Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.19 KB, 21 trang )

TIẾP NHẬN SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU TỪ GÓC ĐÔ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
1/ Tóm tắt: Sáng tác của Nguyễn Du không chỉ có Truyện Kiều, nhưng trong
phạm vi tìm hiểu của nhóm 5, xin khoanh vùng ở phạm vi “Truyện Kiều sống
giữa mọi người”.
Chuyện rằng trong dân gian Nghệ Tĩnh từ cuối thế kỷ XIX, sau các lũy tre làng vào những
đêm trăng sáng thường diễn ra nhiều cuộc hát vi dặm của thanh niên nam nữ giữa hai làng; có
khi là giữa hai huyện cách nhau một con sông nhỏ, hoặc cách nhau mấy quả đồi nhấp nhô của
dãy núi Thiên Nhẫn phân đôi hai tỉnh. Tiếng ca hát vui buồn là biểu hiện khát vọng sống chính
đáng của nhân dân, nhất là phụ nữ, mà ngày nay được mệnh danh là Nhân quyền.
Thời bấy giờ, Truyện Kiêu thường được đông đảo bà con đem ra hát bởi câu chuyện nói lên
được niềm vui sống của cộng đồng, và xem thơ dường thấy có mình ở trong ; dù đang bị vây
hãm giữa vòng tăm tối của chế độ thực dân phong kiến cả về vật chất lẫn tinh thần.
Có những câu hát dân gian bắt nguồn từ Truyện Kiều qua lời kể của lớp người đã khuất cùng
các giai thoại hàng ngày. Thường là sau những câu chào hỏi mở đầu buổi hát, phe bên nữ cất lên
câu đố đậm nét văn thơ. Một cô gái có giọng cao vút, bỗng hát lên: Truyện Kiều anh thuộc làu
làu / Đố anh kể được hai câu vẹn tròn?
Câu đố quá khó, vượt ra ngoài tầm hiểu biết của đông đảo trai làng? Phải có các sinh đồ trẻ,
khá lanh lợi, "thâm nho", ngồi gà phía sau; nếu không kịp thời đáp lại là thua cuộc, chịu bẽ mặt
trước phái nữ.Sau mấy phút bàn tán xì xào, phe con trai bèn cử người cất tiếng đáp lại rõ ràng:
Trăm năm trong cõi người ta / Mua vui cũng được một vài trống canh.
Tiếng vỗ tay chúc mừng, những câu hỏi lại tiếp tục đổ dồn khó khăn hơn…
Nét sáng tạo quý giá nhất của Truyện Kiều là ở chỗ, nhà thơ đã đưa tiếng mẹ đẻ vào văn
chương thành văn rất tự nhiên, góp phần làm giàu cho ngôn ngữ thi ca nước Việt ở cuối thế kỷ
XVIII. Đó là một đóng góp vô cùng quan trọng đáng khâm phục, không dễ gì có được giữa lúc
chữ Hán đang ngự trị, thậm chí cả lời khấn cúng cơm trước bàn thờ tổ tiên, ông bà đã khuất
cũng bằng chữ Hán, dù khi họ chưa hề học chữ nào! Đến tận ngày nay, thế kỷ 21 vẫn rất nhiều
người khấn trước các bàn thờ đền, chùa, miếu, phủ và gia đình bằng chữ Hán!
Một trong những câu đố hay được hỏi nhất là: “Truyện Kiều anh thuộc làu làu/ Đố anh biết
được câu nào toàn chữ Nôm ?” Ôi trời ơi! Khó quá! Làm sao trả lời? Hơn ba ngàn câu thơ, ai
mà thuộc được? Thật ra trong Truyện Kiều có khá nhiều câu lục bát được viết toàn chữ Nôm,
chẳng hạn:


+ Sè sè nấm đất bên đàng, / Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
+ Chén đưa nhớ bữa hôm nay / Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.
+ Làm cho cho mệt cho mê, / Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
1
+ Tha ra thì cũng may đời/ Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
+ Lo gì việc ấy mà lo/ Kiến trong miệng chén có bò đi đâu.
Cũng có thể kể nhiều câu toàn Nôm nữa, nhưng có lẽ "Nôm nhất" vẫn là hai câu sau đây của
một chàng trai hay chữ, giỏi giang trong vùng phát hiện ra: Này chồng, này mẹ, này cha, / Này là
em ruột, này là em dâu. Nhìn ở góc độ từ ngữ cũng như kết cấu hình tượng, âm vận, nhịp điệu thì
đây là câu văn xuôi giản dị, đời thường, nhằm biểu hiện nỗi bàng hoàng "nghe tin ngơ ngác rụng
rời,/ Xúm quanh kế họ, rộn lời hỏi tra". Quả vậy, nào ngờ Giác Duyên đưa tin cho biết nàng
Kiều còn sống ở “thảo am đó cũng gần kề, chẳng xa ".
Cách nói liệt kê chân thật, chẳng chút màu mè, rằng cả nhà đông đủ vừa tủi, vừa mừng, nhớn
nhác về việc Thúy Kiều xuất hiện, chứ không phải đã chết ? Thế là sau 15 năm lưu lạc, bao
người tưởng nàng đã khuất xa không bao giờ trở lại. Bỗng “nghe tin nở mặt, nở mày, / Mừng nào
lại quả mừng này nữa chăng? " Cảnh tượng thật là cảm động?
Còn trong hát dặm, tựa như cuộc thi hát vui ngày nay, phụ nữ vẫn chưa buông tha các chàng
trai, mà vẫn thách đố tiếp: “Truyện Kiều anh thuộc làu làu, / Đố anh biết được câu nào toàn chữ
nho?” Khó vô cùng? Sao mà ác thế? Làm sao trả lời được! Bọn con trai ngơ ngác gần như chịu
đầu hàng. Bỗng có chàng trai reo lên, rồi vội cất cao tiếng hát: Hồ công (Hồ Tôn Hiến) quyết kế
thừa cơ / Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ tập công. (Nếu ai đó chịu khó mở Truyện Kiều tra tìm từng
câu, từng chữ, đọc thật kỹ cũng khó mà " tìm ra câu nào toàn chữ Nho hơn thế?
Nội dung nhiều nhất mà các câu hát Đố Kiều quan tâm là thử thách sự thông thuộc, hiểu biết
của người giải đố về Truyện Kiều. Loại câu đố ấy thường ngắn gọn, buộc người giải đố phải tìm
một câu, một đoạn nào đó có ý theo yêu cầu của người đố. Có khi bản thân câu đố không khó
nhưng vì phải trả lời ngay nên đến cả những nhà “Kiều học” cũng lúng túng. Sau đây là một số
ví dụ khác.
Đố: Truyện Kiều anh đã thuộc lòng
Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?
Ở câu này, người ra đố đi từ nhận xét rằng, không ai mê Truyện Kiều mà không thuộc câu “Lơ

thơ tơ liễu buông mành/ Con oanh học nói trên cành mỉa mai”, nên hễ nhắc hai chữ tơ liễu là thế
nào buông mành cũng hiện lên. Vả lại, trong Truyện Kiều có rất nhiều từ liễu, từ tơ nhưng tơ
liễu thì chỉ xuất hiện ba lần, “tơ liễu mà không buông mành” chỉ có hai lời giải:
2
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha!
Và: Chừng xuân tơ liễu còn xanh
Nghĩ mình chưa thoát khỏi vành ái ân.
Mặt khác, bàn tới Truyện Kiều không thể không nói đến chuyện Bói Kiều. Chẳng biết
tự bao giờ Bói Kiều đã trở thành tập quán tìm ăn sâu vào đời sống thường ngày của nhân dân,
không chỉ tại đất Lam Hồng, mà còn khá phổ biến ở nhiều nơi trên cả nước.
Vào năm 1898, trong bài Tựa viết cho bản Kiều Oanh Mậu (in năm 1902), Hoàng giáp Đào
Nguyên Phổ đã nêu lên câu hỏi tha thiết: "ôi, sao mà lại có văn hay làm say người đến thế! Còn
một điều lấy lâu lạ nữa là người đời dùng để bói, thì thấy ứng nghiệm như thần!".
Ở Hà Tĩnh, trước tháng Tám 1945, hầu hết các gia đình trước bàn thờ ở gian giữa có một
bàn nhỏ cao (yên thư) thường đặt cuốn Truyện Kiều. Ai muốn bói phải gấp cuốn sách lại, rồi
lẩm nhẩm đọc lời khấn (nếu không biết chữ, có thể nhờ bói hộ): "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác
Duyên, lạy Tiên Thúy Kiều Hôm nay là ngày Con tên là xin bói một quẻ về đường tình
duyên, tài lộc con cái, Con xin bốn câu, trang bên trái, hoặc bên phải ” Bói xong rồi, có
thể có vài người ngồi cạnh cùng giải thơ Kiều, đoán xem mức độ linh ứng về hiệu quả ứng
nghiệm đến đâu, song cái chính là cần sự chân thành!
Hơn nữa, Truyện Kiều còn được Bác Hồ của chúng ta thường hay lấy Kiều trong trò chuyện
đời thường và cả trong ngôn ngữ hành chính. Xa quê Kim Liên 50 năm, lúc về thăm quê, Bác đã
đọc hai câu tập Kiều: Quê hương nghĩa nặng tình sâu
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình!
Đặc biệt, trong diễn văn đón tiếp Tổng thống nước Cộng hòa Ghinê Xê cu Turê tại sân bay Gia
Lâm ngày 15/9/1960, Bác Hồ đã nói: Đến bây giờ mới thấy đây,
Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên.
Kết thúc bản Di chúc cuối đời đầy tâm huyết Bác cũng láy lại câu Kiều tràn đầy ý nghĩa:
Còn non, còn nước, còn người,

