, bằng 84,6% dự toán năm và chỉ bằng 94,4% của năm 2012. Thu từ hoạt
động ngoại thương giảm có nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động mạnh từ sự
sụt giảm mạnh nhập khẩu các hàng hóa có số thu thuế cao như ô tô và việc cắt
giảm các dòng thuế theo yêu cầu của WTO. Năm 2013, Việt Nam đã cắt giảm
214 dòng thuế nhập khẩu phù hợp với cam kết WTO...
Có thể thấy, thu NSNN vượt dự toán khoảng 1%. Sự sụt giảm mạnh của

hầu hết các nguồn thu (ngoại trừ thu từ dầu khí) khiến cho nhiệm vụ thu NSNN
2013 theo dự toán là rất khó khăn, dù đã có sự chỉ đạo và đôn đốc thu quyết liệt
từ Bộ Tài chính. Ngân sách cũng đạt nhiệm vụ thu nhờ vào việc Chính phủ thu
trên 20.000 tỷ từ khoản vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và
vượt thu từ tiền sử dụng đất (ước đạt 42.500 tỷ so với dự toán là 39.000 tỷ
đồng).
Tổng chi NSNN năm 2013 ước tính đạt 986.200 tỷ đồng, bằng 100,8% dự
toán năm; Năm thứ 2 liên tiếp chi NSNN gần như bằng dự toán. Đây có thể coi
là thành công của việc thực hiện chính sách tài khóa tiết kiệm và là hướng đi
đúng đắn cần tiếp tục triển khai, nhân rộng trong những năm tới.
So với dữ liệu tương ứng của giai đoạn 2005 - 2011 thì kết quả thực hiện
chi NSNN so với dự toán là rất đáng khả quan. Điều này phản ánh việc ban hành
Nghị quyết 01/NQ-CP về thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, tiết kiệm đã có
tác dụng nhất định đến chi tiêu ngân sách năm 2013.
Theo ước tính của Bộ Tài chính, chi đầu tư phát triển năm 2013 đạt
201.600 tỷ đồng, bằng 115,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 196.300 tỷ
đồng, bằng 115,4%); Chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền
lương) ước tính đạt 679.600 tỷ đồng, bằng 100,8%; Chi trả nợ và viện trợ
105.000 tỷ đồng, bằng 100%.
Tóm lại, về cơ bản việc thực hiện các nhiệm vụ chi NSNN 2013 là khá tích
cực. Tuy nhiên, có thể thấy tốc độ tăng chi đầu tư vẫn khá cao so với dự toán
(ước vượt 15% dự toán năm).
20


Tháng 11/2013, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh dự
toán NSNN năm 2013 và dự toán NSNN năm 2014, trong đó, trần bội chi
NSNN cho 2 năm được nâng lên 5,3% GDP. Quốc hội đồng ý giao Chính phủ
nâng mức bội chi NSNN năm 2013 để bù đắp số hụt thu ngân sách trung ương

