Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

skkn giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.23 MB, 43 trang )

Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
MỤC LỤC
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU 2
I. Lí do chọn đề tài… 2
II. Phạm vi đề tài 3
III. Phương pháp thực hiện 3
PHẦN HAI: NỘI DUNG 4
I. Các khái niệm cơ bản 4
1. Về câu tiếng Việt 4
2. Về các dấu câu tiếng Việt 5
II. Nội dung cụ thể 8
1. Các loại lỗi ngữ pháp của học viên và cách sửa 9
1.1. Đặc điểm của học viên trung tâm GDTX 9
1.2. Thực trạng nhận biết lỗi sai ngữ pháp trong các bài làm văn của học
viên trung tâm GDTX 9
1.3. Các loại lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn của học viên và cách sửa 10
1.3.1. Câu sai cấu trúc 10
1.3.2. Câu tối nghĩa 14
1.3.3. Sai dấu câu 15
1.4. Nguyên nhân của những lỗi sai trên 17
1.5. Một số biện pháp góp phần hạn chế, khắc phục những lỗi sai của
học viên 18
III. Ứng dụng thực hành 18
PHẦN BA: KẾT QUẢ THỰC HIỆN 30
PHẦN BỐN: BÀI HỌC KINH NGHIỆM 31
PHẦN NĂM: KẾT LUẬN 32
PHỤ LỤC : 33
THƯ MỤC THAM KHẢO: 41

GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 1
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn


PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bộ môn Ngữ văn là bộ môn thuộc về lĩnh vực khoa học xã hội, có nghĩa là nó
hướng vào nhận thức các vấn đề xã hội cho học sinh. Không chỉ vậy, bộ môn Ngữ
văn trong nhà trường phổ thông còn có nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học
sinh. Trong cuộc sống, học sinh có thể giao tiếp dưới dạng nói hoặc dạng viết. Một
trong những yêu cầu quan trọng trong kĩ năng giao tiếp đó là học sinh phải nói đúng,
viết đúng theo những chuẩn mực tiếng Việt hiện hành rồi mới có thể nói hay, viết
hay. Thế nhưng, một thực tế đáng buồn là học sinh THPT đã trãi qua hai cấp học là
Tiểu học và THCS và đã được trang bị rất nhiều kiến thức về ngữ pháp tiếng Việt mà
rất nhiều em vẫn còn viết câu sai.
Trong quá trình chấm các bài làm văn của học viên, tôi nhận thấy học sinh mắc
lỗi ngữ pháp rất nhiều. Điều quan trọng là các em viết sai nhưng vẫn không ý thức
được là mình viết sai và khi được cho biết đó là câu sai thì đa số học sinh cũng không
thể biết là mình sai ở chỗ nào để sửa.
Đành rằng “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” nhưng chúng
ta không thể viện vào cớ ấy để “cho qua” hay “cảm thông” với những lỗi sai ngữ
pháp của học sinh nói riêng và của nhiều người nói chung. Bởi vì, khi viết câu sai là
chúng ta đang dần làm mất đi sự trong sáng và chuẩn mực của tiếng Việt. Đồng thời
chúng ta đang dần làm mất đi lòng tự tôn dân tộc và ý thức giữ gìn, phát huy những
giá trị văn hóa tinh thần mà những người đi trước đã dày công nghiên cứu mới có
được. Vì vậy viết câu đúng ngữ pháp tiếng Việt không chỉ là biểu hiện của trình độ
văn hóa nhất định mà còn là biểu hiện của lòng tự tôn dân tộc và ý thức giữ gìn, phát
huy những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc.
Như trên đã nói, học sinh viết câu sai rất phổ biến và rất ít em có thể tự phát
hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp. Đó là điều mà rất nhiều giáo viên dạy môn Ngữ văn
ngày đêm trăn trở để một phần giúp các em tự tin trong giao tiếp và góp phần nâng
cao chất lượng môn Ngữ văn trong nhà trường.
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 2
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn

Về vấn đề viết câu tiếng Việt, từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu, tài liệu nói đến. Các bài viết đều đề cập đến thực trạng sử dụng sai các chuẩn
mực, quy tắc tiếng Việt, trong đó có viết câu sai. Các bài viết cũng đã đưa ra rất nhiều
các biện pháp để hạn chế, khắc phục những lỗi sai đó. Trong phạm vi bài viết này, tôi
cũng mong muốn góp một phần nhỏ trong việc hạn chế các lỗi sai ngữ pháp của học
sinh phổ thông, đối tượng tôi luôn được tiếp xúc trong công việc của mình.
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài cho sáng kiến của mình là “Giúp học viên
phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn”. Qua đề tài này, tôi hi vọng
học sinh sẽ tự phát hiện và sửa những lỗi sai ngữ pháp trong bài viết của mình. Từ đó
các em sẽ không còn ngại khi viết bài, có được hứng khởi trong học tập cũng như giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
II – PHẠM VI ĐỀ TÀI
Về vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học còn đang có nhiều tranh
luận, bàn cãi, chưa đưa ra một quan điểm thống nhất. Theo yêu cầu của đề tài sáng
kiến kinh nghiệm và trong thực tế giảng dạy, tôi sẽ dựa vào những kiến thức về câu
trong ngữ pháp nhà trường và chỉ đi sâu vào những lỗi cơ bản mà học sinh thường
mắc phải khi làm bài như: câu sai cấu trúc ngữ pháp, sử dụng sai dấu câu, viết câu tối
nghĩa. Đối tượng nghiên cứu trong đề tài của tôi là những học viên của trung tâm
GDTX Tỉnh.
III – PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
Với đề tài của mình, tôi sẽ thực hiện những phương pháp sau:
- Ghi chép, thống kê các lỗi sai trong các bài viết của học viên khối 10, 11.
- Hệ thống, sắp xếp các lỗi sai thành ba loại: sai cấu trúc, viết câu tối nghĩa, sai
dấu câu.
- Tiến hành giúp học viên phát hiện lỗi, sửa lỗi trong các tiết trả bài và trong
bài “Những yêu cầu sử dụng tiếng Việt” (Ngữ văn 10, tập 2, tiết 61 + 62).
- Khảo sát kết quả quá trình thực hiện, áp dụng sáng kiến qua ba phiếu khảo
sát kiến thức về câu của học viên trung tâm GDTX Tỉnh.
PHẦN HAI: NỘI DUNG
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 3

Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
I – CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Về câu tiếng Việt:
1.1. Một số khái niệm về câu:
- Diệp Quang Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt” quan niệm: “Câu là đơn vị
ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngồi) tự lập và ngữ điệu kết thúc,
mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói, hoặc có
thể kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền
đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời cũng là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn
ngữ.”
- Hữu Quỳnh trong “Ngữ pháp tiếng Việt”: Câu là đơn vị ngữ pháp dùng để
thông báo, có tính giao tiếp, tính tình thái và tính vị ngữ.”
- Ngữ pháp tiếng Việt: “Câu là đơn vị dùng từ hay đúng hơn, dùng ngữ mà cấu
tạo nên trong quá trình tư duy thông báo; nó có ý nghĩa hồn chỉnh, có cấu tạo ngữ
pháp và có tính độc lập.”
- Cao Xuân Hạo trong “Ngữ pháp chức năng tiếng Việt”: “Câu là đơn vị cơ
bản của lời nói, của ngôn từ, của văn bản. Nó là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào
việc giao tiếp. Nói cách khác, câu là ngôn bản (văn bản) nhỏ nhất.”
1.2. Đặc điểm nổi bật của câu:
- Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có chức năng giao tiếp, chức năng biểu thị
phán đốn.
- Câu có hình thức ngữ âm và hình thức cấu tạo ngữ pháp (cấu trúc cú pháp).
- Về nội dung, câu có hai thành phần nghĩa:
+ Nghĩa miêu tả, phản ánh hiện thực, thể hiện mối quan hệ giữa câu với đối
tượng được nói tới.
+ Nghĩa tình thái, phản ánh trạng thái tình cảm, cảm xúc, thái độ, ước
nguyện, của người nói trong quan hệ với điều được nói tới trong câu hoặc với người
nghe.
1.3. Các hình thức phân loại câu:
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 4

Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
- Phân loại theo mục đích nói gồm có: câu kể, câu nghi vấn, câu cảm, câu cầu
khiến.
- Phân loại theo cấu tạo ngữ pháp gồm có: câu đơn và câu ghép.
+ Câu đơn là câu có một cụm chủ - vị làm nòng cốt.
Ví dụ: Mẹ em đi làm về.
+ Câu ghép có từ hai cụm chủ - vị trở lên, trong đó không có cụm chủ - vị nào
bao gồm cụm chủ - vị nào.
Ví dụ: Bạn Nam học giỏi nên được thầy yêu, bạn mến.
1.4. Chuẩn viết câu:
Chuẩn viết câu là cần viết đúng chính tả, dùng từ không sai. Câu đúng ngữ
pháp tiếng Việt là câu có đủ thành phần, câu rõ nghĩa, sử dụng đúng dấu câu, đúng
phong cách và phù hợp với phong cách giao tiếp, liên kết với các câu khác trong văn
bản.
2. Về các dấu câu trong tiếng Việt:
Dấu câu là phương tiện ngữ pháp dùng trong chữ viết. Tác dụng của nó là làm
rõ trên mặt chữ viết một cấu tạo ngữ pháp, bằng cách chữa ranh giới giữa các câu,
giữa các thành phần của câu đơn, giữa các vế của câu ghép, giữa các yếu tố ngữ pháp.
Dấu câu dùng thích hợp thì được người đọc hiểu rõ hơn, nhanh hơn. Không
dùng dấu câu có thể gây ra hiểu lầm. Có trường hợp vì dùng sai dấu câu mà thành ra
sai ngữ pháp, ngữ nghĩa. Cho nên quy tắc về dấu câu cần được vận dụng nghiêm túc.
Hiện nay, tiếng Việt dùng 10 dấu câu là: dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu cảm,
dấu lửng, dấu phẩy, dấu chầm phẩy, dấu hai chấm, dấu ngang, dấu ngoặc đơn, dấu
ngoặc kép.
2.1. Dấu chấm:
Dấu chấm dùng ở cuối câu tường thuật. Khi đọc, phải ngắt đoạn ở dấu chấm.
Dấu chấm là chỗ có ngắt quãng tương đối dài hơi, so với dấu phẩy, dấu chấm phẩy.
Ví dụ: Trong cảnh tù đày, Hồ Chí Minh đã chứng kiến bao sự thật về xã hội
Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Lai Tân là nơi mà người đã trãi qua trên con
đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc tỉnh Giang Tây.

GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 5
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
2.2. Dấu chấm hỏi:
Dấu chấm hỏi dùng ở cuối câu nghi vấn. Thường là trường hợp dùng trong
đoạn văn đối thoại, có người hỏi, có người đáp. Có trường hợp tự đặt ra câu hỏi, tự
trả lời trong lời đối thoại nghệ thuật.
Ví dụ: - Anh có khỏe không?
- Cảm ơn anh, tôi vẫn khỏe.
2.3. Dấu cảm:
Dùng ở cuối câu cảm xúc hay ở cuối câu cầu khiến.
Ví dụ: (1) Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
(2) Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe!
2.4. Dấu lửng (dấu ba chấm):
Dấu lửng dùng ở cuối câu (hay giữa câu, có khi đầu câu) để biểu thị rằng người
viết đã không biểu đạt hết ý.
Dấu lửng còn được dùng để biểu thị lời nói bị đứt quãng vì xúc động, ghi lại
một chỗ kéo dài của âm thanh, hay biểu thị một chỗ ngắt quãng dài giọng với ý châm
biếm, hài hước.
Dấu lửng để trong ngoặc đơn ( ) để chỉ rằng người trích dẫn có lược bớt câu
văn trích dẫn.
2.5. Dấu chấm phẩy:
Dấu chấm phẩy thường dùng để chỉ các vế trong câu ghép song song, nhất là
khi giữa các vế có sự đối xứng về nghĩa, về cả hình thức.
Ví dụ: Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc
các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia qiuyến của ta được êm ấm gối
chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; ( )
2.6. Dấu phẩy:
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 6
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Dấu phẩy dùng để chỉ ranh giới giữa bộ phận nòng cốt với bộ phận ngồi nòng