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay .
Mỗi lần nhắc lại câu thơ trên, người đọc có thể liên tưởng đến hai câu Kiều:
Còn non, còn nước, còn dài,
Còn về còn nhớ đến người hôm nay.
Không chỉ dừng lại ở địa hạt văn thơ, Truyện Kiều còn được khẳng định giá trị trong quan hệ
rộng rãi về văn hóa, vượt ra ngoài ranh giới dân tộc, cho nên tổ chức UNESCO đã tôn vinh:
Nguyễn Du là danh nhân văn hóa nhân loại (1965).
3
Nổi bật hơn, Truyện Kiều còn tỏa sáng giữa đời sống ngoại giao hiện đại. Chứng cớ là năm
2000, Tổng thống Hoa Kỳ Bin Clinton trong đáp từ chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam tại Hà
Nội đã "vận Kiều » khá tế nhị:- Nhân dân Hoa Kỳ vui mừng vì đã đến lúc chúng ta có thể trở
thành đổi tác. Như trong Truyện Kiều đã nói : Sen tàn cúc lại nở hoa, / Sầu dài ngày ngắn, đông
đà sang xuân. Nay ký ức băng giá về quá khứ đã bắt đầu tan. Những phác thảo của một tương
lai ấm áp chung đã bắt đầu hình thành. Cùng nhau chúng ta hãy tận hưởng mùa xuân ấm áp này"
(Báo Nhân Dân 1 8/11/2000).
Trên đất Pháp, người ta không chỉ dễ dàng tìm đọc nhiều bản Kiều đã được dịch ra tiếng Pháp,
mà còn thấy trong cuốn Từ điển các tác phẩm của mọi thời đại và mọi xứ sở. Truyện Kiều được
giới thiệu ở Pháp rất trân trọng và chi tiết.
« Truyện Kiều » còn được chuyển thể thành nhiều kịch bản sân khấu từ Bắc vào Nam,
chinh phục đông đảo người xem. Có thể đơn cử một vài tác phẩm sân khấu như sau : Năm 1966,
tại khu sơ tán Thái Nguyên, giáo sư Hoàng Xuân Nhị đã hoàn thành vở kịch mang tên Kiều. Tuy
đang ở thời chiến, nhưng cũng vào năm ấy, lớp sinh viên văn khóa Tám đã công diễn vở Kiều tại
Thái Nguyên, do Hoàng Chương làm đạo diễn.
Trước năm 2010, tại thành phố Hồ Chí Minh, đã có vở cải lương đặc sắc : « Ai giết nàng
Kiều ? » Sau năm 2010, nữ đạo diễn Hoa Hạ dựng vở cải lương khác mang tên « Kim Vân
Kiều » được công diễn suốt bốn giờ liền tại nhà hát Trần Hữu Trang. Và nhạc sĩ Phạm Duy cũng
từng dành nhiều công sức viết bản nhạc dang dở về Truyện Kiều.
Vào đầu năm 2012, nghệ sĩ Lan Hương đã dàn dựng vở kịch hình thể mang tên Nguyễn Du
với Kiều và đã công diễn nhiều đêm ở Nhà Hát lớn Hà Nội. Đây là một đóng góp mới và lạ đến
với công chúng thủ đô về một tích Kiều cổ điển Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo từ Paris về nước

dựng vở thanh xướng kịch về Thúy Kiều mang tên Định mệnh bất chợt, gồm 11 chương vào đêm
3 tháng 5-2012 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội.
Và ngày 3 tháng 11 năm 2011, Hội Kiều học - Hội của những người yêu thích Truyện Kiều -
đã được thành lập tại Hà Nội, bước đầu đã có trên 350 hội viên từ Nam chí Bắc cùng một số Việt
kiều và cả người nước ngoài cũng tình nguyện gia nhập Hội. PGS. Nguyễn Văn Hoàn - một
chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu Truyện Kiều được Đại hội bầu làm Chủ tịch Hội. Thời gian
đã chứng tỏ sức sống dài lâu của truyện thơ bất hủ này trong lòng nhân dân.
Như vậy không gian Diễn Xướng trò Kiều của phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng xuất
hiện đầu tiên thuộc vùng Bắc Nghệ An, Nam Thanh Hóa. Một điều giống nhau giữa các vùng miền là các
vai diễn Vân Kiều, Tú Bà đều do phái “mày râu” xâu lỗ tai để sắm vai. Nhận định sự xuất phát đầu tiên
của không gian diễn xướng trò Kiều ở Kỳ Anh, Đức Thọ , Nghi Xuân Hà Tĩnh đều thừa nhận trò Kiều,
chèo Kiều là do người Đằng ngoài vào làm ăn rồi lập phường hát.
2/ Xin giới thiệu kèm theo phần trình bày này một số bài viết về không gian diễn xướng của
Truyện Kiều (bài của Nguyễn Ban - Hậu huệ chi ất đời thứ VI của Đại thi hào Nguyễn Du) ; Đố
Kiều có lắm điều hay (bài viết của Vương Trọng) ; Và các bài viết về trò Bói Kiều, Tập Kiều,
lẩy Kiều (Lược trích trong cuốn “Thú chơi tập Kiều » – Phạm Đan Quế) ; Họa Kiều của
Đông Tảo, Lẩy Kiều của thi sĩ đồng quê Nguyễn Bính.
a/ Truyện Kiều với giá trị không gian diễn xướng
4
Văn học nước nhà có nhiều truyện thơ được chuyển thể sang nhiều những loại
hình diễn ca, diễn xướng như truyện Thạch Sanh, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm
Tài Cúc Hoa,Thoại Khanh Châu Tuấn, Tấm Cám, Nhị Đỗ Mai, Quan Âm Thị
Kính, Lưu Bình - Dương Lễ, Lục Vân Tiên… Nhưng tác phẩm được chuyển
thể sang nhiều loại hình diễn ca diễn xướng của nghệ thuật sân khấu chuyên
nghiệp và văn nghệ quần chúng thì đó là Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn
Du.
Theo nhà sưu tầm biên soạn Phạm Đan Quế thì các bản đờn tranh và bài ca của Phụng Hoàng Sang
chuyển thể từ Truyện Kiều đã xuất bản tại Sài Gòn từ những năm 1909. Các bài ca tứ tài tử của Đặng
Nhiều Hơn và Đinh Thái Sơn, các bài ca lục tài tử của Đặng Tiền Thân cũng đã xuất bản ở Sài Gòn từ
những năm 1915 thế kỷ XX. Trên tờ báo Gia Định số 52 ngày 29 tháng 12 năm 1896. Có bài quảng cáo

