LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận
này là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ trong bất kỳ một khóa
luận nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều được trích rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Phùng Thị Kim Dung
i
LỜI CẢM ƠN
Quá trình học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp tôi đã được sự giúp
đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể. Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất
tới tất cả cá nhân và tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc GS.TS. Nguyễn
Văn Song và CN. Hoàng Thị Hằng người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông Nghiệp
Hà Nội; các thầy giáo, cô giáo khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ UBND xã Minh Tiến, huyện Phù
Cừ, tỉnh Hưng Yên đã tạo điều kiện cho tôi trong việc thu thập số liệu và thông
tin cần thiết cho việc nghiên cứu khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, chia sẻ, động
viên tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực tập tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Phùng Thị Kim Dung
ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay, vấn đề về nhãn hiệu,
thương hiệu ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp và các đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong những năm gần đây, sản
xuất sản phẩm đặc sản có chất lượng cao đang là hướng phát triển bền vững
cho nông nghiệp Việt Nam. Hiện nay, nước ta có nhiều sản phẩm nông sản
gắn liền với những địa danh nổi tiếng như vải Thanh Hà, bưởi Diễn, nhãn
lồng Hưng Yên, thanh long Bình Thuận, cà phê Buôn Ma Thuột Mặc dù
giàu sản vật như vậy, nhưng nhãn hiệu, thương hiệu hàng nông sản còn rất mờ
nhạt trên thị trường Việt Nam nói riêng và quốc tế nói chung. Việc tạo lập
nhãn hiệu chứng nhận là một vấn đề khá mới ở Việt Nam nên còn gặp nhiều
khó khăn và hạn chế. Việc tạo lập nhãn hiệu cho các đặc sản vẫn chưa hoàn
thiện, người sản xuất vẫn thiếu thông tin cụ thể.
Cây vải lai chín sớm mấy năm trở lại đây được coi là cây “xóa đói giảm
nghèo” của nhiều nông dân huyện Phù Cừ nói chung và xã Minh Tiến nói
riêng. Thế nhưng làm thế nào để tìm kiếm thị trường mang tính ổn định, xây
dựng nhãn hiệu “vải lai chín sớm Phù Cừ” là điều trăn trở của các cấp, các
ngành địa phương và sự mong đợi của đông đảo người trồng vải. Xuất phát từ
thực tế đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Xác định nhu cầu xây dựng và
sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “vải lai chín sớm Phù Cừ” của người
trồng vải tại xã Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên”.
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề liên quan đến
nhãn hiệu chứng nhận, tìm hiểu thực trạng sản xuất, tiêu thụ của vải lai chín
sớm tại xã, nghiên cứu nhu cầu xây dựng và sử dụng nhãn hiệu “vải lai chín
sớm Phù Cừ”, đề ra một số giải pháp nhằm thu hút các hộ nông dân tham gia
xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
Về cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài hệ thống hóa cơ sở lý luận về nhu
cầu, cầu, nhãn hiệu, nhãn hiệu chứng nhận, xây dựng và sử dụng NHCN,
iii
phương pháp nghiên cứu CVM; tóm tắt chủ trương, chính sách của Nhà nước
về sở hữu trí tuệ; rút ra bài học xây dựng NHCN “vải lai chín sớm Phù Cừ” từ
các kinh nghiệm xây dựng NHCN trong và ngoài nước.
Trên cơ sở tìm hiểu về địa bàn xã Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh
Hưng Yên bao gồm: vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, dân số và lao động.
Tôi đã đưa ra các phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thu
thập thông tin số liệu, phương pháp phân tích và xử lý số liệu, hệ thống chỉ
tiêu phân tích.
Về kết quả nghiên cứu và thảo luận, đề tài tìm hiểu thực trạng sản xuất
vải lai chín sớm tại xã Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên một số năm
gần đây. Đặc trưng sản phẩm vai lai chín sớm Phù Cừ. Tình hình tiêu thụ sản
phẩm vải lai chín sớm Phù Cừ hiện nay.
Qua tìm hiểu tình hình kinh tế xã hội của khu vực và phỏng vấn trực
tiếp 60 hộ, nghiên cứu đã xác định được mức sẵn lòng trả cho việc xây dựng
và sử dụng NHCN cho sản phẩm vải lai chín sớm Phù Cừ cùng với các mức
sẵn lòng trả khác nhau. Mức sẵn lòng trả cao nhất là 400 nghìn đồng/năm.
Mức sẵn lòng trả thấp nhất là 50 nghìn đồng/ năm. Bằng phương pháp bình
quân gia quyền cùng với số liệu điều tra phỏng vấn, xác định mức WTP bình
quân của một hộ xây dựng và sử dụng NHCN là 147,5 ngàn đồng/năm. Tổng
quỹ sẵn lòng đóng góp của toàn xã ước tính là 81 triệu đồng/ năm.
Sử dụng các số liệu đã phân tích, tôi xác định các yếu tố ảnh hưởng đến
nhu cầu xây dựng và sử dụng NHCN vải lai chín sớm Phù Cừ là thu nhập từ
vải, sản lượng vải, quy mô diện tích trồng vải và trình độ học vấn.