nhưng không quá 195 nghìn tỷ đồng (tương đương 5,3% GDP ước thực hiện).
3.3. Tình hình thu, chi ngân sách qua 5 tháng đầu năm 2014
Tổng thu cân đối NSNN 5 tháng đầu năm ước đạt 358,55 nghìn tỷ đồng,
bằng 45,8% dự toán, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2013. Trong khi đó, tổng
chi NSNN bằng 41,1% dự toán là tín hiệu mừng cho cân đối ngân sách. Tuy
nhiên, theo cảnh báo của nhiều chuyên gia kinh tế, những khó khăn vẫn còn ở
phía trước cho nên vẫn cần phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật ngân sách để
phấn đấu đạt và vượt dự toán Quốc hội giao.
5 tháng tới thu từ dầu thô ước đạt 46,44 nghìn tỷ đồng. Theo dự toán
NSNN năm 2014 đã được Quốc hội phê chuẩn, số thu ngân sách là 782.700 tỷ
đồng, số chi là 1.006.700 tỷ đồng và bội chi dự kiến là 224.000 tỷ đồng- tương
đương 5,3% GDP trong bối cảnh kinh tế năm 2014 việc thực hiện dự toán có
những thuận lợi nhất định.
Tình hình thu ngân sách trong mấy năm gần đây gặp nhiều khó khăn. Để
hoàn thành dự toán thu ngân sách hàng năm, các cơ quan hành thu phải “căng
sức” ngay từ đầu năm cho đến những ngày cuối cùng của năm. Thu ngân sách
giảm có nguyên nhân từ hoạt động sản xuất kinh doanh khó khăn của doanh
nghiệp, cho đến các chính sách miễn, giảm thuế. Tuy nhiên, còn có một nguyên
nhân quan trọng khác được nhiều chuyên gia kinh tế nhắc đến đó là xuất phát từ
cơ cấu thu ngân sách của nước ta hiện nay.
TS. Trần Đình Thiên (Viện Kinh tế Việt Nam) cho rằng, theo quyết toán
NSNN các năm có thể thấy thu ngân sách của nước ta phụ thuộc vào một số các
nguồn chính gồm: Thu từ dầu thô bình quân chiếm khoảng 20%, thu từ hoạt
động XNK (đặc biệt là thuế GTGT, thuế TTĐB đối với hàng NK) và các khoản
thu từ đất đai, khoáng sản. Do đó, khi kinh tế khó khăn các nguồn thu đó đều bị
ảnh hưởng, dẫn đến thu ngân sách có chiều hướng giảm.
21


Tổng thu cân đối NSNN 5 tháng đầu năm thực hiện ước đạt 358,55 nghìn

tỷ đồng, bằng 45,8% dự toán, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó:
Thu nội địa đạt 248,71 nghìn tỷ đồng, bằng 46,1% dự toán, tăng 20,9% so với
cùng kỳ năm 2013 (không kể tiền sử dụng đất thì tăng 15,3%). Có nhiều khoản
thu quan trọng tiến độ đạt khá, như: Thu từ kinh tế quốc doanh đạt 44,3% dự
toán, tăng 33,8%; thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh đạt
47,1% dự toán, tăng 13,9%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt
49,1% dự toán, tăng 16,6%.
Thu về dầu thô cũng ước đạt 46,44 nghìn tỷ đồng, bằng 54,5% dự toán.
Thu ngân sách từ hoạt động XNK ước đạt 94,98 nghìn tỷ đồng, bằng 42,4% dự
toán, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2013. Số thu từ hoạt động XNK tăng chủ
yếu là nhờ kim ngạch XNK 5 tháng đầu năm đạt khá, trong đó một số mặt hàng
chịu thuế suất cao, trị giá lớn tăng mạnh so với cùng kỳ. Ví dụ, so với cùng kỳ
năm 2013, kim ngạch NK xăng dầu tăng 14,4%, ô tô nguyên chiếc tăng 45,9%,
linh kiện phụ tùng ô tô tăng 28,3%... Sau khi thực hiện hoàn thuế GTGT theo
chế độ (33 nghìn tỷ đồng), thu cân đối NSNN từ hoạt động XNK ước đạt 61,98
nghìn tỷ đồng, bằng 40,2% dự toán, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm 2013.
Theo nhiều chuyên gia kinh tế, mặc dù kinh tế vĩ mô vẫn tiếp tục có những
khó khăn, song dường như Việt Nam đã qua khỏi giai đoạn kinh tế khó khăn
nhất. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, năm 2014 tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam sẽ khả quan hơn. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng có thể
sẽ đạt khoảng 5,6% và lạm phát sẽ khoảng 6,3 %. Ngân hàng thế giới (WB) dự
báo tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt khoảng 5,5% trong năm 2014 với lạm
phát có thể nằm trong mức mục tiêu của Chính phủ. Khi nền kinh tế đã đi qua
gần nửa chặng đường, cho thấy, sự thuận lợi của tình hình kinh tế trong và ngoài
nước có thể tác động tích cực đến nguồn thu NSNN. Có thể thấy điều này khá rõ
khi xem xét thu NSNN 5 tháng của năm 2014. Hầu hết các nguồn thu NSNN
đều cho kết quả khả quan hơn so với năm 2014. Hơn nữa, mức lập dự toán thu
cân đối NSNN năm 2014 cũng không cao như giai đoạn 2012-2013 nên khả
năng xảy ra hụt thu sẽ ít hơn.
22



