Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Nguyên nhân yếu kém của nền giáo dục Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.13 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Căn cứ lựa chọn chuyên đề:
Tôi chọn “Nguyên nhân yếu kém của nền giáo dục Việt Nam hiện nay” làm
nội dung nghiên cứu của chuyên đề dựa trên những căn cứ sau:
1. Tính cấp thiết.
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI đã khẳng định:
“Chất lượng giáo dục và đào tạo nhìn chung còn thấp, nhất là đào tạo đại học và
dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đào tạo
chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực. Công tác quản lý còn nhiều bất
cập”. Nước ta cần phải thay đổi căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo để đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu xác
định những nguyên nhân yếu kém của nền giáo dục Việt Nam đang là yêu cầu cấp
thiết hơn bao giờ hết.
2. Tình hình nghiên cứu.
Đây là vấn đề nóng trong các hội thảo khoa học và các diễn đàn lớn ở nước
ta. Có rất nhiều nghiên cứu, nhận xét, đánh giá về nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém
trong giáo dục nhưng chưa thẳng thắn nhìn vào vấn đề, dẫn đến những giải pháp
bất hợp lý. Hướng giải quyết thường đi vào hậu quả chứ không triệt để khắc phục
nguyên nhân làm nền giáo dục Việt Nam yếu kém. Kết quả tất nhiên cũng chỉ mang
tính hình thức, bên cạnh đó còn gây lãng phí lớn cho ngân sách.
3. Tính khả thi.
Tuy là một sinh viên hạn chế về mặt kiến thức, chưa được tiếp xúc với
những mô hình giáo dục danh tiếng trên thế giới. Nhưng bù lại, cá nhân người viết
chuyên đề được đào tạo bởi nền giáo dục Việt Nam trên dưới 20 năm. Khoảng thời
gian này nằm trọn trong giai đoạn đổi mới của đất nước từ năm 1986 cho đến nay.
Như vậy là khá đủ để có một cái nhìn trực quan về nền giáo dục Việt Nam hiện nay
cùng những nguyên nhân yếu kém của nó.
1
Với phương pháp khoa học đã được thầy, cô giáo truyền đạt ở trường, tri
thức đúc rút từ lý luận và thực tiễn cùng quan điểm thẳng thắn, không dài dòng tôi


tin rằng chuyên đề này sẽ có tính đúng đắn cao nhằm góp phần xây dựng thành
công đề án thay đổi căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo tinh thần Hội
nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
2. Đối tượng, mục đích và ý nghĩa nghiên cứu.
1. Đối tượng: Những mặt yếu kém và nguyên nhân yếu kém của nền giáo
dục Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích: Xác định nguyên nhân yếu kém của nền giáo dục Việt Nam để
định hướng xây dựng thành công đề án thay đổi căn bản và toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo tinh thần Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI.
3. Ý nghĩa: Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đáp ứng được yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để nền giáo dục Việt Nam thực sự là động lực phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề này có sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin
- Phương pháp logic
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
2
4. Bố cục chuyên đề
Phần 1: MỞ ĐẦU
Phần 2: NỘI DUNG
Chương I: Nhận thức chung
Chương II: Nguyên nhân yếu kém của nền giáo dục Việt Nam
- Nguyên nhân khách quan
- Nguyên nhân chủ quan
Chương III: Một số giải pháp định hướng cho nền giáo dục Việt Nam.
Phần 3: KẾT LUẬN
3
NỘI DUNG

Chương I: Nhận thức chung
1.1 Định nghĩa giáo dục
Theo từ điển tiếng việt: Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo đức, những
tri thức cần thiết về tự nhiên, xã hội để hình thành các kỹ năng sống và làm việc.
Chiết tự: Giáo có nghĩa chỉ bày, nâng đỡ. Dục là mong muốn trưởng thành.
Do đó, giáo dục là hoạt động chỉ dạy để con người trưởng thành.
Lịch sử đã cho thấy. Mỗi một xã hội có tính độc lập đều tự hình thành cho nó
một nền giáo dục để đào tạo ra lớp người kế cận nhằm duy trì sự phát triển của xã
hội đó. Vậy nên, mọi nền giáo dục đều mang tính chính trị trong nó và đặc trưng
bởi triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo,

Tóm lại có thể hiểu: giáo dục là hoạt động hướng dẫn, chỉ dạy có mục đích
nhằm hình thành khả năng thích nghi với môi trường sống, môi trường làm việc
cho con người.
1.2 Nền giáo dục Việt Nam
Nền giáo dục Việt Nam là một hệ thống thống nhất giữa cơ sở hạ tầng phục
vụ cho giáo dục và kiến trúc thượng tầng tương ứng. Được hình thành do nhu cầu
giáo dục nhân cách và đào tạo nhân lực cho xã hội. Cụ thể hơn, nền giáo dục Việt
Nam bao gồm toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục như: trường học, viện
nghiên cứu,…; các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục: Vụ, Cục, Sở, Viện,
trung tâm,…; các quan điểm, triết lý, mục tiêu giáo dục,…
Cơ quan chính của nền giáo dục Việt Nam là Bộ giáo dục và đào tạo, nằm
dưới quyền quản lý và điều hành của Chính phủ. Với nhiều đơn vị đào tạo từ cấp
mầm non đến cao đẳng, đại học và sau đại học. Nền giáo dục Việt Nam hiện nay
4
được nhiều cá nhân và tổ chức trong lẫn ngoài nước đánh giá là kém hiệu quả.
Thậm chí còn là gánh nặng cho nền kinh tế khi nguồn nhân lực đào tạo ra không
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém
này sẽ được trình bày cụ thể ở Chương II.

