Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc khmer tỉnh an giang từ nay đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.1 KB, 28 trang )

HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình cộng cư với người Kinh (người Việt), Chăm, Hoa, người
Khmer đồng bằng sông Cửu Long nói chung và người Khmer An Giang nói
riêng đã sớm hình thành một nền văn hóa phát triển, tạo nên bản sắc văn hóa của
tộc người mình, góp phần làm đa dạng trong một thể thống nhất của bản sắc văn
hóa Việt Nam. Chính sách của Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đời sống
của đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ sớm hòa nhập và sống hòa thuận với
cộng đồng người Việt. Mặt khác, vẫn tôn trọng những gì thuộc về truyền thống
của đồng bào dân tộc thiểu số.
Người Khmer An Giang sống tập trung chủ yếu ở 02 huyện Tịnh Biên và
Tri Tôn, còn lại sống rải rác ở các huyện Châu Thành, Châu Phú, Thoại Sơn.
Mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong dân số toàn tỉnh nhưng đồng bào dân tộc
Khmer có một nền văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng đa dạng, phong phú.
Tuy nhiên do sống ở vùng núi, sản xuất nông nghiệp là chính, lại phụ thuộc vào
thiên nhiên, tập quán canh tác lạc hậu nên đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn;
trình độ dân trí thấp, bị chi phối bởi tôn giáo, các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng
vừa chịu ảnh hưởng của đồng bào Kinh, vừa chịu ảnh hưởng từ phía Campuchia
tạo ra sự giao thoa độc đáo nhưng cũng rất phức tạp, hụt hẩng và thiếu thốn…
Do đó, trong giai đoạn phát triển của đất nước hiện nay, làm sao để văn hóa dân
tộc Khmer vừa hòa mình vào cái chung của nền văn hóa Việt Nam mà vẫn giữ
được nét riêng, đặc sắc của dân tộc mình. Từ những suy nghĩ trên, tác giả chọn
đề tài nghiên cứu của mình là: “ Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy
văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang từ
nay đến năm 2015”.
2. Giới hạn của đề tài
Khảo sát thực trạng bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể và phi vật thể của
đồng bào dân tộc Khmer An Giang chủ yếu ở 02 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn từ
năm 2008 đến năm 2013, trên cơ sở đó, tác giả đề ra một số kiến nghị và giải


HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 2
pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy văn hóa vật
thể và phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer An Giang từ nay nay đến năm
2015.
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng bảo tồn các loại hình văn hóa của đồng
bào dân tộc Khmer như các lễ hội dân gian, loại hình nghệ thuật, ngành nghề
truyền thống dân tộc, những kết quả đạt được và hạn chế, khó khăn trong chính
sách bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Khmer và đề ra các mục
tiêu, giải pháp khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả thực hiện.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả đã vận dụng lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác-Lênin làm cơ sở nghiên cứu và phương pháp duy vật lịch sử.
Đồng thời sử dụng các phương pháp lịch sử-logic, phương pháp thống kê,
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích tổng hợp và những phương pháp
khác có liên quan phục vụ trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài.
4. Kết cấu tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận tiểu luận gồm 3 chương:
CHƢƠNG 1: Những vấn đề lý luận chưng về văn hóa và bảo tồn văn hóa
CHƢƠNG 2: Thực trạng công tác bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể, phi
vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang từ năm 2008 đến năm 2013.
CHƢƠNG 3: Mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn,
phát huy văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang
từ nay đến năm 2015





HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67

GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 3
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA
VÀ BẢO TỒN VĂN HÓA.
1.1 Một số khái niệm về văn hóa và bảo tồn.
1.1.1 Khái niệm văn hóa.
Đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, tùy thuộc vào những
không gian, thời gian khác nhau và những tác giả khác nhau. Điều này đã dẫn
đến việc có quá nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa được đề cập đến ở cả
phương Đông lẫn phương Tây.
Trong quyển “Nhân chủng học Văn hóa”, giáo sư Richley H.Crapo cho
rằng, hai nhà khoa học Mỹ A.L.Krober và Kluckhôn đã khảo sát 158 định nghĩa
về văn hóa. Năm 1967, Abraham Moles, nhà Văn hóa học Pháp cho rằng, có
250 định nghĩa về văn hóa. Nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa Từ Hồng Hưng
cho rằng, có đến “hàng nghìn định nghĩa về văn hóa” [19;10].
Nhà ngôn ngữ học người Đức W.Wundt cho rằng: Văn hóa là một từ có
căn gốc Latinh: Colere, sau trở thành Cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng. Từ
nét nghĩ này về sau dẫn đến nghĩa rộng hơn là sự hoàn thiện, vun trồng tinh
thần, trí tuệ. Thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên, nhà hùng biện thời La Mã
Cicéron có câu nói nổi tiếng: “Triết học là văn hóa tinh thần” [9;13]. Quay sang
phương Đông, ở Trung Quốc, từ văn hóa đã xuất hiện trong đời sống ngôn ngữ
ở thời Tây Hán (206 trước Công nguyên - 220 sau Công nguyên), hai từ văn và
hóa đã được kết hợp lại thành văn hóa, và nhìn chung có hàm nghĩa: Dung, Thi,
Thư, Lễ, Nhạc, điển chương, chế độ… để giáo hóa dân chúng. [9;14].
Cùng với thời gian, hàm nghĩa văn hóa không ngừng đươc mở rộng
nhưng “văn hóa là gì?” vẫn là một vấn đề luôn được đặt ra để đón nhận những
lời giải đáp ngày càng thấu đáo và đầy đủ hơn. Những năm thập niên cuối cùng
của thế kỉ XX, vấn đề văn hóa được quan tâm, được xem là yếu tố có vị trí quan
trọng để vừa bảo tồn dân tộc, vừa phát triển dân tộc. Tại lễ phát động Thập kỉ

HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 4
thế giới phát triển văn hóa tổ chức tại Paris ngày 21/1/1988, Tổng giám đốc
UNESCO Federico Mayor lại đưa ra định nghĩa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện
một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra
trong quá khứ và cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ, nó
đã cấu thành nên hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà
dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [13;22].
Bên cạnh đó, trong các bộ Từ điển bách khoa và các từ điển chuyên ngành
của các nước, từ văn hóa cũng có một vị trí xứng đáng với những lời giải thích
khá đầy đủ và sâu sắc: “Văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn
ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mĩ… những hiểu biết kĩ thuật cũng như toàn bộ việc
tổ chức môi trường con người… những công cụ, nhà ở… và nói chung toàn bộ
công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và ứng xử của một
nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó…” (Bách khoa toàn thư Pháp)
[6;35].
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện rất lâu trong ngôn ngữ Hán, du nhập vào
Việt Nam từ hơn 2000 năm trước [1;10]. Cho đến nay có rất nhiều khái niệm
khác nhau được các giáo sư, các nhà văn hóa học Việt Nam nêu lên. P. Giáo Sư,
Viện sĩ Trần Ngọc Thêm cũng đưa ra khái niệm về văn hóa: “Văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [14;10]. Theo ông, văn hóa có bốn đặc trưng cơ bản:
tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh.
- Khái niệm Văn hóa vật thể:
Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời sống
tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng
tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ vật có giá trị
sử dụng và thẫm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người.
Văn hóa vật thể quan tâm nhiều đến chất lượng và đặc điểm của đối tượng

thiên nhiên, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu tự nhiên
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 5
thông qua sáng tạo của con người biến thành những sản phẩm vật chất giúp cho
cuộc sống của con người
Trong VHVT, người ta sử dụng nhiều kiểu phương tiện, tài nguyên, năng
lượng, dụng cụ lao đọng, công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng sinh sống của con
người, phương tiện giao thông, truyền thồng, nhà cửa, công trình xây dựng phục
vụ nhu cầu ăn ở, ; làm việc và giải trí, các phương tiện tiêu khiển, tiêu dùng, mối
quan hệ kinh tế Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đều là kết quả lao động của
con người.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm các sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử,
khoa học bao gồm các di tích lịch sử văn hóa, danh lam, thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật
- Khái niệm Văn hóa phi vật thể:
Văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu
đạt, tri thức, kỷ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật khác và các
không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng và các nhóm và trong một số
trường hợp cá nhân công nhân là một phần di sản văn hóa của họ.
Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật
thể được cộng đồng, các nhóm không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường
và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng tự nhiện và lịch sử của họ, đồng thời
hình thành trong ý thức họ về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn
trọng đối với sự đa dạng văn hóa những sáng tạo của con người.
Di sản văn hóa phi vật thể: gồm
a) Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;
b) Ngữ văn dân gian (sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố,
truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt
khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết).
c) Nghệ thuật trình diễn dân gian (âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các

hình thức trình diễn dân gian khác).
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 6
d) Tập quán xã hội (luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và
các phong tục khác).
đ) Lễ hội truyền thống;
e) Nghề thủ công truyền thống;
f) Tri thức dân gian, bao gồm: tri thức về thiên nhiên, đời sống con người, lao
động sản xuất, y, dược học cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác.
1.1.2 Khái niệm bảo tồn di sản văn hóa:
Theo định nghĩa của IUCN (1991): “Bảo tồn là sự quản lý, sử dụng của con
người về sinh quyển nhằm thu được lợi nhuận bền vững cho thế hệ hiện tại trong
khi vẫn duy trì tiềm năng để đáp ứng những yêu cầu và nguyện vọng của thế hệ
tương lai”.
Di sản văn hóa là các sản phẩm, các giá trị văn hóa do các thế hệ trước sáng
tạo và truyền lại cho các thế hệ sau, bao gồm các di sản vật thể và phi vật thể (di
sản tinh thần). Di sản văn hóa có tác dụng: gắn kết cộng đồng dân tộc; tạo nên
bản sắc văn hóa dân tộc; cơ sở để sáng tạo các giá trị mới; cơ sở để giao lưu văn
hóa với các cộng đồng khác.
Bảo tồn các di sản văn hóa là một hoạt động nhằm mục đích lưu giữ , bảo
vệ các di sản văn hóa đang có nguy cơ biến mất vì lý do này hay lý do khác. Bảo
tồn bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như việc điều tra, nghiên cứu, bảo quản,
tu bổ, phục dựng. Bảo tồn được coi là một lĩnh vực khoa học chuyên ngành với
những yêu cầu về kỹ năng riêng biệt. Bên cạnh đó việc bảo tồn các di sản văn
hóa vật thể phải tuân thủ các nguyên tắc về việc trùng tu, tôn tạo, bảo quản.
Việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa đòi hỏi phải nghiên cứu, phân
tích, chọn lựa các yếu tố tích cực trong di sản để kế thừa, nâng cao và sáng tạo
ra những giá trị văn hóa mới.
1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về
văn hóa.

1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 7
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một hệ thống các quan điểm lý luận
mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam. Nó chắc lọc, tổng hợp và kết tinh được những giá trị văn hóa của phương
Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế trong đó cốt
lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa và bản sắc dân tộc
Việt Nam [10;13].
Trong khi các nhà văn hóa trên thế giới còn bàn cãi về khái niệm văn hóa,
đưa ra hàng trăm định nghĩa khác nhau, thì mấy ai biết từ năm 1942, Chủ tịch
Hồ Chí Minh có một định nghĩa rất đúng về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[7;409]. Như vậy, các quan điểm, tư tưởng cơ bản nói trên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển
nền văn hóa nước ta. Những lời dạy của Người không chỉ có tầm chiến lược mà
còn có ý nghĩa chỉ đạo cụ thể trong công việc hằng ngày của chúng ta.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác
văn hóa, xác định công tác văn hóa là một bộ phận của cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ thành lập Đảng (1922 -1930) với tiêu điểm là Luận cương chính trị
năm 1930. Thời kỳ từ 1930 – 1960: đáng chú ý có Đề cương văn hóa (1943),
văn kiện Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (1948) của cố Tổng Bí thư
Trường Chinh và Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951). Thời kỳ 1960 – 1985: quan điểm của