cho sách xuất bản đầu năm 1897 nguyên văn như sau:
“Nhà in bán sách mới lập của ông Claude và công ti đường Catinat số 99. Tuồng- Kim Vân - Kiều - Lãm
Túy Hiên truyện, thế tải Trương Minh Ký, kỉnh lục ra Quốc Ngữ rõ ràng theo y bổn của quan Ngụy Công
(thám ba)” tức là Hoàng giáp tiến sĩ Ngụy Khắc Đản. Ông người xã Xuân Viên cùng huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh với cụ Nguyễn Du. Ông sinh năm 1817 và mất năm 1872. Ông thi đỗ hạng thứ 3 đệ nhất
giáp. Ông viết tuồng Kiều khi làm án sát sứ Quảng Nam. Năm Tự Đức 16 (1863) được cử đi sang Pháp
với ông Phan Thanh Giản và Phan Phú Thứ. Sau khi về nước được lãnh chức: Hữu tham tri Bộ hộ, rồi
thượng thư Bộ binh. Nhờ lời văn đối sách có nhiều thiết thực được nhà vua khen ngợi và trao chức: tham
biện ở Cơ mật viện.
Dựa vào thông tin trên có thể rút ra kết luận: Truyện Kiều được chuyển thể sang Kịch bản sân khấu tuồng
vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIX. Nghĩa là sau khi cụ Nguyễn Du mất (1820) khoảng 30 năm. Tiếp đến
các bản tuồng, cải lương Kim Vân Kiều in tại Hà Nội - Hải Phòng đầu những năm 1930.
Theo kể lại của đạo diễn sân khấu nghệ sĩ Hoàng Em, thì Rạp tuồng ông Ba Dịu tại thành phố Vinh, Nghệ
An trước những năm 1930 cũng đã diễn tuồng Kim Vân Kiều. Ông Ba Dịu là cụ thân sinh đạo diễn
Hoàng Em nguyên là hiệu phó trường VHNT Việt Bắc, sau là hiệu phó trường múa Việt Nam. Anh ông là
ông Hoàng Anh trưởng đoàn cải lương Hải Phòng.
Như vậy không gian diễn xướng Truyện Kiều với bộ môn đờn ca tài tử cải lương và tuồng đã xuất hiện
trên sân khấu Bắc Trung Nam từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Hòa bình lập lại (1954) các đoàn
nghệ thuật trung ương như Chuông Vàng, Kim Phụng đều diễn tích truyện Kiều. Đoàn cải lương Nghệ
Tĩnh sau những năm 1980 mới dàn dựng và biểu diễn trong nhiều năm.
Theo tài liệu sưu tầm của ông Trần Việt Ngữ nhà hát chèo trung ương trong đợt đi sưu tầm: “Chèo Cố
Chiếng – Thanh Nghệ” năm 1969. Ông Viết: Ông và ông Nguyễn Trung Phong nguyên phó giám đốc sở
VHTT Nghệ Tĩnh đã cùng đi sưu tầm và đã gặp lão nghệ nhân Nguyễn Đình Chiêm người thôn Trung
Phường, xã Diễn Minh, Diễn Châu, Nghệ An. Ông Chiêm đọc và viết được Hán Nôm. Trước cách mạng
tháng 8- 1945, ông đã từng theo phường hát cụ Nhì Am trong vùng từ những năm 1915 - 1927 và tiếp
theo 1934 - 1942, đã từng đóng vai Kim Trọng, Thúc Sinh được dân đương thời khen là cớ tinh thần. Ông
đã hai lần cung cấp kịch bản trò Kiều cho nhà hát chèo trung ương. Nội dung kịch bản 2 lần không có gì
khác nhau, nhưng việc phân chia lớp lang, màu hồi thì có khác nhau. Kịch bản cụ cung cấp năm 1964
toàn tấn trò chỉ có 3 hồi và diễn trong 3 đêm là kết tấn. Kịch bản cung cấp cho ông Trần Việt Ngữ (1969)
lại phân chia làm 4 hồi diễn 4 đêm mới hết tích trò.

5
Vở kịch "Nguyễn Du với
Kiều" của Nhà hát Tuổi
trẻ
Theo cố Đạo diễn Cao Danh Giá, ông là người Diễn Hoa, Diễn Châu nguyên trưởng đoàn chèo Nghệ An
ông nói các huyện bắc Nghệ An- nam Thanh Hóa đã có nhiều đội trò, trước những năm 1920 huyện Diễn
Châu, qua các cuộc thi có nhiều đội xuất sắc như đội trò Diễn Minh, Diễn Hoa, Diễn Yên, Diễn Hồng…
Hầu hết các đội trò hàng năm đến các dịp lễ tết hội làng lại dựng rạp lên diễn trò nhiều đêm liền. Lên 16,
17 tuổi ông đã tham gia đội trò của làng. Ông nói vui: “Trò vè ngày trước may ra được dăm ba miếng lúc
diễn, còn thôi diễn là khô môi. Thế mà làng kêu là đi suốt không tính toan gì đến việc nhà…”. So với dân
quê tôi, khi làng có đội trò thì đó là ông nói thật. Với diễn viên đội trò ngày đó vì may không có phụ nữ
tham gia hát xướng nên các bà mà có máu chị Hoạn cũng rất vô tư cho chồng con đi theo phường bạn,
chẳng tính gì đến đoạn cơm gạo và so kè hơn thiệt. Ca ngợi phong trào văn hóa của quê hương ông nói:
“Diễn Yên Quỳnh không chỉ là vùng lúa, vùng màu của Nghệ An, mà còn là vùng diễn xướng trò Kiều
của xứ Nghệ trước cách mạng tháng 8 – 1945.
Như vậy không gian Diễn Xướng trò Kiều của phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng xuất hiện đầu
tiên thuộc vùng Bắc Nghệ An, Nam Thanh Hóa. Một điều giống nhau giữa các vùng miền là các vai diễn
Vân Kiều, Tú Bà đều do phái “mày râu” xâu lỗ tai để sắm vai. Nhận định sự xuất phát đầu tiên của không
gian diễn xướng trò Kiều ở Kỳ Anh, Đức Thọ , Nghi Xuân Hà Tĩnh đều thừa nhận trò Kiều, chèo Kiều là
do người Đằng ngoài vào làm ăn rồi lập phường hát. Người Hà Tĩnh gọi người Đằng ngoài là cư dân từ
vùng Nghi Lộc Nghệ An đến các huyện phía Nam Thanh Hóa, xa hơn nữa là người Bắc Kỳ.
Theo tư liệu nhạc sĩ Lê Hàm nguyên trưởng đoàn Kịch thơ Hà Tĩnh sưu tầm cung cấp thì tại Kỳ Anh
trước đây những năm 1930 đã có người Đằng ngoài vào buôn bán, rồi lập phường hát chèo Kiều. Đọc các
tư liệu Kim Vân Kiều diễn ca thì thấy ở Kỳ Anh là nơi trò kiều gọi là chèo Kiều. Ở Diễn Châu các cụ lại
cho Kim Vân Kiều diễn ca là tuồng pha chèo nên gọi là Trò. Ở Nghi Xuân Hà Tĩnh cũng gọi Trò. Hát trò
nghĩa là có hát , có diễn và có làm trò vui. Còn các huyện Bắc Quảng Bình lại gọi là hát Kiều. Nhạc sĩ Lê
Hàm còn cho biết ở Kỳ Anh nhiều xã có đội chèo như Kỳ Văn, Kỳ Bắc, Kỳ Châu, Kỳ Long, Kỳ Tân, Kỳ
Thư, Kỳ Ninh….Riêng đội chèo xã Kỳ Châu thành lập muộn hơn (năm 1954) đến năm 1962 rời rạc rồi
tan rã vì chiến tranh. Theo cụ Hòa đội trưởng: Đội chèo kiều Kỳ Châu không phải do người Bắc thành lập
mà do Cố Cháu Mính người Nhà Chàng tức là làng rèn Trung Lương huyện Đức Thọ vào làm nghề rèn ở