5
Chương II: Nguyên nhân yếu kém của nền giáo dục Việt Nam
2.1 Nguyên nhân khách quan
2.1.1 Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ không hợp lý dẫn đến kìm
hãm sự phát triển của nhân tài.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc trong hệ thống lý luận của Chủ nghĩa
Marx – Lenin, đảm bảo cho những quyết định của tập thể luôn tuân theo nguyện
vọng của số đông tránh tình trạng chuyên quyền, độc đoán. Ở Việt nam hiện nay,
nguyên tắc này được vận dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực như: xây dựng đảng,
quản lý nhà nước và quá trình vận hành của một số tổ chức khác trong xã hội,…
Tuy nhiên, nguyên tắc tập trung dân chủ đã không được nhận thức đúng đắn dẫn
đến sự áp dụng không hợp lý trong thực tiễn. Nó tạo ra một lực lượng lớn những
con người có nhận thức bảo thủ, chậm tiến. Số người này đang là rào cản cho sự
phát triển của đất nước nói chung và nền giáo dục nói riêng.
Dễ thấy một điều, số lượng người nhận thức vấn đề ở mức trung bình (có khả
năng ghi nhớ về mặt lý luận và thực hiện theo khuôn mẫu) chiếm số lượng lớn.
Những người có khả năng nhận thức vấn đề ở mức độ cao (có khả năng nhận nhận
thức được bản chất của vấn đề để từ đó tìm ra những giải pháp hiệu quả nhất cho
vấn đề) chiếm số lượng rất nhỏ - họ là những nhân tài. Trong cuộc sống, số người
nhận thức được vấn đề ở mức độ trung bình có thể ví như những viên đá tốt còn số
người nhận thức vấn đề ở mức độ cao (nhân tài) có thể ví như những thỏi vàng
(hình minh họa):
6
Quyết định của một tổ chức hay tập thể ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong
phạm vi nhà nước hầu hết phải tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Ý kiến của
những người có mức độ nhận thức cao thường có tính khả thi hơn số còn lại. Nếu
tất cả cùng hiểu và nhất trí theo những ý kiến sáng suốt nhất thì vấn đề sẽ không
nảy sinh. Mâu thuẫn bắt đầu xuất hiện khi ý kiến đúng của số ít nhân tài đối đầu với
ý kiến của số đông. Nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng. Tất cả các cá nhân
trong tổ chức được đánh đồng, chỉ xét số lượng chứ không xét về nội dung, tính

khả thi, kinh phí, hiệu quả có thể mang lại của từng giải pháp, Kết quả tất nhiên
nghiêng về số đông (hình minh họa):
7
Nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng không hợp lý dẫn đến tình trạng
kìm hãm nhân tài. Những ý kiến đi ngược với số đông có thể bị quy là đối lập. Câu
chuyện về đồng chí Kim Ngọc, cố Bí thư tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc về biện pháp
khoán đất cho nhân dân để thúc đẩy sản xuất là một ví dụ. Tư tưởng mới, đúng đắn,
sáng tạo, có tính khả thi cao nhưng lại đi ngược với nhận thức của số đông thời bấy
giờ nên ông đã bị phê phán. Nguyên tắc tập trung dân chủ không được áp dụng hợp
lý còn làm nảy sinh bệnh thành tích, bệnh cào bằng, tư duy tiểu nông (tư duy tiểu
nông không xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp manh mún mà xuất phát từ sự sợ
hãi số đông), Mọi người dần quan niệm “xấu đều còn hơn tốt lỏi”. Lực lượng
nhận thức Chủ nghĩa Marx – Lenin theo hướng bảo thủ, giáo điều có điều kiện
thuận lợi để tăng lên nhanh chóng về số lượng.
Vì số đông có sức mạnh như vậy nên nhiều nhóm người kết bè, kéo cánh để
tạo nên số đông thân tín từ đó chiếm lấy quyền quyết định từ tập thể, tạo lợi ích bất
chính từ lợi ích chung. Để làm được điều đó, họ cần màng che không minh bạch
trong hoạt động tuyển dụng nhân sự. Nạn con ông cháu cha đã được rất nhiều báo
đài nhắc đến với chiều hướng không thuyên giảm. Nếu không có quan hệ thân tín
thì người xin việc phải trả cái giá bằng tiền. Theo báo giáo dục và thời đại, “Tại kì
họp HĐND thành phố Hà Nội vào tháng 1 năm 2013, ông Trần Trọng Dực, chủ
nhiệm Ủy ban kiểm tra Thành ủy Hà Nội đã công bố “mức giá sàn” để có cơ hội trở
thành công chức thủ đô không dưới 100 triệu đồng”. Nếu không có tiền hoặc mối
quan hệ thì vấn đề xin việc rất nan giải, không chỉ riêng đối với khu vực Hà Nội mà
còn nhiều tỉnh thành khác.
Những nhóm người nói trên còn tiếp tục tạo ra những màng che không minh
bạch khác như: không minh bạch trong tài chính công, không minh bạch trong hoạt
động quản lý. Không minh bạch trong nền tài chính công tạo điều kiện để tham
nhũng, không minh bạch trong hoạt động quản lý để hạch sách nhân dân (nảy sinh
nạn phong bì trong công việc). Gần đây, những nhóm người này đã lộ diện với cái