Để thu hút người dân tham gia xây dựng và sử dụng NHCN một cách
tự nguyện, đề tài đã đưa ra một số giải pháp: tuyên truyền vận động các hộ
xây dựng và sử dụng NHCN Vải lai chín sớm Phù Cừ; đẩy mạnh các hoạt
động marketing, khai thác sử dụng NHCN “vải lai chín sớm Phù Cừ”; đào tạo
kỹ thuật trồng vải tốt nhất cho các hộ trồng vải.
iv
Bố cục và nội dung của đề tài được trình bày như sau:
Phần 1: Đặt vấn đề
Phần 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Phần 3: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Phần 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Phần 5: Kết luận và kiến nghị
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN iii
MỤC LỤC vi
DANH MỤC BẢNG viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT x
Phần I ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1 Mục tiêu chung 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 4
Phần II TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 5
2.1 Cơ sở lý luận 5
2.1.1. Tổng quan về cầu và nhu cầu 5
2.1.2. Tổng quan về nhãn hiệu hàng hóa 13
2.1.3. Nhãn hiệu chứng nhận 20
2.2. Cơ sở thực tiễn 24
2.2.1. Kinh nghiệm xây dựng nhãn hiệu của một số nước trên thế giới 24
2.2.2. Thực trạng nhu cầu sử dụng và đăng ký nhãn hiệu ở Việt Nam 28
2.2.3. Một số chủ trương chính sách của nhà nước 29
2.2.4. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài 30
2.2.5. Bài học & kinh nghiệm rút ra từ tổng quan cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn 31
Phần III ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 33
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 33
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 34
3.2. Phương pháp nghiên cứu 41
3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu 41
vi
3.2.2 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 41
3.2.3 Hệ thống chỉ tiêu phân tích 44
Phần IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 46
4.1. Thực trạng của sản xuất sản phẩm vải lai chín sớm tại xã Minh Tiến 46
4.1.1. Đặc trưng sản phẩm “vải lai chín sớm Phù Cừ” 46
4.1.2 Tình hình phát triển sản xuất vải lai chín sớm trong những năm gần đây 47
4.2 Xác định nhu cầu tham gia xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “vải lai
chín sớm Phù Cừ” 53
4.2.1 Nhận thức và mong muốn của người trồng vải lai chín sớm về nhãn hiệu chứng
nhận 53
4.2.2 Nhu cầu tham gia xây dựng và sử dụng NHCN “vải lai chín sớm Phù Cừ” của hộ
trồng vải 55
4.2.3 Mức kinh phí bằng lòng đóng góp cho hoạt động xây dựng và sử dụng NHCN “vải
lai chín sớm Phù Cừ” 57
4.2.4 Một số yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận
“vải lai chín sớm Phù Cừ” 60
4.2.5 Nhu cầu về thời gian bảo hộ NHCN “vải lai chín sớm Phù Cừ” 64
4.2.6 Nhu cầu xây dựng tổ chức đứng tên đăng ký và quản lý NHCN 65
4.2.7 Nhu cầu về quản lý và phát triển NHCN vải lai chín sớm Phù Cừ 67
4.2.8 Nhu cầu về sử dụng, quản lý tem phiếu sản phẩm Vải lai chín sớm Phù Cừ 68
4.2.9 Nhu cầu phát triển thị trường và khai thác thương mại đối với sản phẩm vải mang
NHCN “Vải lai chín sớm Phù Cừ” 68
4.2.10 Nhu cầu của cán bộ quản lý về xây dựng NHCN “Vải lai chín sớm Phù Cừ” 70
4.3 Giải pháp nhằm thu hút sự tham gia xây dựng và sử dụng NHCN “vải lai chín sớm
Phù Cừ” 71
4.3.1 Giải pháp về sản xuất, tiêu thụ vải lai chín sớm Phù Cừ 71
4.3.2 Giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng, sử dụng NHCN 73
Phần V KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 75
5.1 Kết luận 75
5.2 Một số kiến nghị 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Sự khác nhau cơ bản giữa thương hiệu và nhãn hiệu 18
Bảng 3.1: Số lượng cơ sở vật chất văn hóa của xã Minh Tiến năm 2013 37
Bảng 3.2 Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Minh Tiến qua các năm 2011 - 2013 38
Bảng 4.1 Đặc điểm của vai lai chín sớm Phù Cừ 46
Bảng 4.2 Tình hình cơ bản của các hộ nông dân trồng vải lai chín sớm tại xã Minh
Tiến 48
Bảng 4.3 Tình hình sử dụng đất cho trồng vải của các hộ điều tra năm 2013 49
Bảng 4.4 Tình hình sử dụng công cụ, dụng cụ cho sản xuất vải 49
Bảng 4.5 Chi phí sản xuất vải lai chín sớm của hộ 51
Bảng 4.6 Những khó khăn trong sản xuất Vải lai chín sớm của các hộ điều tra năm
2013 52
Bảng 4.7 Mức độ hiểu biết của người trồng vải về nhãn hiệu chứng nhận 54
Bảng 4.8 Mức độ cần thiết về việc xây dựng NHCN của người trồng vải 56
Bảng 4.9 Nhu cầu của người trồng vải về xây dựng NHCN vải lai chín sớm Phù Cừ 57
Bảng 4.10 Ý kiến đóng góp kinh phí xây dựng và sử dụng NHCN vải lai chín sớm Phù
Cừ 57
Bảng 4.11 Mức phí bằng lòng đóng góp của các hộ 59
Bảng 4.12 Ảnh hưởng của thu nhập từ vải lai chín sớm đến mức sẵn lòng trả của các
hộ(WTP/ năm) 60
Bảng 4.13 Ảnh hưởng của sản lượng vải lai chín sớm đến mức sẵn lòng trả của các hộ(
WTP/ năm) 62
Bảng 4.14 Ảnh hưởng của quy mô diện tích trồng vải lai chín sớm đến mức sẵn lòng trả
của các hộ ( WTP/ năm) 63
Bảng 4.15 Ảnh hưởng của trình độ học vấn người được hỏi đến mức sẵn lòng trả của
các hộ(WTP/ năm) 64
Bảng 4.16 Nhu cầu các hộ trồng vải về thời gian bảo hộ NHCN Vải lai chín sớm Phù
Cừ 64
Bảng 4.17 Tổng hợp ý kiến của các hộ trồng vải về tổ chức đứng tên đăng ký và quản lý
NHCN 65
viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1 Cơ cấu tỷ trọng đóng góp giá trị sản xuất xã Minh Tiến qua 3 năm 2011 -
2013 39
Biểu đồ 4.1 Mức độ hiểu biết của người trồng vải về NHCN 54
Biểu đồ 4.2 Nhận thức về lợi ích NHCN đem lại 55
Biểu đồ 4.3 Mức độ cần thiết về việc xây dựng NHCN của người trồng vải 56
Biều đồ 4.4 Mức bằng lòng đóng góp theo thu nhập từ việc trồng vải của các hộ điều tra
61
Biểu đồ 4.5 Mức bằng lòng đóng góp theo sản lượng của các hộ điều tra 62
Biểu đồ 4.6 Mức bằng lòng đóng góp theo quy mô diện tích của các hộ điều tra 63
ix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
SHTT
CN, TTCN
BQ
KHKT
UBND
TC
ĐH – CĐ
ĐVT
BVTV
LĐ
NHCN
NHTT
Sở hữu trí tuệ
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Bình quân
Khoa học kĩ thuật
Ủy ban nhân dân
Trung cấp
Đại học – Cao đẳng
Đơn vị tính
Bảo vệ thực vật
Lao động
Nhãn hiệu chứng nhận
Nhãn hiệu tập thể
x
Phần I ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay, vấn đề về nhãn hiệu,
thương hiệu ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với các sản
phẩm. Bởi áp lực cạnh tranh trên thị trường hiện nay không còn chỉ dừng lại ở
chuyện giá cả và chất lượng sản phẩm mà nằm ở vấn đề nhãn hiệu, thương
hiệu. Đây là yếu tố quyết định sức sống của mỗi sản phẩm và là sự công nhận
của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Việc đăng ký nhãn hiệu là điều hết
sức quan trọng. Vì có thực hiện công việc này thì quyền lợi hợp pháp của
người sản xuất cũng như các sản phẩm của họ mới được pháp luật bảo vệ tốt
nhất.