cốt của câu đơn và câu ghép. Thành phần ngồi nòng cốt có thể là thành phần than gọi,
chuyển tiếp, tình huống, khởi ý.
Ví dụ: (1) Mẹ ơi, có khách đấy!
(2) Tôi trở về thành phố Hồ Chí Minh, thành phố thân yêu của tôi.
(3) Bài hát ấy, tôi nghe nhiều lần.
2.7. Dấu hai chấm:
Dấu hai chấm dùng để báo hiệu một điều trình bày tiếp theo sau và có tác dụng
thuyết minh đối với một điều đã trình bày trước.
Ví dụ: Phong Nha gồm hai bộ phận: Động khô và Động nước.
2.8. Dấu ngang:
Dấu ngang dùng để chỉ ranh giới của thành phần chú thích.
Ví dụ: Chồng chị - anh Nguyễn Văn Dậu - tuy mới 26 tuổi nhưng đã học nghề
làm ruộng đến 17 năm.
Dấu ngang còn dùng để đặt trước lời đối thoại.
2.9. Dấu ngoặc đơn:
Dấu ngoặc đơn dùng để chỉ ranh giới của thành phần chú thích.
Ví dụ: Gọi là kênh Ba Khía vì ở đó hai bên bờ tập trung tồn những con ba
khía, chúng bám đặc sệt quanh những gốc cây (ba khía là một loại còng biển lai cua,
càng sắc tím đỏ, làm mắm xé ra trộn tỏi ớt ăn rất ngon).
Phân biệt cách dùng dấu ngang và dấu ngoặc đơn: khi thành phần chú thích có
quan hệ rõ với một từ, một ngữ trước đó, thì dùng dấu ngang; nếu quan hệ đó không
rõ thì dùng dấu ngoặc đơn.
2.10. Dấu ngoặc kép:
Dấu ngoặc kép dùng để: đánh dấu từ ngữ, câu, đoạn dẫn trực tiếp; đánh dấu từ
ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt hay có hàm ý mỉa mai; đánh dấu tên tác phẩm, tờ
báo, tập san, được dẫn.
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 7
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
II – NỘI DUNG CỤ THỂ
1. Các loại lỗi sai ngữ pháp của học viên và cách sửa:

1.1. Đặc điểm của học viên trung tâm GDTX:
Có thể nói, học viên trung tâm GDTX nói chung và học viên trung tâm GDTX
Tỉnh nói riêng có đặc điểm là không thuần nhất về độ tuổi, trình độ, hồn cảnh và so
với học sinh phổ thông chính quy thì năng lực, trình độ của họ là kém hơn hẳn. Đó là
một trong những khó khăn và thử thách lớn đối với đội ngũ giáo viên GDTX.
Hầu hết các học viên ở đây đều đã bị mất kiến thức căn bản ở các lớp dưới, do
thời gian học bị gián đoạn quá lâu và do năng lực học tập yếu kém. Riêng với bộ môn
Ngữ văn, trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy các học viên không chỉ quên kiến
thức về tác giả, tác phẩm mà đặc biệt là quên kiến thức về ngữ pháp tiếng Việt dẫn
đến kĩ năng viết câu kém, kĩ năng hành văn chưa đạt yêu cầu. Chính vì vậy, kết quả
các bài kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kì của học viên rất thấp.
1.2. Thực trạng nhận biết lỗi sai ngữ pháp trong các bài làm văn của học viên
trung tâm GDTX:
Trong khi chấm bài, đọc bài viết của các học viên, tôi cũng như các giáo viên
khác rất buồn lòng trước những bài văn chữ viết cẩu thả, sai kiến thức, không nắm
vững kiến thức, sai chính tả; đặc biệt là viết câu sai, không biết diễn đạt ý, viết câu
tối nghĩa, ý tứ trong bài văn không chặt chẽ, mạch lạc.
Điều quan trọng là trong các tiết trả bài, khi phát bài xong, tôi yêu cầu học viên
đọc lại bài, xem điểm và đọc lời phê của giáo viên rồi yêu cầu các em tự phát hiện lỗi
sai trong bài viết của mình. Kết quả là đa phần các em (70%) chỉ nhận ra các lỗi sai
như: chữ xấu, viết cẩu thả, lỗi chính tả, lỗi không phân đoạn trong bài làm; còn một
số ít em (15%) nhận thấy câu của mình “có vấn đề”. Nhưng cái “có vấn đề” đó, các
em chỉ lờ mờ nhận ra chứ chưa thực sự biết là câu của mình sai ở chỗ nào để mà sửa.
1.3. Các loại lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn của học viên và cách sửa:
Từ thực tế trên, tôi nhận thấy việc đầu tiên cần làm là thống kê, phân loại các
lỗi ngữ pháp trong bài làm văn của học viên. Trong quá trình chấm bài, tôi đã ghi lại
các câu sai của học viên, sau đó thống kê, phân loại. Kết quả, tôi thấy học viên
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 8
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
thường hay mắc những lỗi sau: viết sai cấu trúc câu, viết câu tối nghĩa, dùng sai dấu

câu.
Sau đây tôi sẽ đi vào cụ thể các lỗi sai của học viên và đưa ra những cách sửa
để khắc phục, hạn chế những lỗi sai đó.
1.3.1. Câu sai cấu trúc:
Câu bình thường trong tiếng Việt gồm hai thành phần chính là chủ ngữ và vị
ngữ. Đó là những thành phần nòng cốt của câu. Khi viết, do phát triển quá rộng một
thành phần câu nào đó, hoặc do dùng từ quan hệ không phù hợp, người viết đã lầm
tưởng rằng câu đó đã có đủ hai thành phần nòng cốt nên dẫn tới chỗ viết câu sai.
Chẳng hạn:
• Câu thiếu chủ ngữ
Câu thiếu thành phần chủ ngữ là câu sai có hiện dạng thiếu thành phần biểu thị
đối tượng của thông báo. Trong tổ chức câu bình thường, chủ ngữ là thành phần chức
năng nêu lên đối tượng mà người viết, người nói đề cập đến. Về từ loại, chủ ngữ
thường do danh từ, đại từ hay ngữ tương đương đảm nhiệm. Do đó, một câu bị xem là
thiếu chủ ngữ khi hiện dạng của của nó chỉ có động từ, tính từ có giá trị như vị ngữ
hay hiện dạng gồm có vị ngữ và thành phần phụ.
Ví dụ:
(1) Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan và cướp đi cuộc sống yên bình
của người dân. Được thể hiện rõ nét trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của
Nguyễn Đình Chiểu.
(2) Qua lời dặn dò đó, còn chỉ ra cho chúng ta thấy được tinh thần đồn kết,
yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
(3) Qua tác phẩm này, tố cáo xã hội bất công.
(4) Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã thể hiện rõ bức tranh
đời sống phố huyện.
(Các ví dụ trên đều lấy từ bài viết của học viên.)
Hiện tượng câu sai thiếu chủ ngữ xuất hiện trong bài viết của học viên khá
nhiều. Theo thống kê từ các bài viết của học viên thì lỗi này chiếm 55% tổng số lỗi
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 9
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn

học viên mắc phải. Nguyên nhân dẫn đến kiểu lỗi sai này là do học viên chưa nắm
vững cách thức tổ chức câu, cụ thể là chưa ý thức được về tính hồn chỉnh tương đối
của câu. Mặt khác, học viên thường hay nhầm lẫn thành phần trạng ngữ của câu với
bộ phận chủ ngữ. Những kiểu câu bắt đầu bằng những danh từ chỉ thời gian như:
Qua, Trong, Khi, Từ, và đi sau nó là một cụm danh từ thường khiến học viên hiểu
nhầm cụm danh từ đó là chủ ngữ nhưng thực ra các danh từ chỉ thời gian kết hợp với
các danh từ, cụm danh từ là thành phần phụ trạng ngữ của câu. Thiếu chủ ngữ làm
cho câu không hồn chỉnh về câu trúc và thông báo. Đọc những câu này, ta không hiểu
học viên nói về ai, cái gì, điều gì.
Đối với những kiểu lỗi sai này, cách sửa chữa chủ yếu là tạo ra chủ ngữ sao
cho phù hợp với vị ngữ đã có sẵn hoặc bỏ một số quan hệ từ để câu có chủ ngữ. Tất
nhiên, việc tạo ra chủ ngữ một mặt phải dựa vào vị ngữ đã có sẵn mặt khác phải xem
xét câu trong mối quan hệ nhiều mặt với các câu xung quanh.
Với các câu sai trong ví dụ trên, giáo viên có thể hướng dẫn học viên cách sửa
như sau:
Ở ví dụ (1), GV yêu cầu học viên thêm chủ ngữ chính là nội dung của tác phẩm
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Câu hồn chỉnh: Trong phút chốc, bọn xâm lược đã phá tan và cướp đi cuộc
sống yên bình của người dân. Tội ác của chúng cũng như khí phách hiên ngang, bất
khuất của nghĩa binh đã được thể hiện rõ nét trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
của Nguyễn Đình Chiểu.
Ở ví dụ (2), giáo viên yêu cầu học viên sửa theo hai cách: cách 1 là bỏ từ
“Qua”; cách 2 là thêm chủ ngữ.
Câu hồn chỉnh: Lời dặn dò đó còn chỉ ra cho chúng ta thấy được tinh thần đồn
kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Hoặc: Qua lời dặn dò đó, Bác còn chỉ ra cho chúng ta thấy được tinh thần đồn
kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Ở ví dụ (3), cách sửa cũng giống như ở ví dụ (2).
Câu hồn chỉnh: Tác phẩm này đã tố cáo xã hội bất công.
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 10

Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Hoặc: Qua tác phẩm này, Nguyễn Du đã tố cáo xã hội bất công.
Ở ví dụ (4), cũng có thể sửa bằng hai cách: cách 1 là bỏ từ “Trong”; cách 2, bỏ từ
“Của” và thêm dấu phẩy.
Câu hồn chỉnh: Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã thể hiện rõ bức
tranh đời sống phố huyện.
Hoặc: Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã thể hiện rõ bức tranh đời
sống phố huyện.
• Câu thiếu vị ngữ
Câu thiếu vị ngữ là câu sai có hiện dạng thiếu thành phần biểu thị đặc điểm,
tính chất, hành động, trạng thái của đối tượng thông báo. Trong tổ chức câu bình
thường, vị ngữ là thành phần nêu lên đặc điểm, hành động, trạng thái, tính chất của
đối tượng. Về từ loại, vị ngữ thường do động từ, tính từ hay ngữ tương đương đảm
nhiệm. Do đó, một câu bị xem là thiếu vị ngữ khi hiện dạng của nó chỉ có danh từ, đại
từ, ngữ danh từ có giá trị như chủ ngữ hay hiện dạng gồm có chủ ngữ và thành phần
phụ.
Ví dụ:
(1) Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân
thù.
(2) Bạn Nam, người chơi bóng giỏi nhất đội.
(3) Tình cảm của Bác Hồ đối với non sông, đất nước.
(4) Những gia đình chưa chịu giải tỏa.
(5) Những học sinh nghỉ học sáng nay.
Cũng như hiện tượng câu thiếu chủ ngữ, câu thiếu vị ngữ xuất hiện khá nhiều
trong bài viết của học viên, chiếm 40% tổng số lỗi. Nguyên nhân của kiểu lỗi sai này
là do học viên thường nhầm lẫn thành phần phụ chủ ngữ là vị ngữ. Hơn nữa, trong
những câu đơn mà chủ ngữ thường do một cụm chủ - vị đảm nhiệm, học viên thường
nghĩ rằng câu đó đã có vị ngữ rồi. Ví như trong câu “Những gia đình chưa chịu giải
tỏa”, các em nghĩ rằng chủ ngữ trong câu là Những gia đình, còn vị ngữ là chưa chịu
giải tỏa. Hay câu “Những học sinh nghỉ học sáng nay”, có chủ ngữ là Những học

GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 11
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
sinh và vị ngữ là nghỉ học sáng nay. Có hiện tượng đó là vì các em chưa nắm được
“Câu là đơn vị ngôn ngữ có chức năng thông báo”, có nghĩa là nó phải mang một nội
dung thông báo hồn chỉnh. Đọc lại hai câu trên, ta thấy cả hai câu đều chưa có nội
dung thông báo hồn chỉnh. Mỗi câu mới chỉ nêu ra đối tượng thông báo chứ chưa cho
biết đối tượng đó sẽ như thế nào.
Đối với kiểu câu này, cách sửa chữa chủ yếu là tạo ra vị ngữ sao cho phù hợp
với chủ ngữ đã có sẵn. Tất nhiên, việc tạo ra vị ngữ một mặt phải dựa vào chủ ngữ có
sẵn, mặt khác phải xem xét câu trong mối quan hệ với các câu khác chung quanh.
Với các câu sai trong ví dụ trên, giáo viên có thể hướng dẫn học viên cách sửa
như sau:
Ở ví dụ (1), giáo viên hướng dẫn HS hai cách sửa.
- Cách 1: Bỏ từ Hình ảnh.
Câu hồn chỉnh: Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng vào quân
thù.
- Cách 2: Thêm bộ phận vị ngữ
Câu hồn chỉnh: Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, vung roi sắt, xông thẳng
vào quân thù đã để lại trong em niềm kính phục sâu sắc.
Ở ví dụ (2), cũng có hai cách sửa.
- Cách 1: Thêm hệ động từ là, bỏ dấu phẩy
Câu hồn chỉnh: Bạn Nam là người chơi bóng giỏi nhất đội.
- Cách 2: Thêm vị ngữ
Câu hồn chỉnh: Bạn Nam, người chơi bóng giỏi nhất đội đã ghi thêm hai bàn
thắng nữa.
Ở ví dụ (3), giáo viên hướng dẫn học viên thêm vị ngữ cho phù hợp.
Câu hồn chỉnh: Tình cảm của Bác Hồ đối với non sông, đất nước là bất tử
Ở ví dụ (4), giáo viên hướng dẫn học viên thêm vị ngữ cho phù hợp.
Câu hồn chỉnh: Những gia đình chưa chịu giải tỏa đã bị mời lên văn phòng Ủy
ban làm việc.

Ở ví dụ (5), giáo viên hướng dẫn HS hai cách sửa.
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 12
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
- Cách 1: bỏ từ Những, thêm từ được, đưa thành phần trạng ngữ lên đầu câu.
Câu hồn chỉnh: Sáng nay, học sinh được nghỉ học.
- Cách 2: thêm vị ngữ
Câu hồn chỉnh: Những học sinh nghỉ học sáng nay đều bị kỉ luật.
• Câu thiếu chủ ngữ và vị ngữ
Câu thiếu chủ ngữ và vị ngữ là câu sai có hiện dạng thiếu thành phần nòng cốt,
có nghĩa là câu không có nội dung thông báo. Trong trường hợp này, câu vẫn có cụm
chủ - vị nhưng là cụm chủ - vị của thành phần phụ như trạng ngữ nên học viên dễ lầm
tưởng là mình đã viết câu đúng. Theo thống kê từ bài viết của học viên, lỗi này chiếm
20% tổng số lỗi.
Ví dụ:
(1) Khi chúng tôi đến lớp.
(2) Ngày nay, khi khoa học và kĩ thuật đã phát triển.
(3) Trong lúc mọi người đang bận rộn.
(4) Với tình huống truyện đặc sắc.
Cách sửa lỗi ở kiểu câu này là trước tiên giáo viên phải chỉ ra cho học viên
thấy được lỗi sai của câu và nguyên nhân dẫn đến lỗi sai đó rồi hướng dẫn các em
dựa vào văn cảnh để thêm chủ ngữ, vị ngữ cho câu. Cụ thể có thể sửa như sau:
Ở 4 ví dụ trên, mỗi câu mới chỉ có thành phần trạng ngữ, sửa bằng cách thêm
chủ ngữ, vị ngữ làm nòng cốt câu.
Câu hồn chỉnh:
(1) Khi chúng tôi đến lớp, các bạn đã có mặt đông đủ.
(2) Ngày nay, khi khoa học và kĩ thuật đã phát triển, con người tiết kiệm sức
lao động được nhiều hơn.
(3) Trong lúc mọi người đang bận rộn, Kiên và An đã trốn đi chơi.
(4)Với tình huống truyện đặc sắc, Vũ Trọng Phụng đã vẽ lên hàng loạt chân
dung biếm họa trong gia đình cụ cố Hồng.

GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 13
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
1.3.2. Câu tối nghĩa:
Câu tối nghĩa là câu diễn đạt ý không rõ ràng, câu sai logic, sai quy chiếu. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến lỗi sai này, trong đó có hai nguyên nhân căn bản: thứ
nhất, do người viết yếu kém trong khả năng diễn đạt (không biết diễn đạt bằng ngôn
ngữ những suy nghĩ của mình sao cho mạch lạc, dễ hiểu); thứ hai, người viết không
nắm vững kiến thức về câu, vốn từ ít ỏi nên thường “bí từ” trong diễn đạt ý tưởng và
không thể thông báo được nội dung thông tin muốn nói bằng một câu, một văn bản.
Với học viên, hiện tượng khó khăn khi diễn đạt ý tưởng trong các bài nói, bài
viết rất phổ biến. Ở các viết, nguyên nhân dẫn đến lỗi sai này, ngồi hai nguyên nhân
kể trên, là do các em không nắm vững kiến thức về tác giả, tác phẩm, những tri thức
về đối tượng, lập luận, diễn đạt không gãy gọn, khúc chiết. Kết quả là các bài viết này
thường rối rắm trong diễn đạt, hành văn không trong sáng, lủng củng.
Ví dụ:
(1) Đối với người con gái trong Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du với tấm
lòng chủ nghĩa nhân đạo xót xa với Nguyễn Du và đau xót cho những người con gái
bị chà đạp thời phong kiến.
(2) Qua tấm lòng đối đãi với sự chân thành muốn có được chữ của Huấn Cao.
Ông đã cảm nhận được sự chân thành của viên quản ngục. Ông đã nhận lời.
(3) Ngay ở trong một ngục tù đầy tối tăm, hôi hám cùng với một tên quan coi
ngục luôn muốn xin được chữ của Huấn Cao. Đấy là một sở nguyện của viên quản
ngục.
Thật sự, khi đọc những câu này, giáo viên không thể hiểu được ý học viên đang
nói gì. Để sửa chữa lỗi sai này, trong các giờ trả bài, giáo viên sẽ đọc những lỗi sai
này cho cả lớp nghe, yêu cầu các em phát biểu nhận định và tìm ra lỗi rồi cho học
viên mắc lỗi viết lại cho đúng. Đồng thời, giáo viên cũng nhắc nhở học viên, để
không mắc những lỗi này, đầu tiên các em phải nắm vững kiến thức; thứ hai, các em
nên diễn đạt ý trong những câu ngắn, không nên viết những câu dài dễ dẫn đến sai.
1.3.3. Sai dấu câu:

GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 14
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Trong chương trình Ngữ văn THCS, học viên đã được học về dấu câu. Mục
tiêu của những bài học này là học sinh phải biết cách sử dụng các dấu câu phù hợp.
Thế nhưng, một thực tế đáng buồn là nhiều học viên vẫn chưa ý thức được vai trò của
dấu câu trong việc biểu đạt nội dung thông báo hay nói đúng hơn là chưa biết cách sử
dụng dấu câu cho phù hợp. Biểu hiện của việc sử dụng sai dấu câu trong bài viết của
học viên là:
- Không dùng dấu chấm câu khi biểu đạt hết một nội dung thông báo nên có
những bài viết các em không sử dụng một dấu câu nào;
- không dùng dấu phẩy để phân tách các thành phần câu, biểu thị ý liệt kê;
- không dùng dấu hai chấm để phân tách các thành phần song song trong câu
ghép;
- không dùng dấu hai chấm và ngoặc kép khi dẫn lời nói gián tiếp;, trích
nguyên văn một câu nói hoặc một câu thơ, một dẫn chứng trong tác phẩm;
Ví dụ:
(1) Đọc tác phẩm Tắt đèn, qua cuộc đời chị Dậu. Ta hiểu biết được khá sâu
sắc cuộc đời của nhân dân ta, của người phụ nữ nông dân Việt Nam.
Lỗi sai: Dùng sai dấu chấm.
Sửa: thay dấu chấm bằng dấu phẩy.
Câu sau khi sửa: Đọc tác phẩm Tắt đèn, qua cuộc đời chị Dậu, ta hiểu biết
được khá sâu sắc cuộc đời của nhân dân ta, của người phụ nữ nông dân Việt Nam.
(2) Trong những nhân vật mà tôi đã học tôi yêu thích nhất là nhân vật Thúy
Kiều. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Lỗi: thiếu dấu phẩy và dùng sai dấu chấm.
Sửa: thêm dấu phẩy và bỏ dâu chấm.
Câu sau khi sửa: Trong những nhân vật mà tôi đã học, tôi yêu thích nhất là
nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
(3) Trong cuộc sống của em có rất nhiều kỉ niệm đẹp, vui, buồn nhưng kỉ niệm
vui nhất và đáng nhớ nhất là lúc sinh nhật lần thứ 10 của em được ba mẹ đã tặng cho

em con gấu nhồi bông khi đó con người của em rất là vui vì ba mẹ vẫn còn nhờ đến
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 15
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
ngày sinh nhật của mình vậy mà mình cứ nghĩ là ba mẹ mình và những người xung
quanh không còn ai nhớ đến ngày vui của mình.( )
Trong ví dụ này, học viên không chỉ mắc lỗi về dấu câu mà còn mắc lỗi về diễn
đạt, dùng từ.
(4) Với tư tưởng ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn, sáng nay, tồn
thể học sinh lớp 11A2 đã đi thăm các gia đình mẹ Việt Nam anh hùng.
Lỗi sai: không dùng dấu ngoặc kép khi trích dẫn câu tục ngữ.
Sửa: Đánh dấu ngoặc kép vào câu tục ngữ.
Câu sau khi sửa: Với tư tưởng “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”,
sáng nay, tồn thể học sinh lớp 11A2 đã đi thăm các gia đình mẹ Việt Nam anh hùng.
(5) Nguyễn Tuân đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc Vang bóng một thời Một
chuyến đi Thiếu quê hương.
Lỗi: Thiếu dấu hai chấm, dấu phẩy, dấu ba chấm biểu thị ý liệt kê
Câu sau khi sửa: (5) Nguyễn Tuân đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc: Vang
bóng một thời, Một chuyến đi, Thiếu quê hương,
Sử dụng không đúng dấu câu sẽ làm cho câu không rõ nghĩa và có thể khiến
người khác hiểu sai ý của người viết. Trong thực tế, việc sử dụng sai dấu câu còn có
thể gây ra những hậu quả khôn lường. Vì vậy cho nên giáo viên cần nói cho học viên
biết về tầm quan trọng của dấu câu thông qua những mẫu chuyện vui để học viên ý
thức được cần phải sử dụng đúng dấu câu.Ví dụ, giáo viên có thể kể cho học sinh
nghe câu chuyện là: một anh chàng đi xuất khẩu lao động có người yêu ở quê nhà, vì
điều kiện, thư từ không thể liên lạc thường xuyên nên cô gái nói với chàng trai là
mình sẽ đi lấy chồng. Chàng trai hoảng hốt, liền đánh vội một bức điện ý muốn nói là
cô gái hãy chờ mình. Ít lâu sau, chàng trai trở về thì cô gái đã đi lấy chồng. Anh ta
trách cô gái là bội ước. Lúc này, cô gái mới đưa bức điện của chàng trai là: “Đừng
chờ anh!”. Chàng trai xem bức điện mới ngẩn người ra, là do mình viết thiếu một dấu
phẩy. Đáng lẽ anh ta phải viết là “Đừng, chờ anh!”