8
tên “Nhóm lợi ích” như lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc đến trong phát
biểu kết thúc hội nghị lần thứ 3 BCH Trung ương Đảng khóa XI.
Số đông những người nhận thức vấn đề theo khuynh hướng bảo thủ đã thành
công trong việc giữ vững nền tư tưởng cho con đường đưa đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội nhưng họ đang là một rào cản to lớn đối với tiến trình phát triển của
đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn coi trọng hiền tài, Người từng nhắc
nhiều lần câu nói của tiến sĩ Thân Nhân Trung thời Vua Lê Thánh Tông – “Hiền tài
quốc gia chi nguyên khí”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy một vị tướng tài
trong người giáo viên dạy Lịch sử - Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Người giáo viên
dạy sử đó đã lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam dành thắng lợi vẻ vang trong
chiến dịch Điện biên phủ năm 1954, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Bác
không quan trọng nhân tài có phải Đảng viên hay không, Bác chỉ cần biết người đó
có yêu nước, thương dân hay không? Có làm việc được hay không? Nhà giáo
Nguyễn Văn Huyên Bộ trưởng Bộ quốc gia giáo dục – là Bộ giáo dục và đào tạo
hiện nay, tuy không phải Đảng viên nhưng ông đã cống hiến hết tài năng và công
sức của mình cho nền giáo dục Việt Nam trong suốt gần 30 năm từ khi bắt đầu
nhận trọng trách đến khi ông trút hơi thở cuối cùng. Động lực khiến ông không từ
chức đó là lời động viên của Bác Hồ: “Chú đã làm việc rất tốt, điều đó chứng tỏ
không phải cứ phải là đảng viên thì mới làm việc hiệu quả. Vấn đề cốt yếu là có tư
tưởng yêu nước thương dân, có phương pháp làm việc đúng, nhiệt tình và công tác
tích cực thì sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chú có đủ những yếu tố đó, vì vậy Bác
khuyên chú cứ tiếp tục giữ trọng trách mà Chính phủ giao. Đây cũng là chú làm
việc vì dân vì nước”. Do biết trọng dụng người tài và phát huy được năng lực của
họ trong công việc nên dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh nước ta liên
tiếp giành được những thắng lợi to lớn về mọi mặt.
Hiện nay, nhân tài đang không được trọng dụng đúng mức. Người tài muốn
giúp sức cho đất nước nhưng cơ chế không thông thoáng. Tình trạng cán bộ, lãnh
9

đạo kém năng lực phổ biến. Đất nước đang bị chảy máu chất xám từng ngày. Đây
là một lỗi hệ thống không dễ khắc phục. Muốn giải quyết được lại phải nhờ vào
chính số đông hùng hậu nhất, đó là nhân dân.
Theo quy luật về lượng và chất trong hệ thống lý luận Chủ nghĩa Marx –
Lenin thì:

Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ
nhất định, sẽ chuyển hóa thành sự khác nhau về chất.

Sự kém hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan nhà nước tác động liên tục, từng
ít một vào đời sống của nhân dân ở mọi lĩnh vực. Tới một ngưỡng nhất định, khi
cái ăn, cái mặc của nhân dân trực tiếp bị ảnh hưởng thì yêu cầu nâng cao chất lượng
cán bộ trong bộ máy nhà nước, mở rộng cánh cửa thu hút nhân tài không chỉ còn là
khẩu hiệu cần thực hiện mà sẽ trở thành sức ép thật sự.
Trên đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự yếu kém trong nhiều lĩnh vực ở
Việt Nam. Giáo dục cũng nằm trong số đó. Tiêu cực trong tuyển dụng nhân sự
khiến cho cánh cổng thu hút nhân tài vào bộ máy giáo dục bị bóp nghẹt. Áp dụng
không hợp lý nguyên tắc tập trung dân chủ làm cho người tài không có điều kiện để
phát triển. Hệ quả là bệnh thành tích, bệnh cào bằng và gian lận trong giáo dục…
Để tăng tính khách quan cho chứng minh trên, hãy nhìn sang một số nền giáo
dục phát triển. Trước tiên cần thấy rằng những nước phát triển về kinh tế xã hội thì
nền giáo dục cũng phát triển, ví dụ như: Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Singapore,… Và
quan trọng hơn, tất cả những nước này đều có chính sách thu hút, lựa chọn và sử
dụng nhân tài hợp lý, có hiệu quả.
Singapore là một minh chứng rõ ràng nhất cho sự phát triển thần kì nhờ
chính sách thu hút nhân tài. Sau khi tách khỏi Malaysia năm 1965, Singapore đã
gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị. Nhưng với chính sách thu hút nhân tài
cả người trong nước lẫn người nước ngoài, Singapore đã nhanh chóng trở thành
một nước phát triển vào cuối thế kỉ 20. Giờ đây, đời sống kinh tế xã hội của
10

Singapore nói chung và nền giáo dục nói riêng đều đứng ở vị trí cao trong bảng xếp
hạng của thế giới.
Với những căn cứ thực tiễn cùng lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin, tôi đã
chứng minh ở mức độ khái quát rằng: “Áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ
không hợp lý dẫn đến kìm hãm sự phát triển của nhân tài” là nguyên nhân sâu xa từ
phía khách quan dẫn đến sự yếu kém của nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
2.1.2 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có những
tiêu chí phát triển rõ ràng khiến hệ thống giáo dục không thể đáp ứng yêu cầu
về nhân lực cho mô hình kinh tế mới.
Yêu cầu phát triển về kinh tế sẽ quy định phương hướng phát triển cụ thể cho
nền giáo dục, đặc biệt là hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất. Phải biết
nền kinh tế cần gì thì nền giáo dục mới có thể đào tạo ra những con người với
những khả năng phù hợp để phát triển nền kinh tế đó. Hiện nay Việt Nam đang xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta
chưa có nhận thức rõ ràng, cụ thể và đầy đủ về mô hình kinh tế này mà chỉ giải
thích những nguyên lý chung nhất rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng
tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên
nhân do mô hình kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế hoàn
toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Vì nền kinh tế còn chưa xác định được mục
tiêu phát triển cụ thể nên nền giáo dục cũng gặp phải những khó khăn nhất định
trong hoạt động đào tạo nguồn lực cho sản xuất. Khả năng định hướng nghề nghiệp
và điều tiết nguồn nhân lực của nền giáo dục hiện nay rất hạn chế. Tình trạng thừa,
thiếu nhân lực trong nhiều lĩnh vực đã và đang dần phổ biến. Đây cũng là một
nguyên nhân khách quan dẫn đến sự yếu kém trong nền giáo dục Việt Nam hiện
nay.
11
2.2 Nguyên nhân chủ quan
2.2.1 Bộ máy giáo dục không liên kết chặt chẽ với xã hội.
Xã hội Việt Nam cần ở con người những tiêu chí cơ bản sau:

Thứ nhất, khả năng sống: Mỗi cá nhân sinh ra cần có mục đích sống và
những kỹ năng sống cơ bản để có thể tồn tại trong môi trường.
Thứ hai, những chuẩn mực cơ bản: Mỗi xã hội có những chuẩn mực cơ bản
riêng cần được tuân theo và dĩ nhiên xã hội cần ở con người những chuẩn mực này.
Ví dụ: hiếu, lễ với cha, mẹ, ông, bà. Yêu quý đồng bào, dân tộc. Nhận thức về
chân, thiện, mỹ,…
Thứ ba, yêu cầu về tư tưởng chính trị: Là yêu cầu từ tổ chức cao nhất trong
xã hội – hệ thống chính trị. Nhằm xây dựng một hệ tư tưởng nhất định, đảm bảo sự
tồn tại và duy trì hoạt động bình thường cho hệ thống chính trị đó.
Thứ tư, hiểu và tuân thủ pháp luật: Con người sống trong xã hội có pháp luật
thì phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật – điều kiện bắt buộc để ổn định
xã hội.
Xã hội là bên đưa ra các yêu cầu về giáo dục và nền giáo dục phải đáp ứng
theo những yêu cầu đó. Nhưng nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang quá chú trọng
vào tiêu chí thứ 2 và 3. Những kỹ năng sống và kiến thức về pháp luật không được
phổ cập. Yêu cầu về tư tưởng chính trị trong giáo dục được đặt ra cao nhưng ít có ý
nghĩa thực tiễn. Chúng ra giảng dạy rất nhiều về lý luận Chủ nghĩa Marx – Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, về lịch sử oanh liệt, về tương lai tươi đẹp của chủ nghĩa xã
hội, Những thành tựu đó rất đáng tự hào, tương lai đó rất đáng để vươn tới.
Nhưng hiện tại chúng ta đang đứng ở đâu so với các nước trên thế giới? Những thế
lực nào chống phá nhà nước Việt Nam? Những thế lực nào có thể giúp đỡ Việt
Nam? Trước tình hình đó cần phải làm gì để Việt Nam đuổi kịp các nước phát triển
mang lại cuộc sống văn minh, giàu đẹp cho nhân dân? thì nền giáo dục hiện nay
lại ít nhắc tới. Đây dường như là một chủ đề cấm bàn luận trong môi trường giáo
dục, đặc biệt đối với giới trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước.
12
Mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục được đề ra bởi nhà nước và bộ giáo
dục. Số đông các cá nhân còn lại trong xã hội không có tầm ảnh hưởng tới các
quyết định của nền giáo dục mặc dù họ trực tiếp là người học hoặc những tổ chức
cần con người sau đào tạo. Vậy xã hội có thực sự cần ở con người những tiêu chí

mà nền giáo dục hiện nay đặt ra hay không? Thực tế đã cho thấy các chương trình
đào tạo hiện nay ở Việt Nam tuy đồ sộ nhưng không mang lại hiệu quả.
Các chuyên gia về giáo dục đã đánh giá chương trình học ở bậc phổ thông
của nền giáo dục Việt Nam nặng hơn nhiều so với những nước phát triển trên thế
giới. Học sinh cấp 1 đã phải học thêm đủ các môn như: toán, văn, anh, hát, múa,
đàn,… Môi trường để trẻ em phát triển bình thường bị thu hẹp. Học sinh phổ thông
bị ảnh hưởng cả về thể chất lẫn tinh thần. Bệnh trầm cảm, tự kỷ và cận thị học
đường của học sinh đang là mối lo ngại của phụ huynh, nhà trường và xã hội.
Chương trình học nặng không thể hiện sự vượt trội về giáo dục khi lượng kiến thức
đó tỏ ra không cần thiết. Chúng ta đạt được nhiều giải cao trong các cuộc thi quốc
tế về toán, lý, hóa,… nhưng những điều làm được trong thực tiễn lại không hề
tương xứng.
Để thấy số lượng kiến thức không thuận biến với chất lượng giáo dục, tôi xin
đưa ra trích dẫn từ một bài báo so sánh nền giáo dục Mỹ và nền giáo dục Trung
Quốc như sau:
“Động lực đằng sau một cường quốc kinh tế là gì? Rốt cục họ đã có một
nền giáo dục như thế nào? Những người làm cha làm mẹ, làm cô, làm thầy sẽ
cảm nhận bài học thấm thía từ câu chuyện vẻn vẹn trong một trang báo mà
không hề nhỏ này.
Những tiêu chuẩn “dễ ợt” của nền giáo dục Mỹ
13
Tốt nghiệp mẫu giáo: Có thể nhận biết và phân biệt con số, có thể biểu đạt
khái niệm toán học trừu tượng bằng những vật thể cụ thể như hòn sỏi, mẩu giấy,
cái que…;
Nhận biết bảng chữ cái, phân biệt nguyên âm và phụ âm; phân biệt được các
ngành nghề khác nhau đại ý làm những gì, ví dụ như bác sĩ, giáo viên, người đưa
thư, cảnh sát, cảnh sát phòng cháy chữa cháy… hiểu được quá trình diễn biến của
cuộc đời sinh vật, bao gồm sinh, lão, bệnh, tử của con người, sâu biến thành bướm,
…;
Điều kiện để được vào lớp 1: Có thể đếm từ 1 đến 100, có