Đối với những địa phương có nhiều sản phẩm mang tính chất riêng và
độc quyền thì việc tạo lập nhãn hiệu lại càng trở nên có ý nghĩa hơn. Nó sẽ
xác định tên tuổi cũng như vị trí của sản phẩm trên thị trường, thúc đẩy nền
kinh tế của địa phương và đất nước phát triển. Khi nước ta hội nhập ngày
càng sâu rộng hơn với nền kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là từ khi chính
thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế thì mức độ cạnh
tranh giữa các sản phẩm, dịch vụ ngày càng trở nên gay gắt hơn. Việc xây
dựng một nhãn hiệu nào đó là một quá trình hết sức khó khăn, phức tạp đòi
hỏi phải có thời gian, có sự kiên trì và bền bỉ.
Việt Nam là đất nước được thiên nhiên ưu đãi để phát triển nông
nghiệp. Với gần 70% trong tổng số hơn 90 triệu người sống ở nông thôn và
chủ yếu là lao động trong lĩnh vực liên quan đến nông nghiệp( GC Food, năm
2012, [1])
Trong những năm gần đây, sản xuất sản phẩm đặc sản có chất lượng
cao đang là hướng phát triển bền vững cho nông nghiệp Việt Nam. Hiện nay,
nước ta có nhiều sản phẩm nông sản gắn liền với những địa danh nổi tiếng
1
như vải Thanh Hà, bưởi Diễn, nhãn lồng Hưng Yên, thanh long Bình Thuận,
cà phê Buôn Ma Thuột Mặc dù giàu sản vật như vậy, nhưng nhãn hiệu,
thương hiệu hàng nông sản còn rất mờ nhạt trên thị trường Việt Nam nói
riêng và quốc tế nói chung. Nó là tài sản vô hình có giá trị của người sản xuất.
Việc đăng kí nhãn hiệu sẽ giúp cho người sản xuất bảo hộ cho sản phẩm của
mình đồng thời xâm nhập, giữ vững trên thị trường và chống lại mọi hành vi
vi phạm, cạnh tranh không lành mạnh.
Việc tạo lập nhãn hiệu chứng nhận là một vấn đề khá mới ở Việt Nam
nên còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Việc tạo lập nhãn hiệu cho các đặc
sản vẫn chưa hoàn thiện, người sản xuất vẫn thiếu thông tin cụ thể.
Nhắc tới Hưng Yên - một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng
Việt Nam- là ta nhớ tới nhiều đặc sản dân dã mang tính bản địa. Bên cạnh
nhãn lồng Phố Hiến, tương làng Bần, gà Đông Tảo, bánh dày làng Gàu, chả
gà Tiểu Quan,… thì vải lai chín sớm Phù Cừ cũng là một trong những sản
phẩm được nhiều người tiêu dùng biết đến. Từ năm 2003, cùng với cây lúa,
vải chín sớm được lựa chọn là cây trồng chủ lực của huyện. Theo đó, Phù Cừ
là vùng chuyên canh vải lớn nhất tỉnh Hưng Yên với diện tích trồng 600 ha;
trong đó, 400 ha đã cho thu hoạch( Văn Giáp, 2013 [2])
Cây vải lai chín sớm mấy năm trở lại đây được coi là cây “xóa đói giảm
nghèo” của nhiều nông dân huyện Phù Cừ nói chung và xã Minh Tiến nói
riêng. Cây vải đã được nhân rộng ra nhiều địa phương trên huyện, trong đó có
cả xã Minh Tiến. Thế nhưng làm thế nào để tìm kiếm thị trường mang tính ổn
định, xây dựng nhãn hiệu “vải lai chín sớm Phù Cừ” là điều trăn trở của các
cấp, các ngành địa phương và sự mong đợi của đông đảo người trồng vải. Cái
khó hiện nay là đầu ra cho sản phẩm hoàn toàn do người trồng tự tìm kiếm thị
trường tiêu thụ, vì vậy năm nào mất mùa thì được giá và ngược lại. Đặc tính
của vải lai chín sớm chủ yếu là để ăn tươi, vụ thu hoạch rộ chỉ khoảng nửa
tháng, do đó nếu người trồng vải không thu hoạch thì sẽ bị hỏng, vì vậy giá cao
2
hay thấp người trồng vải trông chờ cả vào tư thương. Là giống vải chín sớm, có
chất lượng vượt trội hơn so với nhiều loại vải khác, những năm gần đây vải lai
chín sớm Phù Cừ đã được nhiều người tiêu dùng ở gần xa biết đến, thế nhưng
việc xây dựng thương hiệu cho cây vải vẫn là việc làm còn dang dở. Năm
2010, huyện cũng đã thành lập được ban vận động hội vải lai chín sớm, hướng
tới xây dựng nhãn hiệu hàng hóa cho cây vải nhưng chưa có động thái gì tích
cực để cho cây vải của địa phương được phát triển mạnh mẽ và có tiếng hơn.