Đảng thể hiện qua các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V.
Thời kỳ từ năm 1986 đến nay: quan điểm của Đảng ta được thể hiện trong các
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 8
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI và
các Nghị quyết của Bộ chính trị, của Ban Bí thư khóa VI, VII và Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII kỳ hợp thứ tư, khóa VIII kỳ hợp thứ năm.
Từ tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam mà Đề cương văn hóa 1943
trình bày: “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về
hình thức và dân chủ về nội dung” [9;23].
Từ năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy trên nhiều lĩnh vực, trong đó có
lĩnh vực văn hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” [9;25].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng lại tiếp tục khẳng định
rõ hơn quan điểm này. Đại hội xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”
[3;110].
Năm 1998, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII họp Hội nghị lần thứ
năm đề ra Nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc Điểm mới này, một mặt thể hiện rất rõ ở những quan
điểm chỉ đạo cơ bản về văn hóa, trong đó đặc biệt là 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản
về xây dựng và phát triển văn hóa: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa
mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền
văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ tri thúc giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một
mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài,

đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. [11;533].
Tiếp theo đến Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tiếp
tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 9
thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”
[4;115]. Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng
cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ
văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách người Việt Nam
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [5;284].
Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí Thư đã chỉ rõ “Tôn
trọng, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa chùa chiền Khmer kết hợp với nội dung
văn hóa mới nghiên cứu đưa một số chùa Khmer có ý nghĩa tiêu biểu về lịch sử
- văn hóa vào danh mục xếp hạng của Nhà nước”
1.3. Chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về văn hóa:
Xuất phát từ những quan điểm của Đảng được Nhà nước ta thể chế hóa
trong Hiến pháp năm 1992 được quy định như sau:
Chương III, điều 30 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển
nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những
giá trị của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng
tạo trong nhân dân”.
Nghị định số 39/1998/CP-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “đẩy mạnh
công tác văn hóa thông tin ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi” và
Quyết định số 124/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền núi”.
Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 23/10/2007 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh về phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số Khmer đến năm 2010
và định hướng đến năm 2015.




HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 10
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HÓA VẬT
THỂ, PHI VẬT THỂ CỦA ĐỒNG BÀO KHMER TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
2.1. Khái quát về tỉnh An Giang và ngƣời Khmer An Giang:
Tỉnh An Giang nằm ở địa đầu Tây Nam của lãnh thổ Việt Nam. Phía Bắc
và Tây Bắc tiếp giáp Campuchia với đường biên giới dài 104 km, chạy dọc theo
kênh Vĩnh Tế. Phía Tây Nam tỉnh Kiên Giang, đường ranh giới dài 69,789 km.
Phía Nam có 44,734 km đất đai tiếp giáp với thành phố Cần Thơ. Phía Đông và
Đông Nam giáp tỉnh Đồng Tháp, ngăn cách bởi sông Tiền và rạch Cái Tàu
Thượng, chiều dài đường ranh giới là 107,6 km. Diện tích tự nhiên: 3.537 km².
Lãnh thổ An Giang bao gồm hai vùng: dãy cù lao nằm giữa sông Tiền – sông
Hậu, bao gồm các huyện: An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; dãy đất nằm
dọc bên hữu ngạn sông Hậu, thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, bao gồm các
huyện: Châu Phú, Châu Thành, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn, thị xã Châu
Đốc và thành phố Long Xuyên.
Dân số tỉnh An Giang có khoảng 2,14 triệu người, mật độ dân số 600
người/km
2
. Dân cư phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở thành thị và vùng
đồng bằng ven sông Tiền, sông Hậu, chiếm khoảng 89% dân số; vùng đồi núi
phía Tây và Tây Nam dân cư thưa thớt hơn, chỉ khoảng 11% dân số. Dân tộc
Khmer có 90.271 người, chiếm tỉ lệ 4,2% dân số toàn tỉnh, sống tập trung ở 2
huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên; số còn lại sống rải rác ở một số huyện khác
như Châu Thành, Thoại Sơn. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước.

Người Khmer còn thạo nghề đánh cá, dệt chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt
nốt và làm gốm với kỹ thuật đơn giản.
Dân tộc Khmer sống thành các điểm tụ cư gọi là Phum, Sóc (tương tự như
thôn, ấp của người Kinh). Người Khmer trước đây ở nhà sàn, kiểu nhà sàn phù
hợp với mùa nước lũ hàng năm, cao đến 5- 7 mét, 3 gian quay về hướng đông,
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 11
làm bằng gỗ lợp ngói hay tranh, rơm rạ. Hiện nay, người Khmer sống trong các
ngôi nhà trệt, mái lá, vách lá đơn giản.
Về y phục, trước đây nam nữ đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự
dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu và áo sơ mi. Những người già,
người lớn tuổi thường mặc quần áo bà ba với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu
hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ
truyền.
Dân tộc Khmer có tiếng nói và chữ viết riêng và nền văn hóa phát triển
lâu đời, có phong tục tập quán và lễ hội phong phú và trân trọng về giá trị đời
sống tinh thần. Hàng năm, người Khmer có hai lễ lớn trong năm: Tết Chol
Chnam Thmay tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch); lễ
chào mặt trăng tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch. Dân tộc Khmer có nền văn
hoá, văn nghệ dân gian phong phú, biểu hiện trong các lễ hội theo chu kỳ thời
gian và vòng đời, các loại hát ứng khẩu dân ca được mọi lứa tuổi ưa chuộng, có
nhiều trò chơi như thả diều, đua thuyền trên sông nước.
Về tín ngưỡng – tôn giáo: họ theo Phật giáo Tiểu thừa. Người Khmer còn
gọi tín ngưỡng Phật giáo của mình là Phật giáo Therevada hay con đường
Therevada. Chùa là trung tâm hành lễ của cư dân các Phum, Sóc Chùa không chỉ
là nơi tu hành mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa, nơi học hành, nơi hội họp của
dân làng. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của
văn hoá Khmer
Đồng bào Khmer còn lưu giữ được nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian như
múa hát, nghệ thuật sân khấu, như sân khấu Rôbam, kịch Dukê, đua bò… tạo