thể đếm số có hai chữ số hoặc thế nào là bội số của 5, biết
số lẻ và số chẵn, biết phép cộng trừ đơn giản
Học địa lý từ địa cầu, bản đồ; hiểu được rằng trên trái đất có rất nhiều cư
dân, rất nhiều quốc gia và những màu da khác nhau, hiểu được rằng người cần ở
trong nhà, trẻ em cần đến trường, người trưởng thành cần đi làm…
Lớp 1: Có thể đếm từ 1 đến 100, có thể đếm số có hai chữ số hoặc thế nào là
bội số của 5, biết số lẻ và số chẵn, biết phép cộng trừ đơn giản; học cách quan sát,
chia ngành phân loại đối với những sự vật và vật phẩm khác nhau;
14
Có thể lấy dẫn chứng về quá trình diễn biến của sự sống, hiểu được quan hệ
sống tương trợ giữa động thực vật trong thiên nhiên; học sử dụng tranh ảnh để
biểu đạt ý; hiểu tính tất yếu của việc mặc, ăn, ở và mái ấm gia đình; hiểu rõ quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình, giữa những người làng xóm. 
Lớp 2: Biết đọc, viết số có ba chữ số, từ năm số tùy ý chọn, có thể đếm xuôi
hoặc đếm ngược; vận dụng thành thạo phép cộng trừ đối với số có hai chữ số, biết
dùng những đơn vị đo lường như inch (tấc Anh) hoặc centimet để đo độ dài, biết
xem đồng hồ;
Đọc sách, duy trì đều đặn việc viết (nhận xét, bình luận) sau khi đọc sách,
học cách viết tổng kết, hiểu và phân biệt được những hình thức văn học khác nhau
như: thơ, tản văn, tiểu thuyết, truyện ký…,
Biết được sự khác nhau giữa tác phẩm hư cấu và tác phẩm phi hư cấu; bắt đầu học
nghiên cứu độc lập về động vật, ví dụ như vấn đề sinh thái của côn trùng…
Lớp 3: Học được cách biến tư liệu thành biểu đồ; biết so sánh sự lớn nhỏ và
cộng trừ trong phạm vi 100.000, thành thạo phép cộng, trừ, nhân, chia đối với số
có ba chữ số; có thể lấy những tài liệu tại chỗ trong môi trường xung quanh, sưu
tập, tổ chức tài liệu, hiểu được cách giữ gìn sức khỏe của con người, hiểu rõ quá
trình diễn biến cuộc đời của những động vật nhỏ như:
Ếch, bướm, gà con, chuột bạch…; hiểu cách sử dụng từ điển; có thể hiểu tư
tưởng của những tác phẩm và các nhà văn, họa sĩ mình yêu thích biểu đạt, hiểu
được các tác phẩm văn học trong các bối cảnh văn hóa khác nhau.

Lớp 4: Dùng máy tính để tính toán những con số rất lớn, so sánh lớn nhỏ
trong phạm vi 1.000.000, học số thập phân và phân số, vẽ biểu đồ; có thể giải thích
sự khác nhau của khí hậu giữa các vùng đất trên thế giới nhờ bản đồ, hình ảnh,
biểu đồ; thông qua việc đọc, hiểu thêm một bước về những thể loại văn học khác
nhau, ví dụ như tác phẩm khoa học viễn tưởng, truyện ký,…
Lớp 5: Biết điền, đọc các loại bảng biểu, thành thạo các phép tính cộng, trừ,
nhân, chia phân số; có thể vận dụng hệ thống thư viện và các tư liệu để tiến hành
15
nghiên cứu; tiến hành so sánh và tổng hợp các loại tin tức thông qua việc viết bút
ký; bắt đầu tự viết những bài văn dạng tả thật (phi hư cấu) và những đoản văn theo
thể thức năm đoạn;
Học được cách viết chính thức, không chính thức và cách viết thư cho bạn
bè; hiểu việc chia ngành phân loại những sách báo khác nhau, có thể nắm được
nội dung chủ yếu của một cuốn sách, đồng thời tiến hành bình luận về cấu tứ, bối
cảnh, cách xây dựng nhân vật, phương thức biểu đạt, nghệ thuật ngôn ngữ.
“Hỏng bét”?
Nhìn vào những tiêu chuẩn trên, có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ có cảm
giác rằng, một học sinh học lớp 5, chuẩn bị tốt nghiệp tiểu học mà yêu cầu về năng
lực toán học chỉ là biết cộng, trừ, nhân, chia, thì trình độ… thấp quá.
Có thể thấy, người Mỹ coi trọng nền tảng làm người, quan niệm này đã được
bồi đắp từ nhỏ. Cơ sở mà học sinh ở Mỹ cần tạo dựng là ý thức tự tin, thành thực,
lương thiện, công bằng, bao dung và độc lập tự chủ để làm người, cũng có nghĩa
là, ngay từ nhỏ, họ đã học được giá trị cơ bản của văn hóa Mỹ, chứ không phải là
tri thức để phục vụ giá trị cơ bản này.  
Trước đây và ngay cả hiện nay, vẫn còn không ít cha mẹ người châu Á, đặc
biệt là người gốc Hoa ở Mỹ cho rằng giáo dục trung tiểu học ở Mỹ là “hỏng bét”,
mà nhiều nhất trong số đó không ai khác chính là những giáo viên trung tiểu học ở
Trung Quốc.
Cái mà họ đắc ý là những học sinh đứng đầu trong danh sách đoạt giải
thưởng toán quốc tế hàng năm luôn là những học sinh Trung Quốc, giáo dục trung

tiểu học ở Mỹ không thể so sánh được với Trung Quốc.
Có lần, trên một tờ báo tiếng Hoa ở Mỹ còn có một bài viết mang tên: “So
về toán học, Mỹ chỉ có thể được coi là nước đang phát triển”.  
“Độ khó” trong bài tập của học sinh tiểu học Mỹ
16
Một người cha gốc Hoa đưa cậu con trai chín tuổi tới Mỹ, cho con vào học
một ngôi trường ở Mỹ thì trong lòng lo lắng vô cùng, không hiểu đó là trường học
kiểu gì!
Trong lớp học sinh tự do tùy ý thảo luận, có thể cười ầm ĩ; giáo viên và học
sinh thường xuyên cùng ngồi bệt trên mặt đất không phân biệt lớn bé; vào giờ học
mà cứ như đang chơi trò chơi; Ba giờ chiều đã là tan học; lại không có sách giáo
khoa thống nhất.
Ông đem cho giáo viên xem bài học tiểu học lớp 4 mà con ông đã học ở
Trung Quốc, giáo viên nói với ông, cho tới lớp 6, con trai ông không phải học thêm
môn toán nữa. Lúc đó, ông bắt đầu hối hận vì đem con đến Mỹ mà làm lỡ việc học
của con.
Ở Trung Quốc, cặp sách của học sinh nặng trịch những tri thức, còn nhìn
con mình bây giờ, mỗi ngày mang cái cặp nhẹ tênh đến trường, đi học như đi chơi.
Một học kỳ nháy mắt đã hết, ông không khỏi nghĩ ngợi, hỏi con, ấn tượng sâu sắc
nhất khi đến Mỹ học là gì? Cậu bé đáp: “Tự do ạ!”. 
Lại một bận, cứ tan học, đứa trẻ lại chạy tới thư viện rồi mang một lô sách
về nhà, thế mà chưa tới hai ngày đã trả. Ông lại hỏi, mượn sách nhiều như thế để
làm gì? Con trai đáp: “Dạ. Để con làm bài tập.”.
Sau đó, ông nhìn thấy tên bài tập mà cậu bé đang làm trên máy vi tính
“Trung Quốc hôm qua và hôm nay”, ông kinh ngạc suýt ngất, đây là chủ đề môn
học gì vậy? Thử hỏi vị nào đang làm tiến sĩ dám “ôm” đề tài lớn như thế?
Ông chất vấn con trai, đây là chủ ý của ai, cậu bé hồn nhiên đáp: “Thầy
giáo nói, Mỹ là một nước di dân, mỗi học sinh đều cần viết một bài về đất nước mà
tổ tiên mình đã sinh sống, còn phải phân tích sự khác biệt so với nước Mỹ dựa trên
địa lý, lịch sử, nhân văn, đồng thời phải đưa ra quan điểm và cách nhìn của mình”.