( Ngọc Anh, 2011 [3]).
Thực trạng sản xuất, tiêu thụ của vải lai chín sớm tại xã Minh Tiến như
thế nào? Nhu cầu xây dựng và sử dụng nhãn hiệu “vải lai chín sớm Phù Cừ”
của người trồng vải ra sao? Các nguyên nhân ảnh hưởng tới nhu cầu xây dựng
nhãn hiệu “vải lai chín sớm Phù Cừ” là gì? Các giải pháp nhằm thu hút các hộ
nông dân tham gia xây dựng và sử dụng nhãn hiệu như thế nào? Để giải quyết
những vấn đề trên, tôi tiến hành chọn nghiên cứu đề tài: “ Xác định nhu cầu
xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “vải lai chín sớm Phù Cừ”
của người trồng vải tại xã Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở xác định nhu cầu xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng
nhận “vải lai chín sớm Phù Cừ” của người trồng vải, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm thu hút tham gia xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “vải
lai chín sớm Phù Cừ” tại xã Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở và cơ sơ thực tiễn về nhu cầu, cầu, nhãn hiệu
chứng nhận.
- Đánh giá thực trạng tình hình sản xuất vải lai chín sớm tại xã Minh
Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên
- Xác định nhu cầu xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “vải lai
chín sớm Phù Cừ” của người trồng vải. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng
3
tới nhu cầu xây dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “vải lai chín sớm Phù
Cừ”.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút các hộ trồng vải tham gia xây
dựng và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “ vải lai chín sớm Phù Cừ”.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về nhu cầu xây dựng
,sử dụng nhãn hiệu chứng nhận sản phẩm.
- Đối tượng điều tra là các hộ tham gia sản xuất vải lai chín sớm tại xã
Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: đề tài tập trung vào việc xác định nhu cầu xây
dựng và sử dụng NHCN “ vải lai chín sớm Phù Cừ” tại xã Minh Tiến, huyện
Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
- Phạm vi về không gian:
Đề tài được tiến hành tập trung nghiên cứu các hộ sản xuất vải lai chín
sớm, các tổ chức tại địa bàn xã Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên
cũng như các cơ quan ban ngành liên quan trong việc xây dựng và sử dụng
nhãn hiệu chứng nhận vải lai chín sớm Phù Cừ.
- Phạm vi về thời gian:
+ Thời gian nghiên cứu: só liệu của đề tài nghiên cứu trong khoảng thời
gian từ năm 2011 – 2013.
+ Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2014.
4
Phần II TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Tổng quan về cầu và nhu cầu
2.1.1.1. Lý luận chung về cầu
* Một số khái niệm về cầu
Nói đến cầu là nói đến nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu
dùng trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Con người mong
muốn có được hàng hóa càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, có những mong
muốn chưa trở thành nhu cầu cần phải có mà chỉ mới dừng lại ở “nhu cầu”
trong ý muốn có được hàng hóa để sử dụng cho mục đích cụ thể nào đó, mà
chưa phản ánh được việc người tiêu dùng thực sự có khả năng mua hàng hóa
đó không và mua một lượng bao nhiêu.
Vì vậy, cầu là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng
muốn mua và có khả năng mua ở các mức giá khác nhau trong khoảng thời
gian nhất định, khi các yếu tố khác không đổi ( Nguyễn Khắc Minh, 2006,
[4]).
Lượng cầu là là lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người tiêu dùng muốn
mua và sẵn sàng mua tại một mức giá nhất định với các yếu tố khác có thể
ảnh hưởng đến lượng mua không đổi.
Cầu cá nhân là cầu về hàng hóa hay dịch vụ mà mỗi cá nhân trong xã
hội, thể hiện lượng hàng hóa dịch vụ mà mỗi người tiêu dùng có khả năng và
sẵn sàng mua ở mọi mức giá nhất định trong một thời gian nhất định, điều
kiện các yếu tố khác không đổi.
Cầu thị trường là tổng hợp của các cầu cá nhân trong xã hội.
Biểu cầu: khi tập hợp các lượng cầu vào một biểu ta có biểu cầu. Biểu
cầu thể hiện mối quan hệ giữa sự thay đổi của giá và lượng cầu tương ứng.
Luật cầu là luật của người tiêu dùng( người mua), bởi vì họ bao giờ
cũng thích mua rẻ. Luật cầu chỉ ra rằng: có một mối quan hệ nghịch biến giữa
giá cả và lượng cầu hàng hóa dịch vụ. Điều đó có nghĩa là: khi giá cả hàng
hóa dịch vụ giảm xuống thì lượng cầu thị trường sẽ tăng lên và ngược lại( với
5
các yếu tố khác không đổi). Nghiên cứu luật cầu rất có ý nghĩa trong thực
tiễn: muốn bán được nhiều hàng hóa thì người sản xuất phải giảm giá bán.
* Hàm cầu
Cầu thị trường là một loại hàng hóa dịch vụ phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố, cho nên sự thay đổi của những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến cầu
hàng hóa đó. Để nghiên cứu mối quan hệ giữa cầu hàng hóa và các yếu tố ảnh
hưởng đến nó, ta sử dụng một hàm số gọi là hàm số của cầu (hàm cầu).