TS. Vũ Sỹ Cường (Học viện Tài chính) cảnh báo, quy mô thu ngân sách
giảm nhanh nếu không đi kèm với việc giảm quy mô chi tiêu tương ứng thì sẽ có
nguy cơ làm tăng thâm hụt ngân sách và nợ công. Hiện tổng chi thường xuyên
đã lớn hơn mức thu từ thuế và phí. Điều này vi phạm nguyên tắc về tính bền
vững đã được nêu ra trong Luật Ngân sách và tạo ra rủi ro lớn cho ngân sách về
dài hạn khi chúng ta bắt đầu phải vay để tiêu dùng thay vì chỉ vay để đầu tư. TS.
Cường cho rằng, dù có nhiều biện pháp để tiết kiệm chi tiêu nhưng tốc độ tăng
chi NSNN theo dự toán của Quốc hội và nhất là tăng chi thường xuyên vẫn khá
cao (năm 2012 vượt xa so với tốc độ lạm phát). Vì vậy, dù Chính phủ có những
biện pháp mạnh mẽ thì việc thực hiện tiết kiệm chi tiêu từ NSNN năm 2014 và
trong trung hạn cũng không dễ. Trong khi đó, do quy mô vay nợ ngày càng tăng
lên và nhiều khoản vay đã bắt đầu đến kỳ hạn trả nợ nên trong cơ cấu chi
NSNN, chi trả nợ (cả lãi và gốc) đang tăng và bắt đầu tăng nhanh. Tỷ lệ trả lãi
trong tổng chi cân đối NSNN vào năm 2005 chỉ là 2,9 % đã tăng lên 5,2 % năm
2013. Nếu tính tổng chi NSNN cho trả cả lãi và gốc thì năm 2014 sẽ cần khoảng
12% tổng chi cân đối NSNN dành để trả nợ.
Về tình hình thu ngân sách năm 2014, TS. Trần Đình Thiên cho rằng, trong
năm nay, việc thực hiện những chính sách mới như áp dụng thuế suất mới đối
với thuế TNDN (giảm từ 25% xuống còn 22%) trong điều kiện hoạt động sản
xuất kinh doanh chưa phục hồi, dự kiến sẽ khiến cho thu ngân sách bị giảm
trong ngắn hạn, như vậy để hoàn thành được nhiệm vụ thu ngân sách đòi hỏi các
cơ quan quản lý phải quản lý chặt nguồn thu, xử lý các hoạt động gian lận thuế.
Bởi theo TS. Trần Đình Thiên, việc quản lý chặt các nguồn thu (như thu từ cổ
tức của các DN nhà nước, từ các tài sản của nhà nước khác), chống thất thu thuế
một mặt giúp tăng thu ngân sách đồng thời cũng giúp tránh được vòng luẩn quẩn
đó là thất thu, trốn thuế nhiều làm giảm thu ngân sách.
Trong phiên thảo luận của Quốc hội về quyết toán NSNN năm 2012, nhiều
đại biểu Quốc hội đồng tình cho rằng, trong bối cảnh thu ngân sách khó khăn,

vẫn phải đảm bảo nguồn chi cho các nhiệm vụ thường xuyên, cho an sinh xã hội,
an ninh quốc phòng, cần thiết phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài khóa, giám
23