Người cha im lặng.
17
Mấy ngày sau, ông thấy bài tập của con trai đã xong, một tập gồm hơn 20
trang giấy, từ Hoàng Hà chín khúc đến văn tự tượng hình; từ con đường tơ lụa tới
lá cờ ngũ tinh…
Cả bài văn được viết với một khí thế hào hùng, có lý lẽ, có căn cứ, phân
chương phân tiết, đặc biệt là một danh sách thư mục tham khảo ở phần cuối khiến
người cha không khỏi bàng hoàng, cái cách thức của một luận văn tiến sĩ này,
ngoài ba mươi tuổi ông mới học được.
Đến khi sắp kết thúc học kỳ lớp 6 của con, ông lại được một phen cứng lưỡi,
giáo viên đưa ra một loạt câu hỏi liên quan đến “Chiến tranh thế giới thứ hai”,
nghe như một kỳ huấn luyện trước khi ứng cử của một thượng nghị sĩ tương lai:
“Bạn cho rằng ai nên chịu trách nhiệm đối với cuộc chiến tranh này?”
“Theo bạn, nguyên nhân thất bại của đảng Nazi (Đức) là gì?”
“Nếu bạn là cố vấn cao cấp của tổng thống Truman, bạn sẽ tỏ thái độ gì đối với
việc Mỹ ném bom nguyên tử?”
“Bạn có cho rằng, biện pháp tốt nhất để kết thúc chiến tranh khi đó chỉ là ném
bom nguyên tử?”
“Theo bạn, cách tốt nhất để tránh chiến tranh ngày nay là gì?”
Lịch sử nước Mỹ mới chỉ có vẻn vẹn 200 năm, nhưng đã đủ sức mở cánh cửa trí tuệ
của các em học sinh.
Sự khác biệt:
Người cha này vẫn nhớ rằng khi con trai ông tốt nghiệp tiểu học, cậu bé đã
có thể sử dụng thành thạo hệ thống máy vi tính và vi phim của thư viện để tra cứu
tư liệu và hình ảnh.
Có lần, hai bố con tranh luận về tập tính săn mồi của sư tử và báo, ngày
hôm sau, cậu con trai mượn từ thư viện tập phim về động vật của Hội Địa lý quốc
gia Hoa Kỳ, hai cha con vừa xem vừa thảo luận.
18
Học sinh tiểu học của Mỹ lúc này đã học được phương pháp tìm đáp án ở

đâu mỗi khi có nghi vấn. Ngoài thư viện, học sinh trung tiểu học ở Mỹ cũng tìm tài
liệu trên các trang web liên quan khi làm bài tập và một số báo cáo nghiên cứu.
Lưu học sinh Trung Quốc tới Mỹ làm tiến sĩ, từ lúc vào học tới lúc tốt
nghiệp, giành được học vị tiến sĩ cần năm năm.
Trong viện nghiên cứu sinh, rất nhiều người có cảm giác rằng người Mỹ
thường không phải là đối thủ của lưu học sinh Trung Quốc trong chuyện thi lấy
học bổng, nhưng cứ đụng tới lĩnh vực thực tiễn, làm một vài vấn đề có tính nghiên
cứu, thì người Trung Quốc không thể linh hoạt được bằng người Mỹ, không có tính
sáng tạo dồi dào như họ.
Tới khi cầm được bằng tiến sĩ để đi tìm việc, viết sơ yếu lý lịch, họ lại lạc
hậu một bước lớn, không biết tự quảng bá cho bản thân mình. Không thể “viết về
bản thân mình” không phải vì họ không biết, mà là vì không có đủ bản lĩnh để thể
hiện cái “tôi” của mình.
Đương nhiên, điều này có liên quan tới sự bất đồng giữa giáo dục và toàn
bộ hệ thống giáo dục cơ sở. Người Trung Quốc chỉ quen phát huy bản lĩnh trong
một khung quy định nào đó.
Một khi không còn quy định, mất đi sự chỉ đạo, không nhìn thấy hệ thống
quy chiếu vốn có nữa, thì với người Mỹ là giành được tự do, còn với người Trung
Quốc, có lẽ chỉ còn lại cảm giác mất phương hướng, khủng hoảng, trống rỗng,
không biết dựa vào đâu.
Khi đã công tác được năm năm, mười năm, thực tế ấy lại càng rõ ràng hơn.
Người Trung Quốc thường chỉ có thể làm kỹ thuật, cùng lắm là lên quản lý một bộ
phận kỹ thuật nào đó, dường như không mấy ai làm được giám đốc công ty lớn.
Người Trung Quốc không phục những ông chủ không giỏi về kỹ thuật và
thường băn khoăn: bản lĩnh của họ rốt cục nằm ở đâu?
Bản lĩnh đó là: hiểu được sở trường của từng thành viên trong công ty, giúp
họ phát huy tận lực sở trường của mình, nhân viên và công ty cùng hợp tác, nâng
19
cao giá trị của công ty mình trong mắt nhà đầu tư và khách hàng, không ngừng thu
hút thêm vốn đầu tư và tăng thêm đầu ra cho sản phẩm…