Hàm cầu có dạng tổng quát: Q
D
( x, t) = f (P
x
; I; P
Y
; T; N; E;…)
Trong đó,
- Q
D
( x, t) là cầu hàng hóa X xác định trong khoảng thời gian t ( ngày,
tháng, quý , năm…) và đóng vai trò hàm số cầu.
- P
x
; I; P
Y
; T; N; E;…là các yếu tố ảnh hưởng tới cầu hàng hóa X và
đóng vai trò như những biến của hàm cầu. Cụ thể, P
X
là giá cả hàng hóa X, I
là thu nhập của người tiêu dùng; P
Y
là giá cả hàng hóa liên quan; T là chuẩn
mực về thị hiếu sở thích của người tiêu dùng; N là quy mô dân số; E là kỳ
vọng của người tiêu dùng về sự thay đổi các yếu tố trên.
Như vậy, cầu hàng hóa X phụ thuộc vào sự thay đổi của rất nhiều yếu
tố nhưng để đơn giản cho nghiên cứu ta thường dựa vào hai giả định sau đây:
- Thứ nhất, để nghiên cứu ảnh hưởng của từng yếu tố đến cầu, ta
thường giả sử các yếu tố còn lại không thay đổi.
- Thứ hai, hàm cầu có dạng tuyến tính, tức là quan hệ giữa từng yếu tố
với cầu là quan hệ tuyến tính.
(TS. Dương Tấn Diệp, năm 2007.[5])
* Các yếu tố ảnh hưởng tới cầu
Ngoài bản thân giá cả hàng hóa ra thì có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới
cầu, đó là thu nhập, thị hiếu, giá của các hàng hóa có liên quan, quy mô dân
số, kỳ vọng của người tiêu dùng.
- Giá cả của hàng hóa đang xét( P
X
): nếu các yếu tố khác không đổi, khi
giá hàng hóa X tăng thì lượng cầu của nó giảm và ngược lại. Nói cách khác,
giữa P
x
và Q
D
tồn tại mối quan hệ nghịch biến như trong luật cầu đã chỉ ra.
Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng này còn phụ thuộc và X là loại hàng hóa dịch
vụ nào.
- Thu nhập (I): thu nhập thể hiện khả năng thanh toán của người tiêu
6
dùng khi mua hàng hóa dịch vụ. Khi thu nhập tăng, cầu đối với hầu hết các
hàng hóa đều gia tăng vì với thu nhập cao hơn người tiêu dùng thường có xu
hướng mua hàng hóa nhiều hơn. Ta xét hai trường hợp:
+ Cầu đối với loại hàng hóa thông thường sẽ tăng khi thu nhập của
người tiêu dùng tăng. Thí dụ, người tiêu dùng sẽ mua quần áo, sẽ mua ti-vi
màu, sử dụng các dịch vụ giải trí, v.v. nhiều hơn khi thu nhập của họ tăng lên.
Những hàng hóa này là những hàng hóa thông thường.
+ Cầu đối với hàng hóa thứ cấp (hay còn gọi là cấp thấp) sẽ giảm khi
thu nhập của người tiêu dùng tăng. Hàng cấp thấp thường là những mặt hàng
rẻ tiền, chất lượng kém như ti-vi trắng đen, xe đạp, v.v. mà mọi người sẽ
không thích mua khi thu nhập của họ cao hơn.
(TS. Dương Tấn Diệp, năm 2007.[5])
Một loại hàng hóa có thể vừa là hàng hóa thông thường và vừa là hàng
hóa cấp thấp. Chẳng hạn, người tiêu dùng sẽ mua quần áo nhiều hơn ứng với
một mức giá nhất định khi thu nhập tăng. Người tiêu dùng có lẽ sẽ chi tiền
nhiều hơn cho các loại quần áo thời trang, cao cấp, đẹp nhưng sẽ chi ít hơn
cho các loại quần áo rẻ tiền, kém chất lượng. Như vậy, quần áo có thể vừa là
hàng hoá bình thường và vừa là hàng hoá cấp thấp.
Cùng với sự gia tăng của thu nhập của người tiêu dùng theo thời gian,
một hàng hóa, dịch vụ là hàng bình thường hôm nay có thể trở thành một
hàng thứ cấp trong tương lai. Thí dụ, ở Việt Nam, xe đạp là hàng hóa bình
thường vào đầu những năm 1990 nhưng lại là hàng thứ cấp vào cuối những
năm 1990 do thu nhập của người tiêu dùng vào cuối những năm 1990 cao hơn
thu nhập vào đầu những năm 1990.
- Giá cả của hàng hóa có liên quan
Ta có thể dễ dàng thấy rằng giá xe gắn máy hay giá xăng tăng lên có
thể làm tăng nhu cầu sử dụng xe buýt tại mỗi mức giá nhất định, nếu giá vé xe
buýt không đổi. Các nhà kinh tế cho rằng xe gắn máy là những phương tiện
thay thế cho xe buýt. Nói chung, nhu cầu đối với một loại hàng hóa nào đó
chịu ảnh hưởng bởi giá cả của hàng hóa có liên quan. Có hai loại hàng hóa có
7
liên quan mà các nhà kinh tế thường đề cập đến là: hàng hóa thay thế và hàng
hóa bổ sung.
+ Hàng hóa thay thế là những loại hàng hóa cùng thỏa mãn một nhu
cầu (nhưng có thể mức độ thỏa mãn là khác nhau). Thông thường, hàng hóa
thay thế là những loại hàng hóa cùng công dụng và cùng chức năng nên người
tiêu dùng có thể chuyển từ mặt hàng này sang mặt hàng khác khi giá của các
mặt hàng này thay đổi. Thí dụ, người tiêu dùng có thể thay thế thịt bằng cá
khi giá thịt tăng lên và giá cá không đổi; khách du lịch có thể lựa chọn giữa
Vũng Tàu, Đà Lạt hay Nha Trang. Quan sát trên cho phép ta đưa ra nhận xét
quan trọng sau: cầu đối với một loại hàng hóa nào đó sẽ giảm (tăng) đi khi giá
của (các) mặt hàng hóa thay thế của nó giảm (tăng), nếu các yếu tố khác là
không đổi.