nên bản sắc riêng của người Khmer. Những tác phẩm xa xưa vẫn còn được lưu
giữ cho tới bây giờ, đặc biệt là các pho sách viết trên lá thốt nốt, hoặc những tác
phẩm xa xưa vừa theo những câu chuyện có gốc rễ từ đạo Bàlamôn, đạo Phật,
vừa ghi chép những ngụ ngôn, ngạn ngữ, ca dao, hát đối, câu đố, câu nói lại có
xuất từ dân gian.
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 12
Âm nhạc cũng là một nét đẹp trong văn hóa dân tộc Khmer, bởi từ già,
trẻ, trai, gái đều biết múa và hát, biết chơi thông thạo một loại hình âm nhạc. Có
thể nói, văn hóa của dân tộc Khmer như một điểm son góp phần tô đậm thêm nét
phong phú và đa dạng trong nền văn hóa Việt Nam. Điều đó làm cho nền văn
hóa của dân tộc Việt Nam vốn đã như bông hoa khoe sắc thắm, nay càng tỏa
hương thơm ngát trong cả nền văn hóa của nhân loại.
2.2. Thành tựu đạt đƣợc trong việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát
huy văn hóa vật thể - phi vật thể của đồng bào Khmer tỉnh An Giang trong
thời gian qua
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh An Giang, đồng bào dân tộc Khmer có nền văn
hóa vật thể và phi vật thể rất phong phú và đa dạng với khoảng 65 chùa tập
trung chủ yếu ở 02 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, các chùa với lối kiến trúc theo
kiểu truyền thống độc đáo, bên cạnh đó người Khmer An Giang còn có những
làng nghề truyền thống dân tộc, những loại hình nghệ thuật dân gian lâu đời,
những lễ hội truyền thống được diễn ra hàng năm trong đó có những loại hình
văn hóa thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài tỉnh.
Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Cục Di sản Văn hóa, Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch và các ban ngành đoàn thể cùng chính quyền địa phương;
công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng
bào dân tộc Khmer không ngừng được chú trọng và quan tâm phát triển.
Công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa của đồng bào dân tộc
Khmer đã được địa phương thực hiện thường xuyên nhiều năm, với những việc

như: điều tra, khảo sát, chọn lọc và lập dự án trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch cho thực hiện bằng hình thức viết kịch bản, quay phim chụp ảnh tư liệu, báo
cáo khoa học giao nộp về Viện Văn hóa Nghệ thuật, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch lưu trữ lâu dài phim gốc và dàn dựng lại thành phim tài liệu.
2.2.1. Bảo tồn, phát triển ngành nghề truyền thống dân tộc Khmer
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 13
Ngành nghề truyền thống dân tộc Khmer trong tỉnh có rất lâu đời, với cơ
cấu đa dạng và phong phú như: nghề dệt Thổ cẩm, nghề làm Gốm, nghề làm
đường Thốt Nốt. Các ngành nghề truyền thống không chỉ đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế địa phương mà còn là một địa chỉ văn hóa, phản ánh nét
văn hóa độc đáo trong cộng đồng dân tộc. Các sản phẩm từ ngành, nghề truyền
thống luôn bao gồm cả nội dung giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, có sức hấp
dẫn và tính cạnh tranh cao. Chính vì vậy việc bảo tồn phát triển ngành nghề
truyền thống dân tộc Khmer trong tỉnh luôn được cấp ủy, chính quyền địa
phương quan tâm. Các làng nghề truyền thống gồm:
- Làng nghề dệt Thổ cẩm Văn Giáo (dân tộc Khmer) huyện Tịnh Biên.
- Nghề làm đường Thốt Nốt (dân tộc Khmer) huyện Tịnh Biên và Tri Tôn.
- Nghề làm Gốm dân tộc Khmer huyện Tri Tôn
Việc bảo tồn phát triển ngành nghề truyền thống cho vùng dân tộc và
miền núi nói chung và của đồng bào dân tộc Khmer nói riêng luôn được tỉnh
quan tâm chỉ đạo đầu tư khôi phục, phát triển. Ngày 17 tháng 2 năm 2007,
UBND tỉnh ký ban hành Chương trình số 03/CTr-UBND về việc bảo tồn và phát
triển làng nghề TTCN tỉnh An Giang giai đoạn 2008 – 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, UBND tỉnh ký ban hành quyết định số
1921/QĐ-UBND phê duyệt “ Đề án phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp cho
người dân tộc Chăm và Khmer giai đoạn 2008 – 2012”. Mục tiêu chung của Đề
án là khôi phục và phát triển ngành nghề TTCN truyền thống cho người dân tộc
Khmer và Chăm, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống tại làng nghề,

cộng đồng dân tộc, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế
xã hội địa phương.
- Huyện Tịnh Biên: Làng nghề dệt Thổ Cẩm Văn Giáo được sự hỗ trợ của
Dự án CARE giúp giải quyết việc làm cho 113 lao động, sản xuất mỗi năm trên
3.000 sản phẩm các loại. Ngoài ra địa phương đầu tư trên 400 triệu đồng san lắp
mặt bằng, mua sắm trang thiết bị, xây dựng Trung tâm học tập cộng đồng để
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 14
phát triển sản xuất TTCN trong đó có nghề dệt. Hỗ trợ 126 hộ vay 568 triệu
đồng sửa chữa khung dệt, mua nguyên vật liệu duy trì sản xuất.
Ngoài làng nghề dệt Thổ cẩm Văn Giáo, vùng Bảy Núi 2 huyện Tịnh
Biên, Tri Tôn vẫn còn duy trì một số nghề truyền thống khác như: sản xuất
đường Thốt Nốt, làm Gốm, dệt Thổ cẩm (xã Ô Lâm, huyện Tri Tôn) đã giải
quyết việc làm trên 400 lao động.
Tính từ năm 1998 đến năm 2012 đã thực hiện được:
- Dự án bảo tồn nghề Gốm thủ công truyền thống của dân tộc Khmer, ấp
An Thuận, xã Châu lăng, huyện Tri Tôn;
- Dự án bảo tồn nghề làm đường Thốt Nốt dân tộc Khmer huyện Tịnh
Biên;
- Dự án “Phát triển du lịch sinh thái – văn hóa gắn với bảo tồn và phát
huy giá trị của các di tích khảo cổ học, thiết chế văn hóa, làng nghề, nghề thủ
công và lễ hội truyền thống vùng đồng bào dân tộc Khmer, Chăm tỉnh An Giang
giai đoạn 2011 – 2015 và đến năm 2020”
- Dự án “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng đồng bào dân tộc Khmer
– Chăm tỉnh An Giang giai đoạn 2011-2015 và đến năm 2020”
2.2.2. Về công tác bảo tồn và phát huy các loại hình văn hóa truyền
thống dân tộc:
- Tiến hành đi thực tế khảo sát nhu cầu sử dụng nhạc cụ dân tộc các
điểm chùa Phật giáo Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang để có kế hoạch đầu tư
duy trì phát triển. Tỉnh đã thực hiện được đĩa CD về 10 bài hát dân tộc Khmer.

