Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

chủ nghĩa duy vật nhân bản feuerbach & những giá trị, hạn chế của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.22 KB, 18 trang )

Đại Học Quốc Gia TP.HCM
Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN FEUERBACH & NHỮNG GIÁ
TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Người thực hiện: LÊ XUÂN TÙNG
Mã số: : CH1102012
Lớp: Cao học khóa 6
HÀ NỘI – 2011
LỜI MỞ ĐẦU

L.Feuerbach (1804 - 1872) - là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển
Đức. Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo,
phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản
Đức (1848).
Feuerbach là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất;
thức, tư duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là sản
phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản
chất con người, vì thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh
chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm
tầm thường về vấn đề con người. Song, nguyên lý nhân bản của Feuerbach không
triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy
tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động
biến đổi thực hiện thực.
Mục đích của bài tiểu luận này nhằm tìm hiểu về “CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN FEUERBACH & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ”.
Tài liệu nghiên cứu dựa trên Giáo trình Triết học
(1)
(dùng cho học viên cao


học và nghên cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); Các bài giảng của TS
Bùi Văn Mưa; Triết học phần I &II
(2)
(dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Một số tài liệu trên báo chí và trên
Internet…
Chân thành cảm ơn !
LÊ XUÂN TÙNG
(1): Giáo trình Triết học – Nhà xuất bản Lý luận chính trị (2006)
(2): Triết học phần I&2 (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học
Tiểu luận triết học
TS Bùi Văn Mưa làm chủ biên , LHNB, Trường ĐH Kinh tế TPHCM, 2010.
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ RA ĐỜI CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN FEUERBACH
1.Tiểu sử Feuerbach: Ludwig Feuerbach (1804-1872) - đại biểu cuối cùng
của triết học cổ điển Đức, sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên
cường của nền triết học Đức - nhà duy vật và khai sáng. Triết học Feuerbach là sản
phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình thành vào cuối những năm 30 - đầu
những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế cách mạng ở nhiều nơi trên nước
Đức. L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí thức có tên tuổi. Người cha là
một luật sư, muốn con trở thành người hữu ích cho chế độ đương thời, vì thế đã
khuyên Feuerbach chọn một nghề có khả năng thành đạt trong cuộc sống. Năm 1823
với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần học của trường
đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến Berlin,
nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học trò
nghiêm túc của Hegel. Năm 1928 Feuerbach gởi cho Hegel bản luận án của mình
mang tên “ Về l tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng tâm
nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Năm 1829 Feuerbach lúc
đó 25 tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại
đây Feuerbach trình bầy logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng

nhân bản mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng -
chủ nghĩa duy vật nhân bản. Khái niệm trung tâm - tình yêu. Năm 1841 Feuerbach
cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to
lớn. Những năm tiếp theo ông viết “Luận cương khởi đầu về cái cách triết học”
(1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của tương lai”(1843), Feuerbach đứng bên
lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là người thu động về chính trị, mặc dù hoan
nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng đó. Thời kỳ cách mạng
Feuerbach viết và công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng mấy ai chú ý. Giai cấp
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
2
Tiểu luận triết học
tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì học không thích thú gì cái tình
yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó có những biểu
hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị.
Mãi mãi Feuerbach cũng chỉ là một người dân chủ xã hội, mặc dầu những
năm cuối cuộc đời ông đọc say sưa bộ “Tư bản”, trao đổi bằng thw từ với không ít
nhà Mac-xit. Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris(1871) thất bại.
2. Sơ lược về lịch sử & Triết học cổ điển Đức.
Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học Tây Âu ở ngưỡng của thế giới
hiện đại. Trước hết các đại biểu của nó, bắt đầu từ Kant, đã mở đột phá khẩu vào
cách hiểu nghiêm túc, nhưng siêu hình của thời đại trước về bức tranh của thế giới.
Sự phân cực nghiêm túc, nhưng siêu hình của thời đại trước về bức tranh của thế
giới. Sự phân cực đơn giản “khoa học - không khoa học”, “đúng - sai”, “động -
tĩnh” đã không còn phù hợp trước đòi hỏi thâm nhập vào những mối liên hệ có
chiều sâu, bên trong sự vật. Phương pháp biện chứng dù còn sơ lược và mang tính
chuyển tiếp như ở Kant, hay thiên về chủ thể tính tương liên như ở Fichte. Đóng góp
đáng kể của triết học cổ điển Đức vào lý luận nhận thức thể hiện ở chỗ họ không chỉ
tiếp tục truyền thống đề cao vai trò của tư duy lý tính, mà còn khắc phục cả chủ
nghĩa duy lý lẫn chủ nghĩa duy nghiệm trong triết học thế kỷ XVII - XVIII, tìm hiểu
một cách biện chứng quá trình nhận thức, phác thảo những cơ sở đầu tiên của học