1.4. Nguyên nhân của những lỗi sai trên:
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 16
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Có nhiều nguyên nhân dẫn dến những lỗi sai trên, bao gồm cả nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Sau đây, tôi sẽ đưa ra một số nguyên nhân để từ đó có thể
đưa ra một số biện pháp khắc phục, hạn chế.
1.4.1. Về chương trình sách giáo khoa:
Từ thực trạng những lỗi sai trên, một câu hỏi đặt ra là: Tại sao một môn học
được học với số tiết nhiều nhất trong tất cả các môn học ở trường phổ thông mà hiệu
quả lại kém như vậy? Lỗi không phải hồn tồn tại phương pháp giảng dạy của giáo
viên, hay việc học của học sinh mà một phần là ở chương trình, sách giáo khoa, cách
tổ chức dạy và học lâu nay của chúng ta.
Chương trình, sách giáo khoa, cách dạy và học lâu nay thiên về nhồi nhét kiến
thức, ít có thực hành, nhất là dạy và học phân môn tiếng Việt như một phân môn
khoa học, có thực hành cũng chỉ thực hành qua những mẫu câu, những đoạn văn khô
cứng, không đặt nó trong những môi trường giao tiếp sống động thì hệ quả viết sai
ngữ pháp như trên là điều không tránh khỏi.
1.4.2. Về phía giáo viên:
Giáo viên là người kiểm tra, đánh giá kết quả của học viên thông qua các bài
kiểm tra. Qua kết quả thu được, giáo viên điều chỉnh lại quá trình dạy của mình. Thế
nhưng, có một số giáo viên, khi chấm bài chỉ dựa vào độ dài của bài viết, chữ đẹp hay
xấu để phết điểm cho học viên. Làm như vậy, giáo viên sẽ không thấy được những lỗi
sai trong bài viết của học viên để giúp các em sửa chữa. Điều đó dễ gây ra tâm lí chán
nản cho học sinh khi học văn dẫn đến chất lượng dạy và học không đạt hiệu quả.
Có một thực tế đang diễn ra là hầu hết các giáo viên đều ít chú trọng đến các
tiết trả bài. Các tiết trả bài hầu như đều bị “chiếm dụng” để giảng bài mới nên những
lỗi trong bài viết của học viên đều không được kịp thời phát hiện, sửa chữa dẫn đến
việc các em không biết là mình bị sai và lâu sẽ thành thói quen khó sửa.
1.4.3. Về phía học viên:
Có thể nói, nguyên nhân trước hết là do yếu tố chủ quan của học viên ngày

nay. Đó là ý thức coi trọng trong quá trình viết, sử dụng ngôn ngữ viết của học viên
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 17
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
chưa cao, kiến thức, kĩ năng vận dụng tiếng mẹ đẻ vốn đã yếu kém lại thêm bệnh lười
biếng, ít dành thời gian cần thiết cho việc rèn luyện, sửa chữa.
Mặt khác, trong quá trình học tập ở nhà trường phổ thông, khi làm bài viết,
không ít học viên có thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào những bài văn mẫu, không chịu tìm
tòi, học hỏi, luyện viết. Cho nên khi đứng trước một đề bài yêu cầu thể hiện bằng
ngôn ngữ viết, học viên tỏ ra bất lực, lúng túng, không phân biệt được đâu là câu văn
đúng, câu văn sai ngữ pháp. Thành ra, sai phạm ấy cứ kéo dài thành thói quen, bám
theo cả cuộc đời.
1.5. Một số biện pháp góp phần hạn chế, khắc phục những lỗi sai của học viên:
- Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp rèn luyện kĩ
năng viết câu cho học sinh. Cụ thể như sau:
+ Khi chấm bài, giáo viên sẽ nói rõ cho học viên biết mức điểm sẽ trừ nếu các
em mắc lỗi.
+ Trong các tiết thực hành, luyện tập, giáo viên yêu cầu học viên viết những
đoạn văn ngắn đảm bảo đúng trọng tâm theo yêu cầu của đề và đặc biệt phải viết
đúng ngữ pháp. Việc kiểm tra ngữ pháp phải do các em thực hiện dưới sự hướng dẫn
của giáo viên.
+ Trong những giờ trả bài, giáo viên phải hướng dẫn học viên phát hiện và sửa
lỗi ngữ pháp để học viên biết cái sai của mình.
- Không chỉ giáo viên bộ môn Ngữ văn mà các giáo viên bộ môn khác cũng
phải kết hợp rèn luyện cho học viên cách viết câu.
- Học viên phải có một cuốn sổ tay để ghi chép những câu hay để học hỏi.
Đồng thời học viên phải thật sự kiên trì luyện tập, sửa chữa theo hướng dẫn của giáo
viên.
III - ỨNG DỤNG THỰC HÀNH
Từ những vấn đề trên, tôi thấy rằng đề tài của tôi có thể áp dụng vào các tiết
trả bài, các tiết thực hành tiếng Việt, tiết Tập làm văn,… Sau đây, tôi xin áp dụng vào

một tiết trả bài.
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 18
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Trong khi chấm bài, tôi ghi lại những lỗi sai của học viên và tên những học
viên mắc lỗi sai. Đến khi trả bài, sau khi phát bài, nhận xét ưu, khuyết điểm, tôi yêu
cầu học viên đọc lại bài, đọc lời phê rồi tự phát hiện các lỗi sai của mình như lỗi
chính tả, dùng từ, viết câu, diễn đạt. Sau đó, các học viên trao đổi bài cho để phát
hiện lỗi và sửa lỗi cho nhau. Các em thực hiện các thao tác đó trong 10 phút.
Các học viên sửa lỗi sai trong bài làm văn
Sau 10 phút, tôi yêu cầu các em tự phát hiện ra lỗi sai của mình giơ tay, sau đó đến
những em phát hiện lỗi sai của bạn giơ tay. Đối chiếu với ghi chép của mình, tôi sẽ
biết những em nào phát hiện đúng.
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 19
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Tiếp theo, tôi gọi các học viên phát hiện lỗi đúng như ghi chép của mình lên
bảng sửa. Với lỗi chính tả, dùng từ tôi cho các em tự sửa với nhau. Còn lỗi ngữ pháp,
các em lên bảng sửa.
Học viên lên bảng sửa lỗi
Trong thời gian đó, tôi sẽ xuống lớp xem phần phát hiện lỗi của các em khác
có đúng không. Sau khi các học viên sửa lỗi xong, cả lớp bắt đầu nhận xét. Tôi hỏi
các em: “Những lỗi các bạn mắc các em đã từng mắc chưa?”. Kết quả là rất nhiều
em nhận thấy những lỗi sai của bạn cũng là lỗi của mình. Tôi xem xét phần sửa lỗi
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 20
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
của học viên và bắt đầu chỉ ra các lỗi sai mà các em hay mắc phải rồi hướng dẫn các
em cách sửa.
Trong các tiết trả bài sau, tôi cũng làm theo trình tự trên nhưng dần dần tôi ít
phải chỉ cho các em cách sửa vì các em đã nắm được và hơn nữa là các em cũng ít
mắc các lỗi sai hơn.
Sau gần một năm thực hiện, để các em thuần thục hơn trong việc phát hiện lỗi