Kỳ Anh lấy vợ rồi xây đội chèo của làng. Điều này chứng tỏ trò Kiều xuất hiện ở Đức Thọ Hà Tĩnh khá
sớm, có thể cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Xin trích câu viết của nhạc sĩ Lê Hàm: “Theo cụ Cương, khi
cụ 10 tuổi, năm nay (1964) cụ đã 72 tuổi ở Kỳ Anh đã có chèo Kiều” như vậy là khoảng 1902 chèo Kiều
đã vào đất Đức Thọ Hà Tĩnh.
Trò Kiều về quê hương tác giả Truyện Kiều: Điều chắc chắn Trò Kiều về làng Tiên Điền chậm muộn so
với nhiều vùng của 6 tỉnh Bắc Miền Trung. Về thời gian phải đến gần 100 năm sau khi cụ Nguyễn Du qua
đời (1820). Người đón thầy trò về làng là anh em người họ Trần, xóm làng Tiền, xã Tiên Điền ( nay là
thôn An Mỹ). Đó là các ông Trần Văn Thiều, Trần Văn Ân, Trần Lan và Trần Văn Nguyệt. Nếu các cụ
còn sống thì năm nay đã khoảng 120 tuổi. Khác với các hoạt động văn nghệ khác, đội trò của làng hễ nổi
trống lên, bất phân ngày đêm, tập hay diễn dân làng đều tụ tập đến xem. Dân mê trò kiều đến nỗi hầu như
khán giả nhiều người thuộc lòng nhiều vai diễn hơn cả diễn viên. Cũng nhờ thế mà Kịch bản Trò Kiều lưu
truyền tồn tại lâu trong dân gian. Khi Nghi Xuân khôi phục trò Kiều năm 2000 Phòng VHTT huyện đi
sưu tầm Kịch bản gốc và phong trào xây dựng đội trò trước đây của các vùng miền, mới thấy được nhiều
điều lý thú về tình cảm của nhân dân mến mộ trò Kiều trong một thời gian dài. Hồi đó huyện Nghi Xuân
chỉ có 6 xã – Tiên Điền, Xuân Mĩ, Xuân Thành, Cổ Đạm, Xuân Liên và Xuân Lĩnh là những xã có đội
Trò Kiều. Còn các huyện Diễn Châu ,Yên Thành - Nghệ An; Đức Thọ, Thạch Hà, Kỳ Anh - Hà Tĩnh, mỗi
huyện ít nhất cũng phải có từ 10 đến 15 xã có đội hát diễn trò Kim Vân Kiều. Phong trào hát trò kiều phải
nói đến thời gian chống Pháp, chống Mĩ mới rời rạc rồi tan rã dần. Gần đây chỉ còn 2 đội trò Tiên Điền,
Xuân Liên huyện Nghi Xuân ,và đội hát Kiều của huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Nhưng lại xuất hiện
kịch nói, Kịch Opera, kịch dân ca diễn tích Truyện Kiều, tất nhiên phần lớn chỉ là diễn trích đoạn.
6
Khi đi tìm hiểu phong trào diễn xướng trò Kiều ở Diễn Châu các cụ cho biết tình cảm mến mộ trò Kiều
của dân thời đó thật đáng trân trọng. Các cụ nói “Ý thức dân ta hồi đó hay lắm, lạ lắm và cũng quý lắm.
Có người thuộc làu cả tấn Trò thậm chí hát còn rất hay. Thế mà khi làng tập trò, diễn trò họ vẫn đi xem.
Theo các cụ, họ đi là để xem các vai mới thay, và đội trò năm sau diễn, hát có hay hơn những năm trước
không? Nếu hay hơn thì họ khen họ thưởng, nếu dở thì họ góp ý chân tình. Thậm chí có người sau đêm
diễn đến tận nhà các vai diễn để động viên góp ý chỉ vẽ chỗ đúng chỗ sai. Như vậy không gian mến mộ
Trò Kiều không chỉ làng Tiên Điền quê hương cụ Nguyễn mà còn nhiều vùng miền như vậy.
Năm 2000 phòng VHTT huyện Nghi Xuân nhận được một băng ghi hình của đội hát Kiều của huyện Bố
Trạch Quảng Bình. Người xem quê tôi thật sự xúc động vì đội ngũ diễn viên diễn xướng các cụ đều đã

tuổi ngoài 70 – 80. Nghe nói xã Thạch Đồng huyện Thạch Hà gần đây cũng có đội trò diễn tích Truyện
Kiều. Phải nói không gian diễn xướng Truyện Kiều có một phạm vi rộng trên cả 3 miền đất nước. Đó là
chưa đề cập sâu đến hoạt động của các nhà hát, các đoàn tuồng chèo cải lương, kịch dân ca, kịch hát
chuyên nghiệp của các tỉnh thành phố trên phạm vi cả nước.
Ngày nay phong trào diễn ca, diễn xướng trò Kim Vân Kiều lắng xuống và không gian thu hẹp lại, phải
chăng tình cảm với Truyện Kiều của dân ta phai nhạt dần hoặc vì lý do chúng ta nhập vào quá nhiều phim
ảnh Hải ngoại. Là một người một thời làm công tác văn hóa nghệ thuật quần chúng tôi nghĩ không hoàn
toàn như thế. Không thể đổ lỗi cho phim ảnh nước ngoài. Bởi lẽ nhân dân ta rất tự hào, mến mộ và coi
trọng những gì của chính mình của cộng đồng mình làm ra tạo nên. Ngày nay nhà nào cũng có tivi, radio,
nhưng hễ đội văn nghệ thôn tổ chức diễn văn nghệ là nhân dân vẫn kéo về xem đông nghịt. Xem xong
còn ủng hộ cái gọi là để nuôi phong trào. Cụm từ dân gian: “cây nhà lá vườn” vẫn là sở thích về những
hoạt động văn hóa thể thao của nhân dân ta. Năm 2000 khi khôi phục trò kiều cho 2 xã Tiên Điền và
Xuân Liên huyện Nghi Xuân, chúng tôi thấy đêm tập nào cũng có dân đến xem và ủng hộ tiền cho đội trò
của làng luyện tập. Có điều công tác tổ chức chỉ đạo của những người có trách nhiệm vẫn trì trệ và bảo
thủ cái nhận thức cổ hủ: “Chưa có văn nghệ chưa chết ai” hoặc là phong trào gì cũng chỉ rộ lên để ghi
thành tích rồi sau đó xong thôi. Đặc biệt cái nhìn thiên lệch từ khi đất nước thực hiện nền kinh tế thị
trường, xu thế cứng nhắc chỉ quan tâm đến làm thế nào để có thu nhập cao, để bản báo cáo được mọi
người quan tâm chú ý để rồi được nhiều chương trình dự án, ít khi nghĩ đến đời sống văn hóa tinh thần,
cái gì còn, cái gì mất. Giá trị không gian diễn xướng truyện Kiều cũng như nhiều tác phẩm kinh điển của
nước nhà, có tính giáo dục tư tưởng tình cảm nhân cách đạo đức con người - nhẹ nhàng nhưng sâu sắc,
tiếp thu tự giác không gò bó, ràng buộc nhưng nhớ lâu khó quên. Đó cũng là chức năng giáo dục của nghệ
thuật sân khấu cần được giữ gìn phát huy.
Tóm lại không gian diễn xướng nghệ thuật sân khấu nói chung, Truyện Kiều nói riêng tồn tại và phát triển
là tùy thuộc vào nhận thức và tư tưởng tình cảm của con người. Trong tương lai hy vọng sẽ xuất hiện
nhiều tư duy đúng đắn, thiện chí và tâm huyết để xây dựng và phát triển không gian diễn xướng không chỉ
Truyện Kiều mà những tác phẩm kinh điển có giá trị nhân văn của nước nhà. Bảo tồn phất huy văn hóa
truyền thống theo tinh thần “Xây dựng phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.”
Nguyễn Ban