thuyết về chân lý. Tuy nhiên việc đề cao tuyệt đối vai trò của tinh thần, ý thức, sự
cường điệu một mặt, một khía cạnh của quá trình nhận thức, làm nảy sinh các
phương án khác nhau của chủ nghĩa duy tâm và thần bí, mà điển hình là chủ nghĩa
duy tâm Fichte (duy tâm chủ quan). Trong triết học xã hội các đại diện của triết học
cổ điển Đức một mặt kế thừa truyền thống nhân văn, khai sáng trong lịch sử, nhất là
tư tưởng khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, mặt khác đào sâu nhiều vấn đề mà thời đại
trước chưa đặt ra, hoặc chưa được phân tích sâu sắc, như các lĩnh vực triết học văn
hóa, triết học lịch sử và các tri thức khoa học nhân văn khác.
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
3
Tiểu luận triết học
3.Chủ nghĩa duy tâm của Heghen & những ảnh hưởng đối với FeuerBach.
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là một trong những hình thức cơ bản,
là đỉnh cao trong sự phát triển của phép biện chứng trước Mác, phản ánh hoàn cảnh
lịch sử đặc biệt, đầy mâu thuẫn của xã hội Đức và tính chất hai mặt của giai cấp tư
sản Đức trước cách mạng tư sản. Quan điểm phát triển là tư tưởng cơ bản, xuyên
suốt triết học của Hêghen. Hêghen đã coi sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại dưới
những tên gọi như: “ý niệm tuyệt đối”, “lý tính thế giới”, “tinh thần thế giới” là bản
nguyên của mọi hiện tượng trong giới tự nhiên và xã hội. Sự đồng nhất giữa tư duy
và tồn tại theo Hêghen không phải là sự đồng nhất tuyệt đối, siêu hình, mà là sự
đồng nhất bao hàm sự khác biệt. Chính mâu thuẫn giữa đồng nhất và khác biệt đã
làm cho bản nguyên của thế giới - “ý niệm tuyệt đối” có tính tích cực và hoạt động.
Sự hoạt động của “ý niệm tuyệt đối” thể hiện qua ba giai đoạn phát triển. Trên cơ sở
chủ nghĩa duy tâm khách quan, ngoài việc phát triển học thuyết về các quy luật và
các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, lần đầu tiên Hêghen đã nghiên cứu các
tắc cơ bản của logic biện chứng. Chính Hêghen đã đặt vấn đề về sự thống nhất giữa
phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức. Hêghen coi logic học là khoa học
về mối liên hệ biện chứng của các khái niệm, là khoa học “ mô tả lĩnh vực tư
tưởng trong sự hoạt động nội tại của bản thân nó, hay nói một cách khác, trong sự
phát triển tất yếu của nó”. Theo Hêghen, sự vận động và phát triển của các khái

niệm và bởi những mâu thuẫn nảy sinh trong bản thân khái niệm đó. Phép biện
chứng là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen. Ngược lại, hệ thống
triết học của Hêghen là duy tâm, siêu hình. Chính hệ thống đó đã dẫn Hêghen đến
thừa nhận điểm cuối cùng trong sự phát triển của thế giới là nhận thức. Về thực chất,
Hêghen áp dụng nguyên lý phát triển chỉ đối với hiện tượng tinh thần. Tuy thừa
nhận mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nhưng không phải là mâu
thuẫn thực sự của thới tự nhiên và xã hội, mà chỉ là mâu thuẫn trong sự phát triển
của tinh thần. Mâu thuẫn không phải được giải quyết bằng cách mạng, mà bằng con
đường hòa bình: cái mới thỏa hiệp với cái cũ.
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
4
Tiểu luận triết học
Triết học của Hêghen và triết học của Feuerbach là hai nguồn gốc trực tiếp
về lý luận của triết học Mác. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa hạt nhân
hợp lý trong triết học Heeghen là phép biện chứng, cải tạo nó trên tinh thần của chủ
nghĩa duy vật, biến nó thành phép biện chứng duy vật như là học thuyết khoa học về
các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Cũng chính nhờ chủ nghĩa
duy vật của Feuerbach đã giúp Mac và Angghen đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm
của Heeghen và phái Heghen trẻ. Mac và Angghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của
Feuerbach phát triển lên một hình thức mới cao nhất đó là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
4.Vài nét về Chủ nghĩa duy vật của Feuerbach
Feuerbach là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Người có
công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và phát
triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Feuerbach là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất;
ý thức, tư duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là
sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề
bản chất của con người, vì thế, đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của
triết học. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc

đấu tranh chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa
duy tâm tầm thường về vấn đề con người. Song, nguyên lý nhân bản học của
Feuerbach không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là
thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy được mặt xã hội của con
người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
5
Tiểu luận triết học
CHƯƠNG II
NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN FEUERBACH
1. Quan điểm về con người
a. Mối quan hệ của con người với tự nhiên
Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ nghĩa
duy vật nhân bản, Feuerbach cho rằng, con người không phải là sản phẩm của
thượng đế như các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý
niệm tuyệt đối như Hêgen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên, ông viết: "Giới tự
nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là
con người, bởi vì con người là một thực thể hoạt động thiếu tự chủ và vô thức". Như
vậy, sự phát sinh và tồn tại của con người cũng giống như sự phát sinh và tồn tại của
của các hiện tượng tự nhiên khác, chỉ có điều khác là: con người là sản phẩm tiến
hoá cao nhất của giới tự nhiên, là một sinh vật bậc cao, có tính vượt trội so với các
loài động vật khác ở đời sống tinh thần của nó: "Sự khác biệt căn bản giữa loài
người và loài vật là gì? Câu trả lời chung rất đơn giản là: đó là sự khác nhau trong ý
thức đúng với nghĩa chân chính của từ này Bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có
ở chỗ, khi chủ thể có khả năng nhận thức được loài của mình, bản chất của mình.
Động vật nhận thức mình như một cá thể, nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác
mà thôi, chứ không phải như một loài bởi vậy, động vật sống đơn giản một mình,
còn con người sống có bạn. Đời sống nội tâm của con vật hoà đồng với thế giới bên
ngoài, còn con người sống với cả hai chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời sống
nội tâm của con người liên quan mật thiết với loài và bản chất của nó. Con người

suy nghĩ, bàn luận và nói với chính mình".
Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ
giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo
nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời
sống con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự
tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính thế giới này quy định
sự tồn tại và phát triển của các giác quan con người chứ không phải ngược lại như
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
6
Tiểu luận triết học
chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng tồn tại không phải để cho con
mắt nhìn, mà con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại
không phải để cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có không khí, bởi
vì, nếu không có không khí thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một mối quan hệ tất yếu
giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ. Mối quan hệ qua lại này chính là cơ sở, là
bản chất của sự sống. Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng, nếu
như con người có nhiều cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều
thuộc tính hay nhiều sự vật của tự nhiên hơn con người có vừa đủ những giác quan
cần thiết để cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó.
b. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Từ việc quan sát hình thể bên ngoài của con người,.cho đến mọi hoạt động
lao động sản xuất cũng như hoạt động tinh thần của nó, Feuerbach cho rằng, con
người là một sinh vật có hình thể vật lý -sinh lý ở trong không gian và thời gian, nhờ
vậy nó có năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội so với các loài sinh vật khác.Bản
chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác
(tồn tại) và tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có
thể tồn tại và phát triển như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh
vật hiện có.Và sai lầm của chủ óc, nghĩa duy tầm là sự toan tính thủ tiêu sự thống
nhất toàn vẹn đó của con người, tách rời tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến
tư duy thành một thực thể siêu tự nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất.

Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như
những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau đó là một sụ khẳng định vòng vo, là lối
nói nửa vời, tách đôi trái ngược.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tầm và chủ nghĩa nhị
nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Feuerbach đã thừa
nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại -
chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất
phát từ tư duy… cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
7
Tiểu luận triết học
nguyên lý trí tuệ là sự tất yếu và chân lý bản chất của tồn tại với tư cách một tồn
tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là chủ thể, còn tư duy là thuộc
tính (của chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này, theo Feuerbach, chúng ta cần
đến từ đâu đến, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến, thì tinh thần cũng đến
từ đấy ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc làm của cơ thể, của đầu óc con
người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở chỗ, nó là hoạt động của đầu óc.
c. Mối quan hệ giữa con người với con người
Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc
tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Feuerbach đi đến việc tìm hiểu sâu
hơn bản chất tự nhiên - sinh học của con người. "Bản chất chung của con người là
gì? Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim.
Con người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm.
Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng
lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu Trong ý chí, tư duy và
tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của con người và mục đích tồn
tại của nó con người tồn tại để nhận thức, yêu thương và mong muốn. Nhưng mục
đích của lý tính, của ý chí, của tình yêu là gì? là để làm cho con người trở thành
người tự do. Mọi mong muốn, khát vọng tự nhiên của con người theo quan điểm của
Feuerbach không phải xuất phát từ tư tưởng thuần tuý mà chúng phản ánh đời sống

hiện thực của con người và do đời sống đó quy định. Nói cách khác, trong con
người, cái sinh lý quy định cái tâm lý, cái tự nhiên - sinh học quy định cái xã hội,
nhu cầu vật chất quy định hành động xã hội. " Điều ác xuất hiện không phải trong
đầu óc, trong trái tim - Feuerbach viết - mà xuất hiện chính trong dạ dày con người".
Quan điểm này của Feuerbach đã làm cho Ăngghen rất chú ý. Trong tác phẩm
Lútvich phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ăngghen đánh giá cao
luận điểm của Feuerbach: "Trong một cung điện, người ta suy nghĩ khác trong một
túp lều tranh", "Nếu như vì đói, vì nghèo, mà trong cơ thể không có chất dinh
dưỡng, thì trong đầu óc anh, trong tình cảm và trong trái tim anh cũng không có chất
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
8
Tiểu luận triết học
nuôi đạo đức". Đây là luận điểm hoàn toàn mới so với đương thời, vì theo quan
điểm này thì điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quy định suy nghĩ và tư
tưởng của nó.
d. Mối quan hệ giữa con người với thần
Nhìn nhận con người vừa như là một cá thể chứa đầy tham vọng cá nhân, vừa
như là sản phẩm của con người, sản phẩm của văn hoá và lịch sử chính là cơ sở lý
luận để Feuerbach xem xét mối quan hệ giữa người và thần. Feuerbach cho rằng,
viện nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của tôn giáo phải xuất phát từ việc nghiên
cứu bản chất của con người và đời sống hiện thực của nó.
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng yếu tố
quan trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của
con người. "Thượng Đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ-
Feuerbach viết- mà là thực thể tâm lý". Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm nghiệm
hay trạng thái đau khổ của con người là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Nhưng sự
chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng thái xúc cảm không phải là hiện tượng
có tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm , mà chúng có tính
khách quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội.
Feuerbach viết "Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con người nhưng trong giấc mơ

đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất trong vương quốc của hiện
thực, chúng ta nhìn thấy các đối tượng của hiện thực không phải trong thế giới thực
tế của tính tất yếu mà là trong thế giới say mê của trí tưởng tượng và sự kỳ quặc.
Nhiệm vụ của tôi là bóc trần bản chất đích thực của tôn giáo và triết học tư biện hay
thần học, chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên ngoài, nghĩa là biến đối tượng
tưởng tượng thành đối tượng hiện thực". Trên tinh thần như vậy, ông phê phán các
quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm
sinh.
Theo Feuerbach, tình cảm tôn giáo cũng như các ý niệm và biểu tượng của nó
luôn thay đổi theo sự thay đổi của lịch sử xã hội loài người. Tử lập trường của chủ
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
9
Tiểu luận triết học
nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng, trong con người luôn có những ham muốn, nhu
cầu, khát vọng và thái độ ích kỷ. Những nhu cầu sinh học và trạng thái tâm sinh lý
này có thể được đáp ứng hoặc có thể không được đáp ứng, từ đó gây nên trong con
người hai xu hướng trạng thái tâm lý: hoặc sợ hãi, bất lực, nỗi buồn chán, đau khổ
(nếu con người gặp những điều bất hạnh) hoặc sự ngưỡng mộ, kính phục, lòng biết
ơn (nếu con người gặp những thuận lợi). Feuerbach viết "Tôn giáo là sự phản ánh
thời thơ ấu của nhân loại hay trong tôn giáo con người là đứa trẻ. Đứa trẻ không thể
thực hiện ý muốn của mình bằng sức mạnh của nó, phải nhờ đến một tồn tại mà nó
cảm thấy lệ thuộc tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân chính, có ý
nghĩa trong thời thơ ấu của nhân loại".
2.Quan điểm về tự nhiên
Đời sống của người nguyên thuỷ hàng ngày bắt phải tiếp xúc với muôn vàn
sự vật, hiện thể tượng đa dạng của giới tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, sấm sét,
bão lụt, giông tố, sông sâu, biển rộng, núi non hiểm trở, rừng rậm, cây cao và lẽ đó
nhiên là con người phải lệ thuộc vào chúng để tồn tại. Từ đó làm phát sinh tâm lý
hay tình cảm trong con người đối với giới tự nhiên: "Điều mục đầu tiên của tôi trong
Bản chất của tôn giáo có thể nói một cách vắn tắt là: cơ sở của tôn giáo là tình cảm

về sự lệ thuộc của con người. Trong ý nghĩa đầu tiên, giới tự nhiên chính là đối
tượng của tình cảm lệ thuộc này. Vì vậy, giới tự nhiên nói chung là khách thể đầu
tiên của tôn giáo". Từ trước tới giờ đối tượng của các bài giảng của tôi chính là ở
chỗ, tình cảm về sự lệ thuộc chính là cơ sở và nguồn gốc của tôn giáo còn đối
tượng của sự lệ thuộc đó chính là giới tự nhiên". Vậy tại sao giới tự nhiên lại trở
thành đối tượng đầu tiên bắt buộc con người phải lệ thuộc Feuerbach giải thích như
sau:
Thứ nhất, bởi giới tự nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của con người, là
cái tác động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết của con người: "cái bắt
con người, lệ thuộc, cái mà con người cảm thấy lệ thuộc, cái mà từ đó con người
biết được sự lệ thuộc của mình chính là giới tự nhiên, là đối tượng của cảm giác, tất
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
10
Tiểu luận triết học
cả những ấn tượng mà giới tự nhiên tạo ra cho con người thông qua các cảm giác
đều có thể trở thành lý do của sự sùng bái tôn giáo".
Thứ hai, sự sùng bái giới tự nhiên còn bắt nguồn từ việc trong quá trình sống,
do thể chất yếu ớt của mình, con người thường có tâm lý sợ hãi các hiện tượng của
giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng bất lực trước các hiện tượng đó: "Quan niệm về sức
mạnh vô biên như là đặc tính cơ bản của thần thánh xuất hiện và phát triển trong con
người đặc biệt khi con người so sánh hành động của mình với hành động của tự
nhiên. Con người không thể tạo nên cây cỏ, không làm nên bão tố và thời tiết, không
thể làm sáng loé như chớp, gào thét như sấm tất cả những hiện tượng tự nhiên này
vượt trội sức mạnh của con người, làm cho con người cảm thấy bất lực. Chính vì
vậy, thực thể tạo nên các hiện tượng đó đối với con người là một thực thể siêu nhân
- thực thể có tính thần thánh".
3.Quan điểm về xã hội
Feuerbach cố gắng xây dựng quan điểm xã hội học nhân đạo trên cơ sở đạo
đức học. Ở đây Feuerbach chịu ảnh hưởng của phong trào ánh sáng (Montesquieu,
Voltaire ) và chủ nghĩa duy vật pháp thế kỷ XVIII. Từ khẩu hiệu tự do - bình đẳng