Hiển nhiên, đây là tác phẩm của một ông chủ, chứ không phải của một công
nhân.”
Nguồn: Chuyên trang Phụ nữ & Đời sống (phunutoday.vn) của báo điện tử
nguoiduatin.vn
Bài báo đã cho thấy chất lượng con người được đào tạo ra bởi một nền giáo
dục không tỉ lệ thuận với số lượng kiến thức mà nền giáo dục đó bơm vào đầu học
sinh, sinh viên. Quan trọng hơn là học sinh, sinh viên vận dụng được những gì từ
những kiến thức được giảng dạy trong nhà trường vào thực tiễn. Muốn vậy phải
biết học sinh, sinh viên cần gì, xã hội cần gì, chứ không chỉ nhất nhất quan tâm đến
tổ chức cần gì và cấp trên cần gì.
Lên bậc học cao hơn, học sinh, sinh viên được học cách ca ngợi lịch sử, ca
ngợi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước một cách quá mức, đâu đâu
cũng có khẩu hiệu rực rỡ, nói rất hay rất tốt,… nhưng thực tế không đẹp như lời nói
hay khẩu hiệu. Đảng và Nhà Nước không mong muốn đào tạo ra những con người
chỉ biết nói mà không biết làm. Phải chăng đây là chủ ý của những cá nhân kém
năng lực. Để rồi trở thành một cái lệ không rõ hình thành từ khi nào?
Để phân tích và làm rõ nguyên nhân này cần xét cơ chế đưa ra mục tiêu,
phương hướng và chương trình giáo dục: Cơ quan đầu não đề ra mục tiêu, phương
hướng và chương trình giáo dục là Bộ giáo dục và đào tạo. Hiện nay, bộ giáo dục
và đào tạo chỉ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chính phủ, vai trò của người học và đơn
vị cần nhân lực trong những quyết định về giáo dục không được thể hiện rõ. Ảnh
hưởng từ bộ máy nhà nước lớn hơn ảnh hưởng từ phía thực tiễn. Các yêu cầu về
chính trị vì thế cũng đặt lên học sinh, sinh viên nặng hơn các yêu cầu khác từ xã
hội. Các kỹ năng mềm cần thiết trong cuộc sống không được đưa vào giảng dạy.
Nền giáo dục hiện nay đang cần: hình thức, số lượng để đảm bảo chỉ tiêu, đảm bảo
thể diện, đảm bảo vị trí ảo trong các cuộc thống kê mà không hề quan tâm tới
20
những tiếng nói khẩn thiết từ phía xã hội, doanh nghiệp, từ những người làm bố,
làm mẹ, từ những thầy cô tâm huyết, từ chính những học sinh, sinh viên đang phải
học trong môi trường giáo dục kém hiệu quả. Những quyết định từ trong phòng kín

không thể làm cho nền giáo dục hiện nay khả quan hơn.
Thực tế này đang ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nhiều thế hệ con
người ở Việt Nam, đặc biệt là trẻ thơ. Tâm lý học đã chỉ ra rằng, sự phát triển
không bình thường trong tâm lý của trẻ nhỏ có thể gây ra nhiều lệch lạc trong nhân
cách khi chúng lớn lên. Một loạt hậu quả là: tỉ lệ tội phạm gia tăng, con người
không năng động, dễ mắc các bệnh về tâm lý, Bệnh cào bằng và chạy theo thành
tích trong giáo dục còn khiến học sinh, sinh viên quên đi ước mơ, hoài bão. Mất đi
nhiệt huyết của tuổi trẻ, không nhận thức đúng giá trị của bản thân.
Tóm lại, xã hội không cần đào tạo ra những con người để mang ra thi thố. Và
xã hội cũng không cần những con người nịnh hót hay ngủ quên trong chiến thắng.
Đừng chỉ nói hay, hãy nhìn thực tế và bắt tay vào làm việc. Điều xã hội thực sự cần
là những con người phát triển bình thường, có khả năng sống và làm việc, được
thoải mái cả về thể chất lẫn tinh thần. Sự liên kết không chặt chẽ giữa bộ máy giáo
dục (đơn vị thực hiện) và xã hội (đơn vị yêu cầu) là một trong những nguyên nhân
gây ra thực trạng yếu kém của nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Đi sau nó còn vô
số hậu quả cần khắc phục.
21
2.2.2 Bộ máy giáo dục không liên kết chặt chẽ với đơn vị cần nhân lực.
Một nền giáo dục hiệu quả sẽ là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế. Nền
giáo dục như vậy được thể hiện bằng sơ đồ sau:
Bất kì mô hình giáo dục nào có sự kết hợp chặt chẽ với đơn vị cần nhân lực
hoặc vừa kết hợp hoạt động giáo dục với việc sử dụng nhân lực ngay trong khoảng
thời gian đào tạo đều có những thành quả vượt trội. Tại đây, người học có thể vừa
học vừa làm. Đơn vị giáo dục chỉ yêu cầu ở người học những tiêu chí đủ để họ có
thể hiểu và áp dụng vào công việc trong điều kiện thực tiễn. Sau khi ra trường, học
viên có thể trực tiếp làm việc cho đơn vị đào tạo hoặc các đơn vị cần nhân lực khác
22
trong xã hội. Như vậy, nguồn lực về con người không bị lãng phí trong thời gian
đào tạo. Và trên hết, đơn vị giáo dục khi đồng nhất với đơn vị sử dụng nhân lực sẽ
biết chính xác phải giảng dạy gì để đào tạo ra những con người có khả năng làm