Hàng hóa bổ sung là những hàng hóa được sử dụng song hành với nhau
để bổ sung cho nhau nhằm thỏa mãn một nhu cầu nhất định nào đó. Trong
thực tế có rất nhiều hàng hóa bổ sung. Thí dụ, xăng là hàng hóa bổ sung cho
xe gắn máy vì chúng ta không thể sử dụng xe gắn máy mà không có xăng. Giá
xăng tăng có thể dẫn đến lượng cầu đối với xe gắn máy giảm xuống. Gas và
bếp gas, máy hát CD và đĩa CD là những hàng hóa bổ sung cho nhau. Từ
những thí dụ trên, ta cũng có thể dưa ra một nhận xét quan trọng sau: cầu đối
với một loại hàng hóa nào đó sẽ giảm (tăng) khi giá của (các) hàng hóa bổ
sung của nó tăng (giảm), nếu các yếu tố khác không đổi.
- Thị hiếu, sở thích người tiêu dùng( T): nó là ý thích, ý muốn chủ quan
của người tiêu dùng khi sử dụng hàng hóa dịch vụ. Vì vậy, thị hiếu phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như: giới tính, dân tộc, tuổi tác, môi trường sống, “mốt”
tiêu dùng, …Nhìn chung, yếu tố này ít thay đổi vì thị hiếu người tiêu dùng rất
đa dạng và phức tạp, nó thuộc yếu tố tâm lý – xã hội nên khi nghiên cứu phải
chọn mẫu đại diện, từ đó có thể lượng hóa và suy rộng cho tổng thể.
- Quy mô dân số hay số lượng ngời tiêu dùng( N): khi số người tiêu
dùng tăng thì cầu hàng hóa sẽ tăng và ngược lại.
- Kỳ vọng của người tiêu dùng( E): cầu hàng hóa sẽ thay đổi vì nó phụ
8
thuộc kỳ vọng của người tiêu dùng. Kỳ vọng được xem là sự mong đợi, dự
đoán của người tiêu dùng về sự thay đổi các yếu tố xác định cầu trong tương
lai nhưng lại ảnh hưởng tới cầu hàng hóa hiện tại.
Ngoài ra, điều kiện tự nhiên, chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
( như chính sách trợ cấp, thuế thu nhập),… cũng ảnh hưởng đến cầu hàng hóa
dịch vụ.
( Nguyễn Khắc Minh, 2006, [4]).
2.1.1.2. Lý luận chung về nhu cầu
* Khái niệm:
Từ lâu nhu cầu đã là đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa
học nghiên cứu sinh học và xã hội. Theo định nghĩa website wikipedia, trong
lĩnh vực kinh tế - xã hội vấn đề về nhu cầu được tìm thấy trong nghiên cứu
của các nhà khoa học tên tuổi như Jeremy Bentham, Benfild, William Stanley
Jevons, John Ramsay McCulloch, Edward S. Herman. Đó là hiện tượng phức
tạp, đa diện, đặc trưng cho mọi sinh vật. Sự hiện diện của nhu cầu ở bất kì
sinh vật nào, ngay cả ở bất kì xã hội nào được xem như cơ thể sống phức tạp,
là đặc điểm để phân biệt chủ thể đó với môi trường xung quanh.
Theo Philip Kotler, chuyên gia marketing hàng đầu thế giới: Nhu cầu
là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu của con người là một tập hợp đa dạng và phức tạp, từ những
nhu cầu có tính chất bản năng sinh tồn như ăn, uống, mặc, ở,…đến những nhu
cầu về tình cảm trí thức, tôn trọng, tự thể hiện mình. Những nhu cầu đó gắn
liền với tình cảm con người, gắn liền với sự phát triển của xã hội mà mỗi con
người sống.
Về cơ bản, nhu cầu được hiểu là trạng thái tâm lý mà con người cảm
thấy thiếu cân bằng và mong muốn đáp ứng nó. Nhu cầu gắn liền với sự tồn
tại và phát triển của con người, cộng đồng và xã hội. Hay hiều một cách đơn
giản nhu cầu là mong muốn, là nguyện vọng được thỏa mãn một cái gì đó.
Ta có thể thấy sự khác nhau căn bản giữa nhu cầu và cầu. Nhu cầu là
trạng thái tâm lý của con người chỉ sự ham muốn, ước muốn của con người.
Còn cầu là lượng hàng hóa mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng
9
mua tại các mức giá tương ứng. Cầu thể hiện mức nhu cầu đã được thỏa mãn.
Tóm lại, nhu cầu là động lực thúc đẩy hoạt động, điều chỉnh hành vi của
từng cá nhân và tập thể trong xã hội nói chung. Nhu cầu là sự đòi hỏi của cá
nhân và các nhóm xã hội muốn có những điều kiện nhất định để sống và phát
triển. Vì vậy, nhu cầu là một yếu tố cần thiết, tất yếu cho sự tồn tại và phát triển
của cá nhân. Nó định hướng và quyết định cho mọi hoạt động của con người.
* Cấu trúc của nhu cầu
Theo nhà tâm lý học người Mỹ Maslow, nhu cầu được phân loại
thành 5 cấp bậc, từ thấp đến cao:
- Nhu cầu về sinh lí: là nền tảng của hệ thống phân cấp nhu cầu, và được
ưu tiên hàng đầu. Nó bao gồm: ăn uống, nghỉ ngơi, bài tiết, vận động… Maslow
cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu
cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc,
giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.
- Nhu cầu an toàn: bao hàm cả an toàn về tính mạng và an toàn về tinh
thần. Sau khi con người có được nhu cầu cơ bản đó rồi thì họ mới phát sinh ra
các nhu cầu về mặt xã hội bao gồm sự mong muốn là một thành viên của một
cộng đồng nào đó.