(Hậu huệ chi ất đời thứ VI của Đại thi hào Nguyễn Du)

b/ Đố Kiều có lắm điều hay
Không thể thống kê hết số người thuộc toàn bộ 3254 câu, và khó tìm được một người
Việt Nam mà không thuộc một vài đoạn, một vài câu Kiều. Thế kỷ này qua thế kỷ khác,
dân ta mê rồi nghĩ ra các cách thưởng thức Truyện Kiều. Nếu như Vịnh Kiều, Bình Kiều là
7
công việc của giới nhà Nho, trí thức, thì Ngâm Kiều, Lẩy Kiều, Bói Kiều đặc biệt là Đố
Kiều được quần chúng bình dân tham gia rộng rãi.
Đố Kiều là một trò chơi văn nghệ dân gian dưới hình thức đối đáp, nghĩa là một bên hỏi, một
bên trả lời, mỗi bên thường là một nhóm, một đội Có điều đặc biệt là khi chơi trò Đố Kiều, cả
người ra đố và giải đố thường dùng thơ, chủ yếu là thể lục bát, để chuyển tải ý của mình. Trò
chơi Đố Kiều xảy ra nhiều nơi, dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng ở vùng quê Nghệ Tĩnh
trước đây chủ yếu diễn ra trong các cuộc hát Phường vải.
Hát Phường vải là hình thức hát đối đáp gồm hai nhóm người, một bên là các cô gái địa
phương ngồi quay xa dệt vải, một bên là các chàng trai tứ chiếng tụ tập lại. Nội dung hát đố, giải
trong hát Phường vải gồm nhiều đề tài khác nhau, nhưng Đố Kiều luôn luôn chiếm một vị trí
quan trọng. Điều khó của người giải đố là sau khi nghe đố xong, chỉ một thời gian thật ngắn phải
có lời đáp. Bởi vậy trò chơi này đòi hỏi những người tham gia không những thuộc, hiểu Truyện
Kiều, mà phải có phản ứng nhanh trong việc diễn tả ý của mình bằng thể thơ lục bát, đồng thời
cần có giọng ngâm, giọng hát hay. Sự thật khó tìm được một người toàn tài như vậy, mà trong
các bên dự thi Đố Kiều phải phân công nhau, để cho từng người thể hiện sở trường của mình.
Thông thường trong thành viên mỗi đội, ngoài số nam thanh nữ tú, mỗi bên còn mời một vài
người không phân biệt tuổi tác, thường là cụ đồ Nho hoặc cậu tú, cậu cử thông thuộc Truyện
Kiều, gánh vác nhiệm vụ mách lời, các chàng trai cô gái tốt giọng có khi chỉ là người “phát
ngôn”. Sau đây là một số ví dụ:
Trong trò chơi đố Kiều, rất phổ biến loại câu đố mà lời giải là một câu Kiều:
Đố: Truyện Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh kể được một câu năm người?
Giải: “Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu”!
Đố: Truyện Kiều anh đã thuộc lòng

Đố anh đọc được một dòng toàn Nho?
8
Giải: “Hồ công quyết kế thừa cơ
Lễ tiên, binh hậu khắc cờ tập công”!
Nhưng có nhiều câu đố đòi hỏi lời giải không phải là một câu Kiều, mà là sự tổng hợp của những
câu, những đoạn khác nhau. Cái khó của lời giải loại này là không chỉ thống kê các câu Kiều, mà
phải xử lý vần để lời giải là một đoạn thơ:
Đố:
Nàng Kiều lưu lạc gian truân
Với người tình, đã mấy lần chia tay?
Giải:
“Dùng dằng một bước một xa”
Chia tay Kim Trọng châu sa đẫm ngày
“Chén đưa nhớ buổi hôm nay”
Chia tay chàng Thúc hẹn ngày năm sau
“Đành rằng chờ đó ít lâu”
Chia tay Từ Hải, lòng đau nhớ nhà
Chiếc thân bèo nổi, sóng sa
Ba lần ly biệt xót xa, tội tình!
Cũng có khi người ra đố không chỉ dùng một vài lời ngắn gọn, mà dùng nhiều câu dắt dẫn, đưa
đẩy để giới thiệu mình hoặc để tỏ tình, trước khi vào nội dung cần đố:
Nữ:
9
“Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”
Phải đâu mèo mả, gà đồng
Thuyền quyên muốn hỏi anh hùng trước sau:
“Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri”
Thế còn một đạo làm chi?

Trai anh hùng giải được, gái nữ nhi chịu tài.
Nam:
Vì ai chiếc lá lìa cành
Khi săn như chỉ, khi mành như tơ
Trót công rày đợi mai chờ
“Phải người trăng gió vật vờ hay sao”
“Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri”
Ắt còn một đạo binh uy
Ở nhà giữ chốn biên thùy cho nghiêm
Anh hùng tỏ với thuyền quyên
“Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng”!
10
Trong loại câu đố này, người ra đố và giải đố dùng những câu Kiều nguyên vẹn hoặc lẩy Kiều để
chuyển tải ý mình, và hình như đây không chỉ là đố giải Kiều mà là còn là đối đáp tỏ tình. Một
đặc điểm cũng cần lưu ý, là cả người đố và giải đều đùa với ngôn ngữ trong Truyện Kiều, cụ thể
ở đây là chữ Ba quân. Họ đều thừa hiểu rằng ba quân là tiếng chỉ quân đội nói chung, thế mà giả
vờ như không hiểu để mà đố, mà giải. Chúng ta biết rằng, trong các câu đố về Truyện Kiều,
những câu đố vui đùa theo kiểu chơi chữ chiếm một tỷ lệ rất lớn. Loại câu đố này chỉ mượn
Truyện Kiều để mang lại tiếng cười sảng khoái như nghe chuyện tiếu lâm. Đó là Truyện Kiều
của “những người thích đùa”.
Hỏi: Tiện đây hỏi một hai điều
Thiếp tôi chưa rõ nàng Kiều ai sinh?
Đáp: “Hổ sinh ra phận thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong”
Khái (hổ) sinh Kiều, thật lạ lùng
Trả lời như rứa thỏa lòng em chưa?
Hỏi: Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Nghe đâu Kiều có làm nghề tráng gương?
Đáp: “Mười lăm năm, bấy nhiêu lần

Làm gương cho khách hồng quần thử soi!”
Hỏi: Nổi danh tài sắc đủ điều
Tại sao lại bảo nàng Kiều sứt răng?
Đáp: “Hở môi ra những thẹn thùng”
Sứt răng nàng sợ chúng trông, bạn cười!
11
Hỏi: “Song thu đã khép cánh ngoài”
Nàng Kiều chung chạ có thai bao giờ?
Đáp: “Lỡ từ lạc bước bước ra”
“Thất kinh nàng chửa biết là làm sao!”
Hỏi: Đến đây hỏi khách cựu giao
Chàng Kim đau bụng thế nào chàng ơi?
Đáp: “Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày!”
Hỏi: Sinh ra thời buổi chiến chinh
Thúy Kiều có lấy thương binh không chàng?
Đáp: Một tay trời bể ngang tàng
Chồng Kiều, Từ Hải rõ ràng thương binh!
Hỏi: Thời Kiều đã có ngân hàng
Em đây chưa tỏ nhờ chàng chỉ cho?
Đáp:“Nhà băng đưa mối rước vào ”
Tiền nong thanh toán việc nào chẳng xong!
Còn một nội dung đố Kiều khác nữa, là người đố dùng những câu Kiều hoặc lẩy Kiều để đố xem
ý câu đó nói gì. Với nội dung này, người giải phải có óc suy xét, phán đoán mới giải được. Và lạ
thay, có nhiều câu có lời giải có vẻ thật chính xác! Và ở loại này, người ta thường trả lời trực
diện mà ít dùng thơ.
12
Đố:“Trên vì nước, dưới vì nhà”
“Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng” (Là cái gì?)
Giải: Cái máng nước (nằm giữa hai mái nhà)

Đố:“ Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song” (Là cái gì?)
Giải: Sáo diều đêm trăng!
Đố: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông?” (Là nghề gì?)
Giải: Người đan bồ! (khi đan bồ, phải đan đáy hình vuông trước, rồi sau đó mới đan tròn phía
trên và vật liệu đan bồ là nứa phải lấy từ rừng về).
Đố Kiều là một trò chơi tao nhã có từ lâu đời, nhưng tiếc rằng hơn nửa thế kỷ qua hầu như ít xuất
hiện trong đời sống tinh thần của công chúng. Đó là một thiếu sót trong công việc bảo tồn vốn cổ
của ngành văn hóa. Gần đây Đài Tiếng nói Việt Nam có một chương trình khá hoành tráng về
việc đưa Truyện Kiều đến với thính giả bằng cách giới thiệu toàn bộ Truyện Kiều, từ đầu đến
cuối qua giọng ngâm của các nghệ sĩ nổi tiếng nhất, đồng thời trong mỗi đoạn có sự phân tích,
giảng giải của các chuyên gia về Truyện Kiều. Cũng trong chương trình này, đài còn tổ chức mỗi
tháng một câu Đố Kiều với thính giả rộng rãi trong cả nước. Việc làm này của Đài Tiếng nói
Việt Nam không những đem lại hứng thú cho người nghe mà còn làm sống lại một trò chơi văn
hóa có nguy cơ mai một. ( Vương Trọng)
c/ Bói Kiều : Không biết từ bao giờ nhưng mỗi dịp đầu năm để cầu mong sự may mắn,
an lành, người ta thường hay dùng các câu trong truyện Kiều làm quẻ bói để cùng chiêm
nghiệm
Theo Thượng tọa Thích Thanh Huân, Ủy viên TT HĐTS, Phó Văn phòng 1 TƯ GHPGVN,
Trụ trì chùa Pháp Vân (Hà Nội), hiện nay, vẫn chưa có bất cứ tài liệu chính xác về việc khi nào
13
Truyện Kiều được đưa vào tâm linh để xin một lời dạy về tương lai, tìm một hướng dẫn để sống
ở đời.
Hiện nay, chỉ có thể phỏng đoán rằng, việc Truyện Kiều được dùng làm sách bói sau khi tác
phẩm này được khắc in trong chữ Nôm vào cuối thế kỷ 19, và trong chữ quốc ngữ đầu thế kỉ 20.
Đạo lý của việc bói Kiều là: Quẻ bói có thể soi cho ta thấy tương lai có thể xảy ra như thế nào
hoặc quẻ bói không phải là một cái gì tiền định bất biến và không thể thay đổi mà chỉ là lời cảnh
báo để ta suy nghĩ và xét lại những gì đã làm và sắp sửa làm.
Mỗi quẻ bói Kiều có giá trị trong một năm và mỗi việc cũng chỉ được xem một lần. Nếu ta