và sửa lỗi ngữ pháp đồng thời cũng để đánh giá kết quả áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm của mình, tôi đã làm 3 phiếu “Khảo sát kiến thức về câu của học viên trung
tâm GDTX Tỉnh”. Ba phiếu đó có nội dung như sau:
PHIẾU KHẢO SÁT KIẾN THỨC VỀ CÂU
CỦA HỌC VIÊN TRUNG TÂM GDTX TỈNH
(Phiếu số 1 – nhận dạng câu sai)
Người thực hiện: GV Lê Thị Xiêm
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 21
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Đối tượng khảo sát: học viên khối 10, 11
Khoanh tròn vào câu trả lời đúng:
1. Câu “Mây tan, mưa tạnh.” là
a. Câu ghép b. Câu đơn
2. Câu “ Cơn mưa dầm kéo dài lê thê suốt cả ngày chủ nhật đã tạnh hẳn rồi.” là
a. Câu ghép b. Câu đơn
3. Câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” là
a. Câu ghép b. Câu đơn
c. Câu ghép chính phụ d. Câu ghép đẳng lập
4. Câu “Bà tôi tóc đã bạc.” có vị ngữ là
a. Tính từ b. Động từ
c. Danh ngữ d. Cụm chủ vị
5. Câu “Bài hát Trịnh Công Sơn sáng tác.”
a. Đúng b. Sai vì thiếu chủ ngữ
c. Sai vì thiếu vị ngữ d. Sai vì thừa chủ ngữ
6. Câu “Con chó của tôi nó bị ốm.”
a. Đúng b. Sai vì thiếu chủ ngữ
c. Sai vì thiếu vị ngữ d. Sai vì thừa chủ ngữ
7. Câu “Những gia đình chưa chịu giải tỏa.”
a. Đúng b. Sai vì thiếu chủ ngữ
c. Sai vì thiếu vị ngữ d. Sai vì thừa chủ ngữ

8. Câu “Ngày nay, khi khoa học và kĩ thuật đã phát triển.”
a. Đúng b. Sai vì thiếu chủ ngữ
c. Sai vì thiếu vị ngữ d. Sai vì thiếu chủ ngữ và vị ngữ
9. Câu “Chi tiết mụ dì ghẻ sai hai chị em đi bắt cá, ai bắt nhiều cá sẽ được thưởng
chiếc yếm đỏ.”
a. Sai vì thiếu vị ngữ b. Sai vì thiếu chủ ngữ
c. Sai vì lẫn lộn chủ ngữ d. Sai vì thừa chủ ngữ và vị ngữ
10. Câu “Qua tác phẩm Tắt đèn của ông đã ca ngợi phẩm chất của người phụ nữ Việt
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 22
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Nam.”
a. Thiếu chủ ngữ b. Thiếu vị ngữ
c. Thừa chủ ngữ d. Thiếu chủ ngữ và vị ngữ
11. Câu “Qua bản báo cáo đã làm sáng tỏ mọi vấn đề.”
a. Thiếu chủ ngữ b. Thiếu vị ngữ
c. Thừa chủ ngữ d. Thiếu chủ ngữ và vị ngữ
12. Câu “Qua truyện Lão Hạc đã nói lên sự nghèo khổ và lòng yêu thương con người
vô bờ bến của Nam Cao.”
a. Thiếu chủ ngữ b. Thiếu vị ngữ
c. Thừa chủ ngữ d. Thiếu chủ ngữ và vị ngữ
13. Câu “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương trong truyện Lục Vân Tiên.”
a. Đúng b. Sai vì thiếu chủ ngữ
c. Sai vì thiếu vị ngữ d. Sai vì thừa chủ ngữ
14. Câu “Anh bộ đội bị hai vết thương.một ở đùi và một ở Khe Sanh.”
a. Đúng b. Sai quy chiếu
c. Sai logic d. Sai về phong cách
PHIẾU KHẢO SÁT KIẾN THỨC VỀ CÂU
CỦA HỌC VIÊN TRUNG TÂM GDTX TỈNH
(Phiếu số 2 – sửa câu sai)
Người thực hiện: GV Lê Thị Xiêm

Đối tượng khảo sát: học viên khối 10, 11
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 23
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Chỉ ra lỗi sai ngữ pháp và sửa lỗi trong các câu sau:
1.Quyết hi sinh cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Lỗi sai:……………………………………………………………………………
Cách sửa:…………………………………………………………………………
Câu sau khi sửa
………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………….
2. Tình cảm của Bác Hồ đối với non sông đất nước.
Lỗi sai:………………………………………………………………………………
Cách sửa:………………………………………………………………………………
Câu sau khi sửa …
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
3. Trong xã hội cũ, cái xã hội làm cho con người chỉ biết sống vì mình.
Lỗi sai:…………………………………………………………………………………
Cách sửa:………………………………………………………………………………
Câu sau khi sửa
………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………….
4. Bằng bốn câu thơ tuyệt tác của Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét tâm trạng của Thúy
Kiều.
Lỗi sai:………………………………………………………………………………
Cách sửa:…………………………………………………………………………….
Câu sau khi sửa
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
5. Trong hội nghị đã bầu ra ban chấp hành mới.

Lỗi sai:………………………………………………………………………………
Cách sửa:……………………………………………………………………………
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 24
Giúp học viên phát hiện và sửa lỗi sai ngữ pháp trong bài làm văn
Câu sau khi sửa
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
6. Đọc tác phẩm Tắt đèn, qua cuộc đời của chị Dậu,
Lỗi sai:………………………………………………………………………………
Cách sửa:……………………………………………………………………………
Câu sau khi sửa
………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………….
7. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Huấn Cao đã thể hiện rất thành công.
Lỗi sai:………………………………………………………………………………
Cách sửa:……………………………………………………………………………….
Câu sau khi sửa
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
8. Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đã thể hiện qua những bức tranh
đời sống phố huyện ngày nay.
Lỗi sai:………………………………………………………………………………
Cách sửa:……………………………………………………………………………
Câu sau khi sửa
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………….
9. Thạch Lam tả cảnh hai đứa trẻ.
Lỗi sai:………………………………………………………………………………
Cách sửa:……………………………………………………………………………
Câu sau khi sửa

………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………….
GVTH: LÊ THỊ XIÊM Trang 25

×