- Xây dựng dự án bảo tồn đàn Chà Pây dân tộc Khmer xã Ô Lâm huyện
Tri Tôn; Đàn Chà Pây là loại hình âm nhạc dân gian truyền thống của người
Khmer An Giang, tuy nhiên hiện nay loại hình âm nhạc này đang có nguy cơ bị
mất đi do không có người kế tục, hầu hết những người biết biết đến loại hình
này đều đã lớn tuổi, cho nên nguy cơ mai một rất cao. Vì vậy hy vọng thông qua
dự án này có thể giúp lưu giữ và cứu sống loại hình âm nhạc đặc sắc này.
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 15
- Xây dựng kế hoạch kiểm kê, lập hồ sơ khoa học “Nghệ thuật Dìkê của
người Khmer An Giang” và Lễ hội đua bò Bảy Núi đề nghị đưa vào Danh mục
Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia.
- Tổ chức Hội thảo khoa học về văn hóa các dân tộc trong đó có văn hóa
dân tộc Khmer - Lễ hội đua bò Bảy Núi An Giang, đề nghị nâng cấp Lễ hội đua
bò Bảy Núi thành lễ hội cấp quốc gia. Đặc biệt trong thời gian vừa qua đã thực
hiện một bộ phim khoa học về Lễ hội đua bò Bảy Núi để làm tư liệu quan trọng
lưu giữ những nét văn hóa truyền thống đặc sắc riêng biệt của An Giang nói
chung và của đồng bào dân tộc Khmer nói riêng được tiếp tục bảo tồn, phát
triển.
- Tham gia và phối hợp hướng dẫn tổ chức ngày hội văn hóa truyền thống
dân tộc Khmer như lễ hội Chol chanăm Thmay, Lễ Dolta, Okombok
- Thực hiện Đề án bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể Kinh Lá Buông
(Sa-tra) của dân tộc Khmer. Sa-tra xuất hiện trong các chùa Khmer từ thời xa
xưa và được xem như những bộ sách quý dùng để: tra cứu, học hỏi và truyền
dạy con cháu qua các thế hệ. Nội dung Sa-tra rất phong phú, đa dạng, thể hiện
đầy đủ các mặt trong cuộc sống lao động sản xuất, sinh hoạt giải trí của dân tộc
Khmer
2.2.3. Công tác quản lý di tích, lễ hội ở vùng đồng bào dân tộc
Khmer:
Hướng dẫn tôn tạo cảnh quan, trùng tu sửa chữa, bảo quản, phát huy phát
triển các giá trị di tích đã được xếp hạng và chưa xếp hạng cuả các dân tộc

Khmer thu hút phục vụ khách tham quan và nghiên cứu.
Tính đến thời điểm hiện nay, tỉnh có 03 di tích của đồng bào dân tộc thiểu
số được xếp hạng di tích cấp quốc gia (không có di tích cấp tỉnh) trong đó có di
tích kiến trúc nghệ thuật chùa Xvayton của dân tộc Khmer. Các di tích trên nằm
trong tổng số 79 di tích của tỉnh, luôn nhận được sự quan tâm kịp thời của các
ngành chức năng, mang lại hiệu quả thiết thực trong việc bảo tồn, phát huy và
phát triển giá trị các di tích lịch sử - văn hóa.
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 16
Thành lập và củng cố các Ban quản lý di tích theo chỉ đạo của Cục Di sản
Văn hoá, hầu hết các ban quản lý di tích được củng cố và phân công nhiệm vụ
cụ thể cho từng thành viên, đi vào hoạt động có nề nếp. Các lễ hội truyền thống
tại các di tích của các dân tộc trong đó có đồng bào dân tộc Khmer diễn ra long
trọng theo nghi thức cổ truyền đậm đà bản sắc dân tộc.
Hằng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã kết hợp với các ban ngành
duy trì tổ chức Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào dân tộc Khmer
tỉnh An Giang theo định kỳ 2 năm 1 lần; Lễ hội đua Bò Bảy Núi của đồng bào
dân tộc Khmer duy trì tổ chức mỗi năm một lần, đã tổ chức hội thảo cấp quốc
gia về Lễ hội đua bò Bảy Núi đề nghị nâng lên thành Lễ hội cấp quốc gia; tổ
chức đưa đội văn nghệ Khmer tham dự liên hoan Văn hóa các dân tộc Việt Nam
năm 2012 tại Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô – Hà Nội).
Đối với đồng bào dân tộc Khmer Tỉnh đã tổ chức Lễ hội văn hóa, thể thao
và du lịch đồng bào dân tộc Khmer Bảy Núi như Lễ hội Chol-Chnăm-Thmây (
tết chúc tuổi của đồng bào Khmer ) được tổ chức 2 năm 1 lần vào tuần thứ 2 của
tháng 4 hàng năm, lễ hội Dolta ( lễ báo hiếu đồng bào Khmer ) được tổ chức vào
giữa tháng 9, Lễ hội đua bò Bảy Núi ( đến nay tổ chức được 17 lần ).
Trong năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tổ chức Liên hoan
nghệ thuật Dù Kê đồng bằng sông Cửu Long cho đồng bào dân tộc Khmer các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đây là dịp để phát huy loại hình nghệ thuật
truyền thống của dân tộc Khmer đó là loại hình hát Dù Kê. Hiện nay, tỉnh có