bói hết quẻ này đến quẻ khác để hỏi về một việc, hoặc nếu ta không ưng với quẻ này mà cố tìm
quẻ khác thì sẽ có phản tác dụng là chỉ gây cho ta thêm hoang mang chứ không giúp tăng thêm
phần quyết định. Tuy nhiên có thể bói vào quẻ cho vài vấn đề thắc mắc riêng biệt, thí dụ: tình
duyên, gia đạo, học hành, thi cử, tiền tài, công danh, bằng hữu, kiện tụng, du lịch, hợp đồng, mua
bán, xây cất
Về cách bói Kiều, hiện có hai cách được sử dụng là bói bằng sách và bói theo cách dân gian.
Với cách bói Kiều bằng sách:
Sách bói trên rõ rệt là của một nhà nho, quen biết với phép bói quẻ dịch như những sách Mai
Hoa dịch số của Thiệu Khang Tiết đời Tống bên Trung Quốc - vì sách cũng dựa vào Bát Quái,
Thập Can, Ngũ Hành, Tam Kì, Các việc muốn cầu hỏi được xếp làm 18 điều (8 quái + 10 can)
đánh số từ 1 đến 18
Người bói chọn 1 trong 18 điều để xem quẻ bói, rồi lấy hai đồng tiền (tiền xưa gọi là trinh, hay
tiền nay gọi là đồng xu) gắn vào đĩa hay khay để xem sấp hay ngửa. Đều ngửa cả là Dương, tức
Thiên. Nếu sấp cả thì Âm, tức Địa. Nếu một sấp một ngửa, là vừa âm vừa dương, tức Nhâm.
Sau khi đã có những Tam tài, chọn một trong 5 chữ Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Kết hợp chữ
đầu về 8 quái và 10 can, rồi hiệp với Tam tài và Ngũ hành sẽ có 4 bảng tra số mục để tìm câu
ứng với nghiệm ( ). Toàn sách bói này chỉ có 54 x 5 = 270 câu lục bát (tức là 540 hàng) cho
270 số mục. Tức là chỉ sử dụng 1/7 văn bản.
Tuy nhiên, cách bói này đòi hỏi sự cầu kỳ, phức tạp nên không còn nhiều người sử dụng.
Cách bói Kiều theo dân gian: Đây là cách bói đơn giản, trực tiếp qua các đoạn thơ, không phải
dựa vào các yếu tố bên ngoài .
Thứ nhất, lấy một cuốn sách có in đầy đủ văn bản Truyện Kiều, bằng chữ Nôm, hoặc chữ quốc
ngữ đều được.
Thứ hai, quyết định muốn xin một quẻ bói về vấn đề gì đang quan tâm, thắc mắc, hoặc hồ nghi
và muốn được tư vấn tất cả mọi việc đều có thể hỏi, càng chi tiết càng cụ thể càng tốt, và chỉ một
việc mà thôi.
14
Thứ ba, ngồi ngay ngắn trước bàn, có thể thắp nhang hoặc trầm cho thêm phần trang nghiêm.
Khấn 3 câu: “Lạy vua Từ Hải /Lạy vãi Giác Duyên/Lạy tiên Thuý Kiều”.
Thứ tư, xưng họ tên, tuổi, và ngày tháng năm xin quẻ bói cũng như vấn đề muốn xem. Việc xưng

này có thể thành tiếng, hoặc âm thầm trong lòng chỉ mình hay biết.
Thứ năm, chọn trước một tay làm chuẩn, tay mặt hay tay trái đều được, nhưng phải chọn trước
một tay.
Thứ sáu, định thần, an tĩnh sau một vài phút cầm sách, và dùng hai ngón tay cái mở cuốn sách ra.
Thứ bảy, ngón tay cái của bàn tay phải hoặc trái (đã chọn được) mở ngay vào trang nào và hàng
nào thì lấy từ đó xuống đủ 4 hàng làm quẻ bói. Mỗi quẻ bói phải bắt đầu bằng câu lục và kết thúc
bằng câu bát.
Thứ tám, quẻ bói gồm 4 hàng (tức 2 cặp lục bát) đó sẽ là nội dung của lời tư vấn cho vấn đề đang
muốn hỏi.
Mỗi người trong hoàn cảnh của mình sẽ thấy giải pháp trong đó. Nếu không rõ lắm thì có thể
nhờ người khác giúp phần cắt nghĩa đoạn văn và áp dụng vào trường hợp cụ thể của mình.
Người càng có trình độ, càng từng trải, vì càng có công phu và đạo đức thì càng đáng tin cậy
trong việc giúp làm sáng tỏ ý nghĩa của quẻ bói, không nhất thiết là người phải có bằng cấp hoặc
địa vị cao trong xã hội.
Cách giải nghĩa và áp dụng đoạn văn lấy làm quẻ bói hoàn toàn độc lập với nội dung, cốt truyện
và tình tiết của Truyện Kiều.
Bói Kiều chỉ nên thực hiện khi còn hoang mang, hoài nghi, chưa quyết đinh về một việc, vấn đề
gì đó. Bởi đây, như thế là thêm vào cái như nhau kia, chúng ta có thêm một lời khuyên, một sự
soi sáng của thiên tài văn học Nguyễn Du và áng thơ bất hủ của dân tộc, khiến cho cán cân
không còn tương đương nữa, mà có bên nặng bên nhẹ. Còn khi đã quyết định thì không nên bói.
d/ Tập Kiều, lẩy Kiều
Tập Kiều là gì? Lược trích trong cuốn “Thú chơi tập Kiều – Phạm Đan Quế”
Trong các lối chơi văn học của người xưa thì ngoài việc ngâm vịnh thơ phú, Truyện Kiều
còn đem đến cho các bậc văn nhân thức giả một thú chơi vô cùng hấp dẫn và tao nhã, đó là
tập Kiều. Vậy Tập Kiều là gì? Đó là lựa chọn một số câu Kiều - ở những chỗ khác nhau trong
3.254 câu của Truyện Kiều – nối vần lại được với nhau, tình ý nhất quán để tạo được thành một
bài thơ mới có ý nghĩa, theo một chủ đề nhất định. Người ta đã làm rất nhiều bài tập Kiều như
vậy. Trước hết chúng tôi xin giới thiệu ở đây hai thí dụ. chẳng hạn, sau bao năm tháng trôi qua,
đến khi tóc đã ngả màu sương, ta mới có dịp trở lại quê nhà thăm người bạn cũ và ta đọc tặng
người bạn cố tri mấy câu tập Kiều trong tình cảnh ấy:

Trăm năm trong cõi người ta (câu 1)
15
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa (câu 2744)
Quản bao tháng đợi, năm chờ (câu 553)
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao (câu 3014)
Những là rày ước, mai ao (câu 3069)
Như nung gan sắt, như bào lòng son (câu 2832)
Dẫu cho sông cạn đá mòn (câu số 1975)
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay ( câu 324)
Đến bây giờ mới thấy đây ! (câu 2281)

Hoặc mừng bạn làm lễ cưới cho con trai, ta đọc:

Mừng nào lại quá mừng này (2994)
Duyên Vân sớm đã xe dây cho chàng (2840)
Thưa rằng đáng giá nghìn vàng (645)
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha (2428)
Huệ lan sực nức một nhà (1471)
Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu (1967)
Hai bên ý hợp tâm đầu ! (2205)

Những tập Kiều như vậy có thể dài hay ngắn là tùy theo yêu cầu cụ thể và thường có ba mức :
− Từng câu Kiều trong toan bài đểu được giữ nguyên như trong văn bản truyện Kiều;
− Trong một số câu, có thể ngắt bớt một số chữ, đảo lại một câu, hay đổi một cụm từ nhưng
để thay vào đó cũng phải là cụm từ của một câu Kiều Khác;
− Mức độ cuối cùng là có thể thay đổi một số chữ trong các câu Kiều để thay vào bằng
những chữ không có trong Truyện Kiều.