việc hiệu quả. Bởi chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo liên quan trực tiếp đến
lợi ích kinh tế và danh tiếng của đơn vị đào tạo nên không cho phép sự dư thừa hay
thiếu hụt kiến thức trong chương trình đào tạo. Hiệu quả giáo dục vì thế cũng được
nâng cao.
Đại học Harvard là một trong những mô hình giáo dục như thế. Harvard là
một trường đại học tư thục, được xây dựng tại thành phố Cambridge,
Massachusetts, Hoa Kỳ và là một thành viên của Ivy League. Thành lập ngày 8
tháng 9 năm 1936. Harvard còn là tập đoàn đầu tiên ở Bắc Mỹ. Đây là trường đại
học thường xuyên có mặt ở hoặc ở gần vị trí đứng đầu trong các bảng xếp hạng
giáo dục đại học quốc tế. Harvard là tổ chức có nguồn cung ứng tài chính lớn thứ
hai (sau Quỹ Bill & Melinda Gates) với khoảng 28,8 tỉ USD/năm (số liệu vào năm
2008).
Ở Việt Nam, một trong những trường đại học hiếm hoi đi theo hướng phát
triển này là đại học FPT. Trường Đại học FPT, do Tập đoàn FPT đầu tư 100% vốn,
trở thành trường đại học đầu tiên do một doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam.
Trường được thành lập vào tháng 9/2006 theo Quyết định số 208/2006/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ. Từ bước đặt nền móng đầu tiên, đại học FPT đã đặt cho
mình sứ mệnh xây dựng mô hình trường Đại học thế hệ mới, có triết lý giáo dục
hiện đại, gắn liền đào tạo với thực tiễn cuộc sống và nhu cầu nhân lực của đất nước.
Sinh viên được đào tạo theo yêu cầu khắt khe để đáp ứng được nhu cầu thực tế của
thị trường lao động trong nước và quốc tế. Thành công của mô hình giáo dục theo
hướng phối hợp chặt chẽ với đơn vị tuyển dụng nhân lực được thể hiện ngay trong
thực tiễn. Thống kê với 3 khóa sinh viên đầu tiên tốt nghiệp của Đại học FPT thì
100% các sinh viên có việc làm hoặc tiếp tục học lên cao. Nhiều sinh viên đã có
23
mức thu nhập khởi điểm trên 10 triệu đồng/tháng, đặc biệt có trường hợp thu nhập
trên 20 triệu đồng/tháng. Đây cũng là ngôi trường trong ba năm trở lại đây liên tiếp
nhận được nhiều giải thưởng quan trọng của ngành CNTT như Giải thưởng ICT
Award, giải thưởng Sao Khuê dành cho dịch vụ đào tạo CNTT chính quy và phi
chính quy xuất sắc nhất. Nhiều sinh viên của trường cũng đã đạt được các giải

thưởng cao trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế như giải Siêu cúp - giải thưởng danh
giá nhất trong cuộc thi Olympic Tin học sinh viên toàn quốc, giải Nhì Imagine Cup
của Microsoft, chiếm giữ 3 quả cầu vàng CNTT Việt Nam, hay giành vị trí dẫn đầu
các trường đại học Việt Nam trong kỳ thi Lập trình sinh viên quốc tế ACM-ICPC
khu vực Châu Á năm 2011.
Bên cạnh đó, một số trường kết hợp việc học lý thuyết và thực hành ngay
trong điều kiện thực tế cũng mang lại những thành tựu nhất định. Ví như trường
Đại học Y Hà Nội, Trường Đại học Y Hà Nội là trường đại học y khoa hàng đầu và
lâu đời nhất của Việt Nam còn hoạt động. Trường đã được trao tặng Huân chương
Sao Vàng nhân dịp kỷ niệm 105 năm ngày thành lập trường vào ngày 14 tháng
11 năm 2007, là một trong 15 trường đại học trọng điểm quốc gia. Từ kì 2 năm thứ
3 sinh viên được tiếp xúc với bệnh nhân, xem và giúp đỡ các bác sĩ cứu chữa bệnh
nhân tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Bạch Mai,
bệnh viện Xanh Pôn, Viện Huyết Học,… Vừa học xong lý thuyết trên giảng đường,
sinh viên có thể kiểm chứng ngay trong thực tế. Do vậy, sinh viên khi ra trường đáp
ứng được những yêu cầu cần thiết đối với một bác sĩ về mặt chuyên môn.
Đa số những trường đại học, cao đẳng và trung cấp nghề còn lại ở Việt Nam
chưa có mối liên hệ chặt chẽ với các đơn vị cần nhân lực trong lĩnh vực đào tạo.
Đây là một nguyên chủ quan xuất phát từ nội tại của hệ thống giáo dục dẫn đến sự
yếu kém của nền giáo dục Việt Nam như hiện nay (hình minh họa):
24
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương bình - Xã hội, tỷ lệ sinh viên ra
trường làm trái ngành, trái nghề đang chiếm khoảng 60%. Hiện tại, cả nước chỉ có
20/98 trường Đại học khi sinh viên ra trường có việc làm đúng ngành đào tạo. Điều
đó cho thấy, sinh viên ra trường làm trái ngành, trái nghề là rất phổ biến và đáng
được quan tâm. Đó là chưa kể đến, nhiều sinh viên nhận ra rằng ngành nghề theo
học không phù hợp suy nghĩ mà họ đã chọn ban đầu, dẫn đến hàng loạt sinh viên
chọn con đường trái ngành để phát triển tương lai. Làm trái ngành cũng đồng nghĩa
với việc học lại hoặc học thêm, gây ra lãng phí không hề nhỏ cho xã hội.
Việt Nam được xếp vào những nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới.

Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) số người thất nghiệp ở Việt Nam chiếm gần
1 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong 9 tháng năm 2012 là khoảng
2,17% trong khi tỷ lệ thất nghiệp trung bình trên thế giới là khoảng 6%. Tỷ lệ lao
động trẻ từ 15 – 24 tuổi thất nghiệp chiếm 46,8% tổng số người thất nghiệp. Tuy có
25

×