một đội văn nghệ hát Dì Kê đang hoạt động tại xã Ô Lâm, huyện Tri Tôn, sẽ
được cử đi tham dự Liên hoan lần này.
2.2.4. Tổ chức các hoạt động văn hóa, giao lƣu văn hóa ở địa bàn có
đồng bào dân tộc Khmer sinh sống, vùng biên giới:
Hằng năm, ngành duy trì tổ chức các hoạt động tuyên truyền cổ động,
triển lãm, văn hóa văn nghệ, chiếu phim phục vụ đồng bào dân tộc Khmer cụ thể
như:
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 17
- Chiếu phim phục vụ đồng bào dân tộc Khmer tại các huyện với các chủ
đề: Kỷ niệm các ngày lễ kỷ niệm, tết; Tết Chol chnam Thmây của đồng bào dân
tộc Khmer; bình quân mỗi năm 8-10 suất
- Duy trì tổ chức triển lãm ảnh và trưng bày hiện vật giới thiệu về thành
tựu kinh tế, văn hóa, xã hội đồng bào dân tộc Khmer trong Ngày hội Văn hóa,
Thể thao và Du lịch; Các bộ ảnh “ Thành tự kinh tế, văn hóa, xã hội đồng bào
dân tộc Khmer, An Giang” qua các năm, thu hút đông đảo đồng bào Kinh, dân
tộc thiểu số tham gia xem.
- Trong những năm qua, tỉnh đã tổ chức nhiều sự kiện văn hóa quan trọng
đối với đồng bào dân tộc Khmer điển hình như đăng cai tổ chức Ngày hội Văn
hóa, Thể thao và Du lịch vùng đồng bào Khmer Nam Bộ lần V trong năm 2011
tại huyện Tịnh Biên, tổ chức Ngày hội giao lưu văn hóa các tỉnh biên giới Việt
Nam – Campuchia trong năm 2012 cũng tại huyện Tịnh Biên Những sự kiện
văn hóa lớn như thế này không chỉ là dịp hết sức quan trọng để đồng bào dân tộc
Khmer trong tỉnh An Giang có cơ hội giao lưu văn hóa với đồng bao dân tộc
Khmer các tỉnh bạn, đặc biệt hơn là có thể học hỏi, giao lưu văn hóa với nước
bạn Campuchia mà còn là hoạt động văn hóa có ý nghĩa nhằm bảo tồn và phát
huy các loại hình nghệ thuật truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer.
2.2.5. Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển văn hóa dân tộc:
Hằng năm ngành duy trì tổ chức lớp tập huấn cán bộ quản lý văn hóa, thể
thao, du lịch và gia đình cho cán bộ các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào

dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào Khmer nói riêng để nâng cao chuyên
môn, hoàn thành tốt nhiệm vụ địa phương, trong đó có cán bộ là người dân tộc
Khmer đang công tác trong lĩnh vực văn hóa, nhằm phục vụ tốt hơn cho công
tác bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer.
2.2.6. Nguyên nhân thành tựu đạt đƣợc:
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm
xây dựng và phát triển văn hóa, thông qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn đề ra các
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 18
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát triển nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung và của đồng bào Khmer nói riêng.
Những định hướng của Đảng ta và của cấp ủy, chính quyền địa phương ở
mỗi thời kỳ, trọng tâm là tập trung hướng nhiệm vụ vào phát triển kinh tế, xã hội
mạnh mẽ và hiệu quả. Nhưng cũng có sự xem xét đặc thù của địa phương, cái
riêng của từng dân tộc
Trong những năm qua, thực hiện chỉ thị số 68/CTTW, ngày 14/8/1989 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng, chỉ thị số 39/TTg – 1998 của Thủ tướng chính
phủ về đẩy mạnh công tác văn hóa – thông tin ở miền núi và vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, chương trình hành động của Tỉnh ủy An Giang về việc thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
chương trình dân tộc của Ủy ban nhân dân Tỉnh, kết hợp với các chương trình
mục tiêu của Bộ văn hóa – thông tin, An giang đã có nhiều cố gắng chăm lo cho
vùng đồng bào dân tộc Khmer.
2.3. Một số hạn chế, khó khăn trong việc thực hiện chính sách bảo
tồn, phát huy văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer tỉnh
An Giang.
2.3.1. Hạn chế, khó khăn:
- Hạn chế, khó khăn nhất trong việc bảo tồn văn hóa vật thể, phi vật thể
trong một số đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh nói chung và đồng bào
dân tộc Khmer nói riêng, đặc biệt do điều kiện trình độ nhận thức còn nhiều hạn

chế, người dân chưa có ý thức bảo lưu, truyền bá văn hóa của dân tộc mình cho
lớp kế tiếp, chưa nhận thức rõ tầm quan trọng nét đẹp văn hóa trong cộng đồng
dân tộc.
- Việc điều tra, khôi phục văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số đang sinh
sống trên số địa bàn huyện khó có thể thực hiện được vì số lượng ít, nằm xen kẽ
trong nhiều khu dân cư. Một số nghề truyền thống dân tộc, như: Đan lát, dệt vải,
thổ cẩm, thêu thùa… đang dần mất đi vì không tìm được thị trường tiêu thụ và
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 19
các loại trang phục dân tộc cầu kỳ, không được giới trẻ ưa chuộng và phù hợp
với thực tế…
- Nhiều giá trị và di sản văn hóa trong đồng bào dân tộc Khmer chưa được
sưu tầm, bảo tồn, khai thác tốt, các loại hình văn hóa văn nghệ truyền thống đặc
sắc như chơi hát Di kê, múa cung đình Khmer… dần đần mai một do nghệ nhân
đã lớn tuổi, chưa có điều kiện truyền thụ, kế thừa, lớp trẻ ngày càng chạy theo
hiện đại quay lưng với cái cũ.
- Các lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer, bên cạnh các nghi thức tôn giáo
(phần lễ), các sinh hoạt văn hóa thể thao (phần hội) chưa được đầu tư nghiên
cứu để phát triển, nâng cao đáp ứng cho từng giới, từng độ tuổi, tạo ra sức thu
hút mới được nhiều người tham gia.
- Thiết chế văn hóa, thiết bị nhạc cụ dân tộc không đảm bảo yêu cầu sinh
hoạt, cán bộ người dân tộc năng lực tổ chức hoạt động yếu nên phong trào phát
triển không đều, thiết chế văn hóa ở các Phum, Sóc còn rất thiếu thốn về cơ sở
vật chất, đặc biệt là thiết chế quảng bá văn hóa tộc người còn nhiều hạn chế.
- Đội ngũ cán bộ đảng viên nói chung, cán bộ đảng viên là người Khmer
làm công tác văn hóa nói riêng còn ít, chưa tương xứng, trình độ kiến thức về
văn hóa còn thấp, thiếu ổn định do thay đổi liên tục. Từ đó chưa ngang tầm và
đáp ứng tốt cho việc lãnh đạo và thực hiện công tác xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang
- Các làng nghề truyền thống dân tộc sản phẩm làm ra chưa đáp ứng thị