Bài tập Kiều của Nguyễn Bính
Nói đến tập Kiều, cũng cần kể đến bài tập Kiều năm 1965 của Nguyễn Bính và cái chết đột ngột

đến bất ngờ của nhà thơ, theo đoạn kết của Chu Văn trong “Lời bạt - Tuyển tập thơ Nguyễn
Bính” như sau:

“… Chuẩn bị số báo tết Nguyên Đán đầu năm Bính Ngọ ấy, chúng tôi cũng dành rất nhiều bài
báo về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Hôm duyệt báo tết, Nguyễn Bính khỏe, tươi, tay thủ một tập
giấy mỏng. Anh khoe: Trong một đêm đã viết được một bài tập Kiều vịnh cụ Tiên Điền. Anh
không cho ai xem, chờ lúc ra hội đồng đủ mặt mới trịnh trọng giở trang giấy viết công phu – chữ
đẹp như xếp rồi hắng giọng ngâm nga:
Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều
Cảo thơm lần dở trước đèn
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Mấy lời ký chú đinh ninh
Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương
Khen rằng: Giá lợp Thịnh Đường
16
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai
Ngẫm âu người ấy báu này
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Nặng vì chút nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Thương vui bởi tại lòng này
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Tưởng Người nên lại thấy Người về đây.
Cả hội đồng duyệt bài số báo tết hôm ấy cùng lặng đi. Một bài tập Kiều thật hay. Nhưng nghe
ra…đây tuy đề là tặng cụ Tiên Điền mà sao cứ như tâm sự của Nguyễn Bính, tổng kết cái cuộc

đời tài hoa long đong, lận đận và những câu sau cùng sao mà nó sái quá: Một lời là một vận vào
khó nghe…
Nguyễn Bính cười trừ:
- Các ông này mê tín! Cứ hay là được rồi. Tôi xin nộp bài này. Một câu một chữ cũng không sửa.
Câu chuyện qua đi…và mọi người chuẩn bị cho một cái tết bận rộn…riêng Nguyễn Bính, muốn
tạo một xuân tha hương nữa, lại chọn ngày giáp tết đến nhà người bạn, bị một luồng gió lạnh,
ông rùng mình thổ huyết và ngất xỉu. Gia đình chủ nhà hết lòng chạy chữa nhưng không kịp nữa
rồi…
Tân thanh đáo để vị thùy dương *
(Tân thanh sau hết ngậm ngùi vì ai)
Nguyễn Bính mất ngay ngày hôm đó tức là 30 tết (20 tháng 1 năm 1966) khi sắp bước sang tuổi
49.”
Một câu chuyện khác: Chúng ta đều biết truyện Kiều tuy là tác phẩm đề cập một vài mảnh đời riêng, nhưng có
sức cảm thông và phổ cập đến mọi hạng người. Trong cuộc đời đầy bất trắc, dường như ai ai cũng thấy một vài câu
thơ trong truyện Kiều nói lên thân phận mình.
Như hoàn cảnh đưa đẩy phải làm một việc liều lĩnh, biết mai kia ra làm sao, người trong cuộc đành chép miệng:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem con tạo xoay vần đến đâu.
Hoặc số phận hẩm hiu, bước trầm luân không dứt, kẻ xấu số đành an ủi:
Phận bèo bao quản nước sa,
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Nói về đường ứng dụng của truyện Kiều thì muôn màu muôn vẻ. Chuyện kể một anh nhà nông đang cày ruộng,
gặp ông thầy đồ đi trên đường, bèn dừng lại nói:
“Thầy hay ngâm Kiều, tôi đố thầy đọc một câu Kiều, mà có thể sai khiến con bò của tôi được.”
Ông thầy đồ thấy khó lắc đầu, anh nhà nông bèn đằng hắng, ngâm câu thơ:
“Nàng rằng" Phận gái chữ tòng,
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi.”
Anh đọc to chữ đi, nên con bò theo lệnh cất bước kéo cày. Bắt bò dừng lại, nhà nông ta thường thét “hò”. Lần
này anh nhà nông đọc trại chữ “họ” thành “hò” trong câu thơ:
Họ [hò] Từ, tên Hải vốn người Việt Đông,

Thì con bò lại ngoan ngoãn dừng lại.
Về mặt văn chương, có rất nhiều thơ, văn, câu đối theo thể tập Kiều, lẩy Kiều ra đời. Tập Kiều là chắp nối nhiều
câu nguyên văn rải rác trong chuyện Kiều, làm nên một công trình mới có vần, để diễn tả theo ý mình. Lẩy Kiều là
sửa chữa hay thay đổi một vài chữ trong câu Kiều, nhằm diễn đạt một đề tài. Làm một bài thơ tập Kiều không quá
khó, chỉ cần thuộc chuyện Kiều, khéo léo chọn lựa những câu hợp vần mà diễn tả. Câu đối gay hơn, vì chuyện Kiều
theo thể lục bát, cước vận [vần cuối câu] và yêu vận [vần giữa câu] đều dùng âm bằng; đối liễn có hai vế đối nhau
theo luật bằng trắc, nên người làm cần phải giỏi lẩy Kiều, để rút ra những phần thích hợp. Đến như làm bài phú vừa
tập Kiều, vừa lẩy Kiều lại là một tác phẩm dài hơi hơn cả thơ và câu đối.
17
Bài phú chúng tôi giới thiệu dưới đây, nhan đề là Phú Thuốc Phiện, dài trên 70 câu, sử dụng có đến hàng trăm
câu Kiều, tác giả là cụ Trúc Đình Lê Hữu Nghiêm, tự Lê Khoan Hoàng. Cụ là nhà Nho triều Nguyễn, quê tại Nghệ
Tĩnh, đồng thời với cụ Phan Bội Châu; một số thơ văn của cụ trước đây được đăng trên tạp chí Nam Phong, chúng
tôi đã từng giới thiệu bài văn điếu cô đào Mộng Duyên của cụ. Bài phú này được giới Nho sĩ đương thời ca tụng vì
lời đẹp, ý sâu; tập Kiều và lẩy Kiều đắc thể.
Về lịch sử, Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều mất vào năm Minh Mệnh nguyên niên [1820], nha phiến được người
Anh buôn lậu vào Trung Quốc sau đó, và đã xẩy ra cuộc Chiến Tranh Nha Phiến vào năm [1840]; vậy rõ ràng đời cụ
Nguyễn Du chưa hề biết đến nha phiến. Nhưng kỳ lạ thay, qua truyện Kiều, những lời tình tự thiết tha giữa Thúy
Kiều và Thúy Vân trong buổi biệt ly:
Mai sau dầu có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Được cụ Trúc Đình, dùng một cách tài tình thích hợp, đượm vẻ Liêu Trai, trong câu mở đầu của bài Phú Thuốc
Phiện như sau:
Rũ bức rèm châu,
Đốt lò hương cũ.
Còn thoang thoảng trầm,
Thấy hiu hiu gió.
Ai cũng biết cơn đam mê của thuốc phiện rất mạnh; vậy còn sự diễn tả nào đắc thể hơn là mượn sự say mê
Thúy Kiều của hai kẻ si tình Thúc Sinh và Kim Trọng (1) gộp lại, để tạo thành hai câu đối ngẩu trong bài phú:

Thanh khí một dây một buộc ai giằng cho ra,
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ khiến người ngồi đó.
Đến cảnh vướng vào nghiện ngập, mê mẫn như con thiêu thân; được tác giả cực tả qua lối vay mượn truyện
Kiều những văn ảnh đam mê nhục dục và tình ái :
Đuốc hoa để đó nàng nằm, cho mê mẫn đời cho lăn lóc đá.
Hương lửa sẵn đây ta đốt, càng quen thuộc nết càng dan díu tình. (2)
Thêm vào, phải kể đến kỹ thuật chơi chữ trong bài phú đạt đến trình độ cao, tác giả sử dụng khéo léo các từ về
đong lường “phân, lượng" trong nguyên văn truyện Kiều:
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường đã bớt vài bốn phân.
Hoặc:
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Để biến thành những thành ngữ nhà nghề trong tiệm hút như “vài phân thuốc”, “hương yên”, "ba trăm lạng
bạc”, “khách khứa xôn xao”:
Được một vài phân, hương khói một nhà thức nức,
Có ba trăm lạng, yến anh ngoài cửa xôn xao.
Cuối bài, với tổng luận về định mệnh khắt khe trong đoạn kết truyện Kiều:
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Được tác giả an ủi thêm rằng, việc này chỉ xẩy ra trong thời nô lệ “Cá chậu chim lồng”, và khuyến khích nghị lực
con người rán “Dìn ngọc giữ vàng, về sau còn nhiều hưởng thụ”:
Cho thanh cao thời thanh cao mới được,
Bắt phong trần phải phong trần như ai.
Ai ơi! Dìn ngọc giữ vàng, về sau còn nhiều hưởng thụ,
Bỏ chi chim lồng cá chậu, làng chơi chưa dễ mấy người.
Xét cho cùng, những lời của người giới thiệu cũng chỉ là rườm rà, không đáng có; mong được độc giả trực tiếp
thưởng thức giá trị văn chương, qua nguyên văn tác phẩm Phú Thuốc Phiện dưới đây:
PHÚ THUỐC PHIỆN
(Thể tập Kiều, lẩy Kiều)

Rũ bức rèm châu,
Đốt lò hương cũ.
Còn thoang thoảng trầm,
Thấy hiu hiu gió.
Thanh khí một dây một buộc ai giằng cho ra,
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ khiến người ngồi đó.
Mấy cành phù dung,
Trăm năm trong cõi.
Lạc suối Đào Nguyên đâu đến, giá càng gieo, phẩm càng cao,
Mua ở Bắc Kinh đưa về, ngàn cũng qua, sông cũng lội.
18
Một đời anh hùng được mấy, hể thấy thời mê,
Đã lòng quân tử đa mang, được lời như cởi.
Đặt giường thất bảo,
Khép cửa phòng thu.
Khi tựa gối,
Khi cúi đầu.
Liền tay ngắm nghía chốn nằm, thay đen đổi trắng,
Ngọn đèn hiu hắt trong lò, nhả ngọc phun châu.
Dập dìu tài tử giai nhân, đèn khuya chung bóng,
Đua nhau vương tôn quí khách, tơ liễu buông mành.
Đuốc hoa để đó nàng nằm, cho mê mẫn đời cho lăn lóc đá.
Hương lửa sẵn đây ta đốt, càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
Ngoài ngàn dặm,
Chốc ba đông.
Hương càng đượm,
Lửa càng nồng.
Tiễn đưa một chén quan hà, gọi là gặp gỡ,
Há nợ ba sinh hương lửa, chốc để lạnh lùng.
Trướng loan hiu hắt, Đồng Tước một nền xuân tỏa,

Tay tiên dìu dặt, Lam Điền hạt ngọc ấm đông.
Buộc lấy mình vào,
Gắn bó tất giao.
Thầm mong trộm nhớ,
Rày ước mai ao.
Được một vài phân, hương khói một nhà thức nức,
Có ba trăm lạng, yến anh ngoài cửa xôn xao.
Mái Tây để lạnh hương nguyền, mai dàu giọt tuyết, gương lờ nước thủy,
Song the trông chừng khói ngất, lá màn rũ thấp, ngọn đèn khêu cao.
Gái sắc tài trai,
Mấy mặt làng chơi.
Ngày xanh mòn mỏi,
Má hồng phôi pha,
Từ khi hơi tiếng vừa quen một ngày nặng một,
Đến lúc phong trần rất mực, mười phân vẹn mười.
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da;
bây giờ lạt phấn phai hương, mười phần xuân có gầy ba bốn,
Thao lược gồm tài, côn quyền hơn sức; khi đà
xương mòn thịt nát, chín chục thiều quang ngoài sáu mươi.
Những kẻ hàm én mày ngài, ba sinh cho phỉ
mười nguyền, rồi cũng nợ nần mang lấy,
Những người buôn hùm bán hổ, trăm năm đổ
không một trận, bao nhiêu vốn liếng đi đời.
Não nùng thu ba,
Vắn dài châu sa.
Rằng quen mất nết,
Biết gỡ cho ra!
Chơi cho liễu chán hoa chê, rõ mặt bây giờ rồi sẽ!
Làm cho xiêu đình đổ quán, đoạn trường lúc ấy dở mà!
Có giở bài bây, đến cơ hội này,

Dại rồi còn biết khôn làm sao đây?
Đã tu tu trót qua thì thôi, xin chớ rày lần mai lữa,
Họa dần dần bớt chút nào được, nghe ra ngậm đắng nuốt cay.
Khi hương sớm,
Khi trà trưa.
Bàn vây điểm nước,
Họa đàn đường tơ.
Bầu tiên rót rượu,
Câu thần nối thơ.
Những thấy truy hoan trong cuộc, thức thức sẵn bày,
Làm chi đeo thói khuynh thành, khăng khăng mình buộc.
Mà gầy như mai,
Mà vàng như trúc.
19
Mà cau đôi mày,
Mà vò chín khúc.
Tiếc chi đến hương, thương chi đến ngọc, đem tình cầm sắt đổi ra kỳ,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn, nát thân bồ liễu đền nghì trúc.
Gẫm cơ hội ngộ, mua vui cũng được vài canh,
Dại nết chơi bời, đau đớn trãi qua một cuộc.
Nghĩ rằng:
Trăm năm tính cuộc,
Muôn sự tại trời.
Cho thanh cao thời thanh cao mới được,
Bắt phong trần phải phong trần như ai.
Ai ơi! Dìn ngọc giữ vàng, về sau còn nhiều hưởng thụ,
Bỏ chi chim lồng cá chậu, làng chơi chưa dễ mấy người.
Trúc Đình Lê Hữu Nghiêm ( tự Lê Khoan Hoàng)
e/ Đông Tảo thì vừa họa kiều vừa tập Kiều.
Kiều nhi vốn một cân quốc sắc

Vận nhà suy lược vắt trâm cài
Thương thay cho một chữ tài
Chỉ vì chữ hiếu chịu đày thanh lâu
Lần thứ nhất mày râu nhẵn nhụi
Để thân nàng vướng bụi trần ai
Hỡi ôi con tạo lá lay
Vì đâu nên nỗi đắng cay thế này?
Rũ sắc hương thanh lâu đày ải
Vòng quẩn quanh lại cải thanh y
Kiều nhi ơi bởi cớ chi
Hồng nhan ghen ghét còn gì là thân?
Giữa thư các phong vân mù mịt
Cô thân nàng ngắm bóng tịch dương
Thôi thì cũng đăng an khương
Ngờ đâu sóng gió nhiễu nhương giăng đầy
Một lần nữa sa lầy ca kỹ
Lại một lần mỹ nữ thanh lâu
Giữa nơi vọng gác cao lầu
Mong chi tiếng nhạc được hầu tri âm
Nào ai hiểu cung âm sao trước
Cũng mong chi gặp được nhân tâm
Nhưng sao nàng lại ôm cầm
"Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai."
Đông Tảo
*Các bạn mỗi người viết một phần tiểu luận về cách
ứng xử trong “Truyện Kiều” nhé! Nhóm mình chọn
“Truyện Kiều với những ứng xử trong đời sống vợ
chồng”, bài tiểu luận gồm những mục sau:
1/ Ứng xử vợ chồng trong quan niệm truyền thống
20

(chị Nga viết)
2/ Các mối quan hệ vợ chồng trong “Truyện Kiều của
Nguyễn Du”: Tú Bà- Mã giám sinh (Thu Hải viết)
Kiều- Thúc Sinh
Kiều- Hoạn Thư
Kiều- Bạc Hạnh
Kiều- Từ Hải
Vân- Kim Trọng

21

×