- Nhu cầu xã hội: là nhu cầu tình cảm quan hệ bạn bè, hàng xóm, gia
đình và xã hội. Nhu cầu này quan hệ như quan hệ người với người, con người
với tổ chức hay quan hệ giữa con người có nhu cầu giao tiếp để phát triển.
- Nhu cầu tự trọng: là nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng
thông qua các thành quả lao động của mình….Nhu cầu được nhận biết và tôn
trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là một phần không
thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ được tôn trọng
cho thấy bản thân từng cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu dụng
trong xã hội mà họ đang sống và làm việc.
- Nhu cầu tự khẳng định: là mức cao nhất trong hệ thống phân cấp nhu
cầu của Maslow. Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con
người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở thích
và chỉ khi công việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng.
10
Như vậy, theo thuyết của Maslow thì nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ được
thỏa mãn khi nhu cầu thấp hơn được đáp ứng.
Aristotle cho rằng con người có hai loại nhu cầu chính: thể xác và
linh hồn, sự phân loại này mang tính ước lệ lớn nhưng ảnh hưởng đến tận
ngày nay.
Boris M.Gkin chia nhu cầu ra 2 nhóm: nhu cầu tồn tại và nhu cầu đạt
mục đích sống. Nhu cầu tồn tại gồm nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn và nhu
cầu tham dự. Trong nhu cầu đạt mục đích có bốn nhóm: giàu có về vật chất,
quyền lực và danh vọng, kiến thức và sáng tạo, hoàn thiện tinh thần.
Tùy vào xu hướng của mỗi cá nhân mà một trong bốn nhu cầu trên thể
hiện mức độ. Có thể một người hiện diện cả bốn dạng nhu cầu đó nhưng ở các
giai đoạn khác nhau trong đời.
* Đặc điểm nhu cầu
Nhu cầu của con người có những đặc điểm sau:
- Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Trong tâm lý con người, nhu cầu
được nhận thức dần dần. Khi đối tượng của nhu cầu được nhận thức đầy đủ,
tất yếu phải thực hiện thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người
nhằm hướng tới đối tượng.
- Nội dung của nhu cầu do những phương thức và điều kiện thỏa mãn
nó quy định: lặp đi lặp lại của một sự việc hay thời gian để kết thúc một vòng
quay, một chu trình. Như vậy, nhu cầu có tính chu kỳ và nó thường xuyên
xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
- Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật,
nhu cầu của con người mang bản chất xã hội: đó là tính xã hội của con người,
khác xa bản năng vốn có của con vật.
* Các loại nhu cầu
- Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng, có thể phân thành 4
nhóm: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, nhu cầu lao động và nhu cầu giao
tiếp.
- Nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại cơ thể, đây là những nhu cầu
cơ sở và sơ đẳng nhất của con người. Chính nó thúc đẩy hoạt động lao động
và sáng tạo của con người, làm ra của cải vật chất. Nhu cầu vật chất là nhu
11
cầu cơ bản nhất của con người, nếu nhu cầu này không đươc đáp ứng thì các
nhu cầu khác thì khó có thể đạt được.
- Nhu cầu tinh thần bao gồm nhu cầu hiểu biết và nhu cầu thẩm mỹ.
Nhu cầu vật chất thường gắn liền với nhu cầu tinh thần, con người thường
thích ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, ở tốt hơn,… đó là nhu cầu thẩm mỹ.
- Nhu cầu thẩm mỹ có thể nói là một động lực quan trọng giúp ta sáng
tạo ra các tác phẩm nghệ thuật, giúp cuộc sống của con người trở nên hoàn
thiên, thú vị hơn.
- Nhu cầu hiểu biết là nhu cầu mà con người cần có kiến thức về cuộc
sống xung quanh mình như tự nhiên, kinh tế, xã hội,… Nhu cầu hiểu biết là
nhu cầu quan trọng không thể thiếu để duy trì cuộc sống hàng ngày. Vì nếu
bạn không có chút kiến thức nào về cuộc sống thì chúng ta không thể nào tồn
tại được.
- Nhu cầu lao động là đòi hỏi khách quan phải được thỏa mãn về hoạt
động chân tay và hoạt động trí óc nhằm cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội và
cải tạo con người. Nhờ quá trình lao động và thông qua lao động mà tư duy
con người ngày càng hoàn thiện và phát triển từ người nguyên thủy cho đến
người hiện đại.
Tuy cùng chung sống trong một xã hội nhưng nhu cầu lao động của
mỗi người rất khác nhau, đó là kết quả của giáo dục và tự giáo dục.
- Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu quan hệ giữa người này và người khác:
giữa cá nhân và nhóm, giữa nhóm này với nhóm khác. Thông qua đó mà nhân
cách, các mối quan hệ liên quan nhân cách hình thành và phát triển. Người
lãnh đạo cần hiểu rõ nhu cầu này và vận dụng chúng vào quá trình quản lý,
cần lựa chọn hình thức giao tiếp rộng rãi và lựa chọn trong giao tiếp. Trong
giao tiếp sẽ biểu lộ ra cả chỗ mạnh và yếu của con người.
Nếu nhu cầu lao động giúp con người ngày càng tiến hóa hơn, phát
triển hơn, thì nhu cầu giao tiếp giúp con người mở rộng thêm được kiến thức,
phát triển các mối quan hệ xã hội – thứ không thể thiếu trong cuộc sống hằng
ngày. Nếu không có nhu cầu lao động và nhu cầu giao tiếp thì con người trở
nên ù lì, chậm chạp, không tiến bộ.
12
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhu cầu
Qua nghiên cứu ta thấy rằng, nhu cầu là đòi hỏi, là mong muốn và
nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Nhu
cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng
chi phối con người càng cao. Do đó, khi nghiên cứu được nhu cầu sẽ là sơ sở để
định hướng các hoạt động được đúng đắn, điều chỉnh các hoạt động khi trái thực
tiễn. Trong từng tình huống cần giải quyết tốt nhu cầu, có giải quyết tốt nhu cầu
thì mới có nền tảng vững chắc cho các hoạt động nối tiếp.