hiếu người tiêu dùng. Nguồn vốn hạn chế, không đảm bảo đầu tư phát triển sản
xuất. Thu nhập từ sản xuất còn thấp, một số lao động không gắn với sản xuất, bỏ
nghề nên có nguy cơ mai một. Một số dự án hỗ trợ chậm được triển khai thực tế,
hiệu quả thực hiện các dự án chưa cao.
- Tình hình an ninh trật tự vùng biên giới giáp với nước bạn Campuchia
còn phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý, phát triển văn hóa cơ sở cũng
như công tác văn hóa đối với đồng bào dân tộc Khmer.
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 20
2.3.2. Nguyên nhân hạn chế:
- Tuy có nhận thức về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhưng
một số cấp ủy Đảng và đảng viên cơ sở còn lúng túng trong việc lãnh đạo và tổ
chức thực hiện; Đa số các xã có đông đồng bào dân tộc lại nghèo, nên tập trung
trước nhất là nhắm vào sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất
(phần xác), chưa quan tâm nhiều đến đời sống tinh thần (phần hồn).
- Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên một số chương trình
đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc còn chậm, thiếu đồng bộ, phát huy hiệu quả
chưa cao, một số vấn đề vướng mắc thuộc về kiến thức nghiệp vụ chưa được các
ngành chủ quản hướng dẫn tháo gỡ và hỗ trợ kịp thời.
- Phần đông đồng bào dân tộc Khmer cuộc sống còn khó khăn chỉ chú tâm
vào lao động sản xuất, một bộ phận không nhỏ lại có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào
chính sách của Đảng và Nhà nước, thiếu tinh thần tự lực vươn lên, do vậy rất
khó thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa.
- Do kết hôn với dân tộc khác nên đã theo phong tục, tập quán, ăn mặc,
sinh hoạt nhiều nơi đã gần như mất hẳn nét sinh hoạt độc đáo, trang phục, lễ hội
của dân tộc mình. Người già biết về văn hóa truyền thống dân tộc còn ít, chưa
được sự quan tâm tạo điều kiện của chính quyền cơ sở. Có nơi cấp chính quyền
chưa thực sự tạo điều kiện, vận động, tuyên truyền người già, người có uy tín
truyền dạy văn hóa của dân tộc mình; Các làng nghề quy mô nhỏ lẻ, việc sử
dụng máy móc thiết bị còn ít, trình độ tay nghề chưa cao và theo kịp yêu cầu

phát triển.
2.4. Vấn đề đặt ra
Từ những thành tựu và hạn chế nêu trên, vấn đề đạt ra là phải giải quyết
tốt các chính sách phát triển văn hóa theo đúng với quan điểm của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta: Xây dựng nền
văn hóa nước ta tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Khmer cần
sự chung tay góp sức của toàn xã hội, của các cấp chính quyền và nhất là phát
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 21
huy được vai trò của chính người dân có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của dân
tộc mình.
- Phải tăng cường sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa
phương, nhất là cấp cơ sở. Ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, nâng cao
hiệu quả phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội, an ninh, quốc phòng
- Phải đẩy mạnh, đổi mới các hoạt động thông tin tuyên truyền về nâng
cao hiệu quả và phát triển bản sắc văn hóa Khmer bằng nhiều hình thức, biện
pháp phù hợp, đặc biệt chú trọng đối tượng, địa bàn để tuyên truyền.
- Tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác bảo tồn, phát huy các loại hình
văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer đang trong tình trạng
mai một, đẩy mạnh xã hội hóa trong xây dựng và phát triển văn hóa.


HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 22
CHƢƠNG 3
MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU BẢO TỒN, PHÁT HUY
VHVT-PVT CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG ĐẾN NĂM 2015
3.1. Mục tiêu nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn, phát huy VHVT-PVT

của đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang đến năm 2015
3.1.1. Mục tiêu chung:
- Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm phát triển văn hoá dân tộc,
góp phần để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu
vừa là động lực phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo đảm
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia;
- Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số
nói chung và của đồng bào dân tộc Khmer nói riêng phù hợp với tình hình thực
tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị biến dạng văn hoá cao,
khôi phục các loại hình văn hóa truyền thống dân tộc có nguy cơ bị mai một, bị
thất truyền. Phát huy vai trò của các chủ thể văn hoá trong phát triển văn hoá
truyền thống của các dân tộc.
- Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số nói chung và đồng bào dân tộc Khmer trong tỉnh nói riêng; khích lệ sáng tạo
các giá trị văn hóa mới. Góp phần giảm dần sự chênh lệch về mức sống và
hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các dân tộc, gắn kết giữa phát triển kinh tế với
bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc.
- Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động
văn hoá, huy động mọi nguồn lực cho bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc
thiểu số , gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, đặc
biệt tại các địa bàn trọng điểm: vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn, vùng biên giới.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể từ nay đến năm 2015:
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 23
- Thông tin và thông tin cổ động các chính sách, chủ trương của Đảng và
Nhà nước ngày càng sâu rộng hơn nữa, chất lượng hơn nữa, đưa tiếng nói của
Đảng, Nhà nước đến tận người dân, với từng người dân đồng bào dân tộc, đặc
biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới,
- Các hoạt động văn hóa văn nghệ được tổ chức thường xuyên, thu hút

ngày càng nhiều người tham gia, chủ yếu là khơi dậy phong trào văn hóa văn
nghệ quần chúng ngay trong đồng bào dân tộc, một mặt vừa khuyến khích các
loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống, mặt khác phải cải biên, cải tiến phù
hợp với cuộc sống mới.
- Nâng cao chất lượng quản lý các lễ hội truyền thống dân tộc Khmer, lễ
hội của đồng bào Khmer khá nhiều, nhưng chủ yếu là ba lễ hội chính: Chol
chnam thmay, Đolta, Ok Om Bok mang tính truyền thống cần được phát huy;
một mặt vừa tiết giảm, hạn chế những mặt lạc hậu, bổ sung những mặt tiến bộ
để nâng cao, đảm bảo hài hòa giữa hai yêu cầu sinh hoạt tín ngưỡng và sinh hoạt
xã hội.