- bắc ái Feuerbach đã nêu lên tuyên ngôn nổi tiếng: “hãy thống nhất mọi người trên
tinh thần nhân bản!)
Con người bình đẳng như chính thiên nhiên tạo ra. Vấn đề này trong triết học
cận đại đề cập nhiều, nhưng đến Feuerbach mang thêm nhiều nét đặc trưng, thể hiện
tâm trạng của tầng lớp tiến bộ trong giai cấp tư sản Đức. Nếu con người bình đẳng
với nhau theo bản chất tự nhiên của mình, thì mọi đặc quyền đặc lợi đẳng cấp trên
đều trái với tự nhiên, do đó cần phải loại trừ.
Con người do thiên nhiên tạo ra để sống và hưởng thụ chứ không phải để đau
khổ. Quan niệm như vậy có lẽ còn thua các nhà duy vật Pháp. Cả Diderot lẫn
Hollbach đều đòi quyền tự do hoạt động kinh tế như quyền tự do của con người
trong xã hội công dân. Feuerbach hầu như không quan tâm đến cơ cấu kinh tế - xã
hội hiện thực mà ở đó một giai cấp này thống trị một giai cấp khác, không nhìn thấy
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
11
Tiểu luận triết học
mối liên hệ giữa áp bức và bóc lột với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Trong khi xem xét con người như một thực thể tự nhiên, Feuerbach cố gắng vạch ra
những điều kiện tồn tại tự nhiên của con người trong phạm vi xã hội tư sản, ảnh
hưởng của nó tới hoạt động sáng tạo của nhân cách cá thể. Ông tỏ ra hài lòng với
trật tự xã hội tư sản, nơi mà theo ông, con người đạt tới hạnh phúc một cách dễ
dàng, nói cách khác, con người có thể yên tâm với địa vị hiện tại. “Tất cả các sự vật,
ngoài trừ những trường hợp phản tự nhiên - vui lòng ở nơi mà chúng có, và vui lòng
trở thành cái mà nó có”. Đó là sự biện hộ cho xã hội tư sản, một sự biện hộ vô hình
mà nhà triết học không để ý.
4.Quan điểm về tôn giáo
Phân tích một cách toàn điện về nguồn gốc phát sinh của tôn giáo, Feuerbach
có cơ sở khoa học để đi đến kết luận: "Không phải Thượng đế đã sáng tạo nên con
người theo hình đáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính con
người đã sáng tạo nên Thượng đế theo hình dáng của mình mọi Thượng đế đều là
tồn tại được sáng tạo nên bằng tư tưởng tượng. Con người u sầu, ốm yếu phản ánh

tâm trạng của mình trong hình ảnh một Thượng đế tương tư, con người vui vẻ thì
ngược lại, họ miêu tả Thượng đế với bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa dạng của
con người quy định tính đa dạng của Thượng đế". Như vậy, có thể nói một cách
ngắn gọn rằng, Feuerbach đã truy tìm bản chất của tôn giáo trong bản chất của con
người, ông viết. "Bản chất thần thánh không là cái gì khác như là bản chất con
người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải phóng khỏi những giới hạn cá nhân,
nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, được khách quan hoá, được nhìn
nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác đinh về bản chất thần
thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con người. Dựa trên những khảo
cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Feuerbach thấy rằng trong thực tế thường diễn
ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, sự thù địch giữa người theo đạo
và kẻ dị giáo. Hơn nữa có những người có chức sắc tôn giáo cao trong giáo hội,
song họ vẫn có nhũng hành vi phi đạo đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
12
Tiểu luận triết học
của các nhà thần học cho rằng dường như phủ định thương đế là một bước dẫn tới
sự tiêu diệt quan hệ đạo đức.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
NHÂN BẢN FEUERBACH
1. Giá trị
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach đã để lại cho di sản văn hóa nhân loại
vô cùng quý giá. Là một người có tư tưởng cách tân triết học, Feuerbach cho rằng
triết học là một khoa học về thực tại trong chân lý và tính tổng thể của nó. Tính tổng
thể của thực tại không là gì khác ngoài giới tự nhiên, và điều này chỉ biết được nhờ
sự cảm nhận thông qua sự tác động của các hiện tượng khác từ bên ngoài. Điều này
không có nghĩa là triết học phải hy sinh cho những khoa học chuyên biệt cụ thể như
toán, lý, hóa, sinh, tâm lý, sinh lý học. Bên cạnh đó Feuerbach còn đưa ra nhiều nét
độc đáo trong chủ nghĩa vô thần trong tư tưởng triết học của mình Feuerbach đều