sát chặt các nguồn thu, hạn chế thấp nhất tình trạng thất thu, nợ đọng thuế.
Trong báo cáo về tình hình triển khai kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm
2014 gửi tới Quốc hội, Chính phủ cũng xác định, để thực hiện thành công các
mục tiêu đề ra từ nay đến cuối năm là hết sức khó khăn, khi tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
còn nhiều thách thức.
Chính phủ xác định vẫn tiếp tục tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, tập
trung chống thất thu, nợ đọng thuế và kiểm soát chặt chẽ chi NSNN; kiên quyết
cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện các khoản chi chưa thực sự cấp bách; bảo
đảm bội chi NSNN trong phạm vi Quốc hội quyết định; nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn vay, quản lý chặt chẽ nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của
quốc gia, bảo đảm trong giới hạn an toàn... Cùng với đó là tiếp tục tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh. Đây sẽ là nhóm giải pháp hiệu quả nhằm nuôi dưỡng nguồn thu,
hướng tới sự bền vững trong thu ngân sách.
Phát biểu tại “Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ 2014”, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, nền kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu
năm 2014, dự kiến cả năm 2014 đã, sẽ và tiếp tục ổn định vững chắc hơn. Dự
báo tăng trưởng 5,8% trong năm 2014 và đã đưa ra kế hoạch tăng trưởng hơn
6% trong 2015. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát tốt, năm 2014 kiểm soát lạm
phát khoảng 5%. Xuất khẩu bình quân 3 năm tăng trưởng trên 20%... Những tín
hiệu quả quan từ nền kinh tế sẽ có tác động tích cực đến số thu ngân sách từ nay
đến cuối năm 2014.
4. Một số bài học kinh nghiệm rút ra qua tình hình thu, chi ngân sách năm
2013 và những tháng đầu năm 2014

Một là, sự chỉ đạo điều hành kịp thời với những thay đổi của tình hình
kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện dự toán NSNN. Bộ Tài
chính với việc ban hành Chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết
01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP là lý do quan trọng giải thích cho những
nỗ lực vượt khó của năm tài khóa năm 2013.
24


Hai là, ngay trong bối cảnh khó khăn kinh tế thì việc tăng cường kiểm tra,
giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản
nợ đọng thuế; Triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng
và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới cần đặc biệt được quan tâm.
Ba là, cần điều chỉnh việc lập dự toán NSNN phù hợp với những thay đổi
dự kiến của tình hình kinh tế, nhất là biến động về tăng trưởng GDP, ngoại
thương và giá cả.
Bốn là, cần tiếp tục thực hiện các biện pháp chủ động và tích cực trong
việc tiết kiệm chi tiêu từ NSNN, phối hợp các bộ ngành rà soát toàn bộ các dự
án đầu tư để có các biện pháp xử lý, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Những kết quả đạt được
Một là, phân cấp ngân sách nhà nước (NSNN) đã làm tăng tính chủ động,
tích cực của chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương (đặc biệt là hội
đồng nhân dân cấp tỉnh) đã được phân cấp ngân sách nhiều hơn trong: i) Quyết
định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa
phương trong phạm vi được phân cấp nhằm đảm bảo sự phù hợp với điều kiện
của từng địa phương; ii) Quyết định định mức phân bổ ngân sách, tiêu chuẩn,
định mức chi tiêu ngân sách trên cơ sở hướng dẫn và khung quy định do Thủ
tướng Chính phủ ban hành; iii) Quyết định một số nội dung trong quy trình
ngân sách như quyết định phân bổ dự toán, quyết toán ngân sách địa phương

(NSĐP)… Việc quy định thời kỳ ổn định ngân sách từ 3 đến 5 năm, ổn định tỷ
lệ phân chia và số bổ sung cân đối trong thời kỳ ổn định ngân sách, trao quyền
vay nợ cho chính quyền địa phương với giới hạn xác định, tăng cường phân
cấp nguồn thu cho NSĐP đã giúp chính quyền địa phương phát huy tính chủ
động, sáng tạo trong quản lý, khai thác có hiệu quả các nguồn thu, chủ động
cân đối ngân sách, đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ chi NSĐP.
Hai là, tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế địa phương và xóa đói
giảm nghèo. Với việc quy định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi và khoản chuyển
25


×