- Nghiên cứu đổi mới việc tổ chức Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch
vùng đồng bào Khmer trong tỉnh theo hướng toàn diện, thu hút nhiều lực lượng
tham gia biểu diễn. Tại mỗi huyện, xã có đồng bào dân tộc Khmer cũng cần có
các hoạt động giao lưu, giới thiệu mang tính cộng đồng phù hợp với truyền
thống đặc điểm từng nơi nhân các lễ, tết của đồng bào dân tộc, có sự phối hợp tổ
chức tốt Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào dân tộc Khmer tỉnh
về nội dung, hình thức phù hợp, hiệu quả.
- Huy động được các nguồn lực từ các chương trình mục tiêu của chính
phủ (135), của ngành – Bộ có liên quan, từ ngân sách tỉnh và vận động tài trợ để
đầu tư xây dựng, hoàn thiện các thiết chế văn hóa Nhà nước, đầu tư đồng bộ
thiết bị hỗ trợ và thiết bị chuyên dùng, có mô hình quản lý phù hợp để khai thác
sử dụng có hiệu quả hệ thống các thiết chế (kể cả Nhà nước, nhà chùa và của
nhân dân) bao gồm nhà văn hóa xã, tụ điểm văn hóa, trạm truyền thanh, phòng
đọc sách, báo…
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 24
- Việc khai thác, sưu tầm và bảo tồn các di sản có giá trị văn hóa, các loại
hình văn hóa nghệ thuật , các làng nghề truyền thống dân tộc đặc sắc của đồng
bào dân tộc Khmer được đẩy mạnh hơn nữa. Tiếp tục tổ chức khảo sát, thống kê

và có kế hoạch tiếp tục bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc Khmer đang bị mai
một.
Các chỉ tiêu cụ thể:
- Số chùa Khmer đạt chuẩn văn hóa 80% chùa cảnh văn hóa.
- Đầu tư nâng cấp hệ thống thiết bị đài truyền thanh ở cơ sở và duy trì công
năng hiệu quả thực sự của thiết bị, đảm bảo 100% người dân được nghe đài,
đảm bảo thông tin tuyên truyền các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà
nước đến nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc.
- Nâng Lễ hội đua bò Bảy Núi thành lễ hội cấp quốc gia.
- Xây dựng, củng cố 100% đội văn nghệ Khmer hoạt động thường xuyên
hoặc định kỳ ở cở sở. Chú trọng chất lượng nội dung, hình thức và hoạt động
theo đúng quy định pháp luật.
- 50% xã, thị trấn thành lập câu lạc bộ hát với nhau và dạy những điệu múa
truyền thống của đồng bào Khmer.
- 50% xã, thị trấn, duy trì hoạt động đội Dì kê, Chà Pay.
- Duy trì tổ chức tốt Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho đồng bào
dân tộc Khmer 2 năm 1 lần.
- Đến năm 2015, hoàn thành các đề án kiểm kê, sưu tầm các loại hình văn
hóa Dì Kê, Đàn Chà Bây, Kinh lá buông (Sa- tra) Sau đó tổng hợp hồ sơ, trình
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp
tỉnh. Các di sản văn hóa đặc trưng dân tộc Khmer được bảo tồn và phát huy giá
trị, được hỗ trợ phát triển ít nhất 2 làng nghề truyền thống.
- 80% cán bộ đang công tác trong lĩnh vực văn hóa tại vùng có đông đồng
bào dân tộc Khmer biết ngôn ngữ Khmer.
HVTH: Dương Chấn Lâm Lớp TCLLCTHC – B67
GVHD: ThS Nguyễn Thuận Thảo 25
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
bảo tồn, phát huy văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer
trên địa bàn tỉnh An Giang đến năm 2015
- Trước hết Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể với vai trò là người vận

động, thực hiện tốt phương châm: “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm), xem
công tác truyền thông là biện pháp hữu hiệu nhất để làm cho mỗi con người xóa
bỏ tư tưởng mặc cảm, tự ti, thay đổi nhận thức: không có dân tộc lớn hay nhỏ,
không có sự kỳ thị giữa dân tộc đông người với dân tộc ít người, mà phải biết
trân trọng và tự hào về dân tộc mình, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau
những giá trị văn hóa mà cha ông đã bao đời sáng tạo nên.
- Đối với cộng đồng dân cư thường xuyên duy trì các phong tục nghi lễ
truyền thống, vận động đồng bào ăn mặc trang phục truyền thống (kể cả nam lẫn
nữ vì lâu nay người nam vẫn ăn mặc theo âu phục), trong lao động nên kết hợp
giữa phương tiện cơ giới với dụng cụ sản xuất cũng như tập quán canh tác của
từng dân tộc, để thế hệ trẻ biết quý trọng sự cần cù sáng tạo của cha ông.
- Đối với ngành giáo dục tiếp tục đẩy mạnh việc đưa chương trình dạy
song ngữ (tiếng Việt - tiếng dân tộc) vào tất cả các trường nơi có đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống. Cần tiếp tục điều tra, thống kê, phân loại các vốn văn hóa
truyền thống của từng dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.
- Đối với văn hóa phi vật thể phải được tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, giới
thiệu những giá trị tốt đẹp để mọi người biết và quý trọng. Phục dựng lại một số
lễ hội truyền thống đặc sắc của mỗi dân tộc, giữ gìn những phong tục tập quán
tốt đẹp, những trò chơi, văn học, nghệ thuật dân gian.
- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây
dựng làng, bản, buôn, gia đình văn hóa trên tinh thần thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở với các quy chế cụ thể, rõ ràng do nhân dân xây dựng dưới sự chỉ đạo
của Nhà nước, phù hợp phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống của đồng bào
nhưng vẫn bảo đảm thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Ðảng, luật pháp
của Nhà nước.

×