viết về tôn giáo, và khi viết về mảng này thì ông nghiên cứu phán xét tôn giáo là cơ
sở, điều kiện tất yếu để khám phá bản tính của con người và ngược lại. Nghiên cứu
một cách căn bản lịch sử hình thành và phát triển của tôn giáo đã cho Feuerbach cơ
sở lý luận vững vàng để khẳng định rằng: Chủ nghĩa phiếm thần và tôn giáo đa thần
phản ánh sự lệ thuộc của con người vào giới tự nhiên cũng như nhân cách hóa các
hiện tượng tự nhiên, từ đó mà phát sinh ra biểu tượng về thần sông, thần núi như
đã miêu tả trong thần thoại Hy Lạp.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh
chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm
tầm thường về vấn đề con người.
2. Hạn chế
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach còn không triệt để, vì ông hiểu
con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật.
Ông không thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
13
Tiểu luận triết học
Trong quan hệ đối với triết học của Hêghen, Ông có thái độ phủ định sạch
trơn, không thấy được thành tựu quý giá của Hêghen là phép biện chứng đã kế thừa
và phát triển. Ông hiểu tính quy luật, tính tất yếu, tính nhân quả một cách siêu
hình. Cho nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông còn mang nặng tính sieeuhinhf.
Trong lý luận nhận thức, Feuerbach đã tiếp tục truyền thống cảm giác luận duy vật,
chống lại thuyết không thể biết và lối tư biện trừu tượng. Ông không phủ nhân vai
trò của tư duy trong nhân thức, nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach chưa
thoát khỏi tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Những hạn chế của nguyên tắc nhân bản trong thế giới quan của Feuerbach
còn thể hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này, ông lại
rơi vào lập trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và ý định
đưa ra nguyên tắc đạo đức chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại lịch sử.
ông trình Feuerbach là phá bỏ những ảo ảnh duy tâm, chứng tỏ rằng đời sống

nhân loại là chân lý của những ý nghĩa siêu nhiên. Nhưng lý thuyết của tiên sinh còn
mang tính trừu tượng, vì chỉ nói đại cương rằng chính nhân đức là nội dung chân
thực của thần đức, nhưng không giải thích cụ thể vì sao bấy nhiêu hình thức siêu
nhiên đã xuất hiện trong lịch sử. Sở dĩ là chưa tìm được phương cách thiết thực
để định nghĩa nội dung đời sống nhân loại, vậy không có cách giải quyết các vấn đề
cụ thể. Hệ thống Hegel chứa chan ý nghĩa thiết thực, giả trang dưới hình thức duy
tâm. Feuerbach trở lại vật thể, nhưng lại thiếu cách thuyết minh cái ý nghĩa phong
phú của đời sống.
Feuerbach tiêu biểu cho hạng tiểu trưởng giả cách mệnh, nhìn nhận rõ ràng
rằng thế kỷ thứ mười chín, những ý niệm duy tâm đã hết giá trị thiết thực, và chỉ còn
cách che đậy những điều đê tiện của chính thể quân chủ độc đoán còn duy trì bên
Đức, vậy chỉ có thể công nhận những ý nghĩa xuất hiện trực quan trong đời thiết
thực, nhưng lại thiếu lực lượng để thành công trong nhiệm vụ cách mệnh và kiến
thiết, vậy không thể nào hiểu rõ vấn đề lịch sử. Theo Feuerbach, phương pháp nên
dùng để chấn hưng nhân loại là tình thương nhau, đặc biệt là luyến ái, thực hiện một
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
14
Tiểu luận triết học
tôn giáo mới, bảo đảm sự thống nhất xã hội bằng dây liên quan trực tiếp. Giải pháp
sơ sài vì tiên sinh không rõ những điều kiện thiết thực của đời sống trong xã hội.
Không hiểu rằng từ đời thượng cổ ái tình đã gây ra ba nhiêu mâu thuẫn. Vì thương
nhau trong gia đình, các gia đình lại chống nhau và chống quyền lợi quốc gia. Vì
thương nhau trong nước, các nước lại đối kháng, hại nhau trong vô số chiến tranh.
3. Ý nghĩa.
Tuy không có những công trình triết học đồ sộ như Kant và Hêghen, song
những gì mà Feuerbach để lại cho di sản văn hóa nhân loại là vô cùng quý giá. Cùng
với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, chủ nghĩa duy vật siêu hình của
Feuerbach đã trở thành một tiền đề đề lý luận quan trọng cho sự hình thành triết học
Mac. Tuy nhiên C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ tiếp nhận những hạt nhân hợp lý, những
nhân tố duy vật trong hệ thống triết học của hai nhà tiền bối này, mà phê phán