2.1.2. Tổng quan về nhãn hiệu hàng hóa
2.1.2.1. Một số khái niệm
Nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi từ lâu trên thế giới và tại Việt Nam.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm về nhãn hiệu như sau:
- Theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì nhãn
hiệu là “các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc
tương tự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau”.
- Theo Điều 785 Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày 28/10/1995 thì: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác
nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp của các
yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”.
- Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu
hiệu của doanh nghiệp (hoặc tập thể các doanh nghiệp) dùng để phân biệt với
hàng hóa cùng loại của doanh nghiệp khác”.
- Theo Philip Kotler một chuyên gia marketing hàng đầu của thế giới
thì: “Nhãn hiệu sản phẩm là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ hay
sự phối hợp giữa chúng, có công dụng dùng để xác nhận hàng hóa hay dịch
vụ của một người bán hay một nhóm người bán và phân biệt chúng với các
hàng hóa, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh”.
- Theo điều 15 Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương
mại của quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS) thì “ Nhãn hiêụ hàng hóa là bất kỳ một
13
dấu hiệu hay tổ hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hay dịch vụ
của một doanh nghiệp với hàng hóa hay dịch vụ của một doanh nghiệp khác”.
Như vậy, nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ này với các nhà
sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ khác trên thị trường, hay chỉ dẫn đến nguồn
gốc của hàng hóa, dịch vụ.
2.1.2.2. Chức năng, vai trò của nhãn hiệu hàng hóa
Chức năng của nhãn hiệu hàng hóa
(a) Chức năng phân biệt
Chức năng phân biệt của nhãn hiệu được hiểu là nhãn hiệu giúp phân
biệt hàng hóa dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Có thể nói đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của nhãn hiệu. Ngay từ
khi hình thành, nhãn hiệu đã được coi như một hình thức cô đọng, và khái
quát truyền đạt các thông tin về sản phẩm dịch vụ, là dấu hiệu đầu tiên và dễ
dàng nhất để phân biệt hàng hóa dịch vụ của các cơ sở kinh doanh khác nhau.
Ngày nay với sự đa dạng của các loại hàng hóa dịch vụ chức năng ấy càng
được thể hiện rõ nét và trở nên quan trọng hơn. Nhãn hiệu được coi là con
đường ngắn nhất để khách hàng nhớ tới doanh nghiệp cũng như sản phẩm của
họ. Ngoài ra, mặc dù mục đích ban đầu của việc sử dụng nhãn hiệu là để phân
biệt sản phẩm, tuy nhiên khi sản phẩm đã chiếm được thị trường, nhãn hiệu
trở thành biểu tượng của uy tín, chất lượng sản phẩm. Nhãn hiệu càng uy tín,
càng dễ bị người khác lợi dụng để sản xuất hàng giả, hàng nhái. Vì thế nhãn
hiệu không chỉ giúp phân biệt hàng hóa dịch vụ giữa các cá nhân tổ chức với
nhau mà còn giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa dịch vụ của tố chức, cá
nhân đó với hàng giả hàng nhái.
(b) Quảng cáo hoặc tiếp thị
Nhãn hiệu với chức năng là một công cụ maketing- truyền đạt tới người
tiêu dùng uy tín của sản phẩm dịch vụ mang nhãn hiệu được hình thành bởi trí
tuệ mà tổ chức, cá nhân đầu tư cho sản phẩm dịch vụ đó – nhãn hiệu được
14
pháp luật coi là tài sản trí tuệ của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, bảo hộ nhãn hiệu
là một trong những bước đi đầu tiên và cần thiết để quảng bá sản phẩm, tạo
thế cạnh tranh trên thị trường. Cách thức mà nhãn hiệu thúc đẩy quá trình này
là dựa vào khả năng phân biệt và nhận dạng hàng hóa và dịch vụ. Điều này là
đặc biệt quan trọng ở các thị trường nơi mà sự gia tăng của các hàng hóa cùng
loại cho phép người tiêu dùng nhận dạng hàng hóa của một thương gia cụ thể.
(c) Bảo đảm chất lượng
Do người tiêu dùng có thể sử dụng nhãn hiệu để nhận biết loại hàng
hóa sẽ thỏa mãn nhu cầu của họ, nên đã tạo ra động lực cho các nhà sản xuất
và phân phối nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người tiêu dùng về
chất lượng sản phẩm. Do đó, việc sử dụng nhãn hiệu có khuynh hướng
khuyến khích chủ sở hữu nhãn hiệu duy trì chất lượng ổn định cho hàng hóa
và dịch vụ được chào bán dưới nhãn hiệu của họ. Điều này được nhấn mạnh
bởi yêu cầu của pháp luật đối với việc kiểm soát chất lượng trong các hợp
đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Giá trị cố hữu trong việc giành được
sự trung thành của người tiêu dùng đối với một nhãn hiệu cụ thể thông qua
việc duy trì chất lượng ổn định của sản phẩm, được xem như là “danh tiếng”
đi kèm với nhãn hiệu. Người tiêu dùng sử dụng thông tin về nguồn gốc cũng
như chất lượng có thể tin được của sản phẩm để củng cố quyết tâm mua hàng
của mình. Ở những nơi chỉ có một nhãn hiệu tồn tại, người tiêu dùng sử dụng
thông tin này để quyết định có mua hàng hay không. Lợi ích của điều này đối
với người tiêu dùng, như đã dẫn, là họ có thể tránh được những sai lầm khi
quyết định mua hàng.
( Nam Phương, 2013, [6]).
Vai trò của nhãn hiệu hàng hóa
Ngày nay theo xu hướng ngày càng phát triển của đất nước thì nhãn
hiệu hàng hóa đóng một vai trò hết sức quan trong, đặc biệt trong nền kinh tế
thị trường. Hàng hóa ngày càng đa dạng hơn dẫn đến người tiêu dùng cần
15