những hạn chế, lọc bỏ tất cả những yếu tố bất hợp lý của họ như tính duy tâm khách
quan, tính bảo thủ (Hêghen ) phương pháp pháp nhìn nhận siêu hình về xã hội
(Feuerbach).
Cũng chính nhờ chủ nghĩa duy vật của Feuerbach đã giúp Mác và Ăngghen
đoạn tuyết với chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ. Mác và Ăngghen
đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của Feuerbach phát triển lên một hình thức mới cao
nhất đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
15
Tiểu luận triết học
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN
Với tư cách là một khuynh hướng, một giai đoạn phát triển trong dòng chảy
lịch sử chung của triết học nhân loại, triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Kant, kết thúc
bằng Feuerbach. Tuy chỉ tồn tại trên diễn đàn tư tưởng hơn một thế kỷ, song triết
học cổ điển Đức đã có nhiều đóng góp cho lịch sử triết học nhân loại và gây nên một
tiếng vang lớn về phương diện chính trị - xã hội - giáo dục.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach phản ánh tiếng nói tri ân của thời
đại khai sáng, đang bước sang phần kết của nó - đó là một giai đoạn lịch sử mà con
người vươn lên đòi quyền sống của mình, đòi lại tất cả những gì mình bị chế độ
phong kiến chuyên chế và giáo hội tước đoạt trước đó. Dưới ảnh hưởng của nhiều
trường phái sinh lý học đương thời, Feuerbach đã tiếp cận con người như một thực
thể sinh học, theo ông con người có đầy đủ mọi khát vọng tự nhiên như ăn, uống,
sinh hoạt giới tính, biểu hiện tâm tư tình cảm, ước muốn, những nhu cầu tự nhiên
đó của con người là cơ sở sinh học tạo nên đời sống hiện thực vốn có của nó.
Tuy đạt được khá nhiều thành tựu trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của
mình, song Feuerbach chưa thể nào “thoát khỏi vương quốc của sự trừu tượng, để đi
tới hiện thực sinh động”. Trên phương diện lý luận, Feuerbach lớn tiếng phê phán
tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, song thực tế, ông vẫn chưa thể trút bỏ bộ áo thâm
chùng của giáo hội ban tặng và chiếc mũ duy tâm tự biện của triết học Hêghen.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1: Giáo trình Triết học – Nhà xuất bản Lý luận chính trị (2006)
2: Triết học phần I&2 (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học ( TS Bùi Văn Mưa làm chủ biên , LHNB, Trường ĐH
Kinh tế TPHCM, 2010).
3: Các Bài giảng Triết học lớp Cao học k6 trường CNTT của TS: Bùi Văn Mưa
4: Một số website trên Internet: - />HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
16
Tiểu luận triết học
-
MỤC LỤC

Lời mở đầu ……………………………………………………………………. 1
Chương I: Lịch sử ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach…………… 2
1) Tiểu sử Feuerbach ……………………………………………………… 2
2) Sơ lược về lịch sử & Triết học cổ điển Đức ………………………… 3
3) Chủ nghĩa duy tâm của Heghen ……………………………………… 4
4) Vài nét sơ về Chủ nghĩa duy vật của Feuerbach ……………………… 5
Chương II: Nội dung chính của Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
1) Quan điểm về con người…………………………………………………6
a) Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên……………………………6
b) Mối quan hệ giữa tư duy & tồn tại………………………………… 7
c) Mối quan hệ giữa con người với con người …………………………8
d) Mối quan hệ giữa người & thần …………………………………… 9
2) Quan điểm về tự nhiên ………………………………………………… 10
3) Quan điểm về xã hội ….……………………………………………… 11
4) Quan điểm về tôn giáo ……………………………………………… 12
Chương III: Những giá trị & hạn chế của Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
1) Giá trị…………………………………………………………………….13
2) Hạn chế ………………………………………………………………….13
3) Ý nghĩa ………………………………………………………………… 15

Chương IV: Kết luận ………………………………………………………… 16
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………… 16
HVTH: Lê Xuân Tùng Trang
17

×