Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.7 KB, 16 trang )

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 1 -

PHẦN MỞ ĐẦU

Triết học là là sản phẩm tinh thần của hiện thực và thời đại, là nền tảng hình
thành và phát triển của xã hội loài người. Triết học được xem như là gốc rễ của các
ngành khoa học. Triết học phát triển từ thấp đến cao, giống như một cây cổ thụ từ
lúc nảy mầm, phát triển đến khi trưởng thành.
Ludwig Feuerbach nổi lên như đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức.
Và ông đã mang đến vinh quang cho toàn bộ nền triết học tư sản cổ điển. Feuerbach
là nhà triết học duy vật một mình chống lại hệ thống triết học duy tâm của triết học
tư bản cổ điển Đức, chống lại tôn giáo, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật
trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848). Triết học của ông chất chứa
đầy tính duy vật khả tri và nhân bản, nó là cội nguồn tư tưởng của triết học Marx .
Feuerbach là nhà triết học duy vật, song là nhà duy vật nhân bản. Ông coi con
người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại
là vấn đề bản chất con người, vì thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất
của triết học. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach đóng góp to lớn vào cuộc
đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy
tâm tầm thường về vấn đề con người. Song nguyên lý nhân bản của Feuerbach
không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể
thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy được mặt xã hội của con người trong
hoạt động biến đổi thực hiện thực.
Mục đích của bài tiểu luận này nhằm tìm hiểu về “Chủ nghĩa duy vật nhân
bản và vai trò của nó đến sự ra đời triết học Marx”.
Về phương pháp nghiên cứu bài viết này dùng phương pháp mô tả, phân tích
dựa trên các tài liệu sẵn có. Bài viết chỉ giới hạn trong những điểm cơ bản nhất về
quan điểm trong triết học Feuerbach. Tuy nhiên, với những giới hạn nhất định và
khả năng nghiên cứu có hạn nên bài tiểu luận không tránh khỏi một số thiếu sót, rất


mong được những lời góp ý chân thành của Thầy.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 2 -

I. Hoàn cảnh ra đời chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach:
Vào cuối thế 18 đầu thế kỷ 19, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế –
xã hội mới, Chủ nghĩa tư bản được thiết lập ở một số nước như Italia, Anh, Pháp.
Sự thiết lập đó đã đem lại một nền sản xuất ưu việt, và tân tiến chưa từng có trong
lịch sử so với tất cả các chế độ trước đó. Trong khi các nước Tây Âu đạt được những
thành tựu to lớn như vậy nhưng nước Đức cho đến đầu thế kỷ 19 vẫn là một quốc
gia phong kiến lạc hậu.
Trong bối cảnh đó, nước Đức cần phải có cách nhìn mới về hiện tượng tự
nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cần có quan niệm mới về khả năng và hoạt
động của con người. Với sứ mạng lịch sử đó, Triết học cổ điển Đức thời kỳ này đạt
được sự phát triển chưa từng có đồng thời góp phần phát triển về tự nhiên, văn hoá
nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu về tư tưởng của nước Đức cũng như các nước
phương tây.
Ludwig von Andreas Feuerbach (28/7/1804 - 13/9/1872) là một nhà triết
học Đức và nhà nhân chủng học. Ông là đại diện cuối cùng, là sự kết thúc vẻ vang
của Triết học cổ điển Đức. Ông là nhà cải cách triệt để, nhà duy vật và vô thần.
Feuerbach bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một nhà duy tâm, là môn đệ và
là học trò của Hegel. Nhưng L.Feuerbach đã nhìn thấy những mâu thuẫn, những
nghịch lý trong hệ thống triết học của Hegel. L.Feuerbach đã xây dựng một chủ
nghĩa duy vật mới – chủ nghĩa duy vật nhân bản. Triết học Feuerbach là sản phẩm
tất yếu của những điều kiện mới, hình thành vào cuối những năm 30 - đầu những
năm 40.
Feuerbach - nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kỳ trước Marx - đã có công
lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hegel cũng như chủ nghĩa duy tâm
và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của triết học duy vật. Feuerbach

một mình chống lại chủ nghĩa duy tâm, tuy nhiên ông chỉ là nhà triết học duy vật
trong lĩnh vực tự nhiên nhưng trong lĩnh vực xã hội ông vẫn bị ảnh hưởng của chủ
nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 3 -

Feuerbach là nhà triết học duy vật song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con
người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại
là vấn đề bản chất của con người, vì thế, đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao
nhất của triết học. Nguyên lý nhân bản học của Feuerbach không triệt để, vì ông
hiểu con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh
vật. Ông không thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện
thực.
Triết học của Hegel và triết học của Feuerbach là hai nguồn gốc trực tiếp về
lý luận của triết học Marx. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx đã kế thừa hạt nhân
hợp lý trong triết học Hegel là phép biện chứng, cải tạo nó trên tinh thần của chủ
nghĩa duy vật, biến nó thành phép biện chứng duy vật như là học thuyết khoa học về
các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Cũng chính nhờ chủ nghĩa
duy vật của Feuerbach đã giúp Marx và Angghen đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm
của Hegel. Marx và Angghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của Feuerbach phát triển
lên một hình thức mới cao nhất đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử.

II. Nội dung chính của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
1. Quan điểm về con người
1.1. Mối quan hệ của con người với tự nhiên:
Feuerbach cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế, nó
cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối như Hegel nói, mà là sản phẩm
của giới tự nhiên.

Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ
giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo
nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời
sống con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự
tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính thế giới này quy định
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 4 -

sự tồn tại và phát triển của các giác quan con người chứ không phải ngược lại như
chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định.
Vật chất – giới tự nhiên có trước ý thức, tồn tại vô cùng đa dạng và tự nó.
Không gian, thời gian và vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại vật
chất - giới tự nhiên; sự vận động của giới tự nhiên theo quy luật nhân quả.
Con người thống nhất với giới tự nhiên. Con người là sản phẩm tất yếu cao
nhất của giới tự nhiên. Con người dựa vào giới tự nhiên để thỏa mãn mọi nhu cầu;
giới tự nhiên đã ảnh hưởng đến mọi tâm tư, tình cảm, hiểu biết của con người, làm
cho con người này khác con người kia. Bằng cảm giác, tư duy con người nhận thức
giới tự nhiên.
1.2. Mối quan hệ giữa con người với con người:
Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc
tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Feuerbach đi đến việc tìm hiểu sâu
hơn bản chất tự nhiên - sinh học của con người.
Con người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình
cảm. Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là
năng lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu. Mục đích của lý
tính, của ý chí, của tình yêu là để làm cho con người trở thành người tự do. Nói cách
khác, trong con người, cái sinh lý quy định cái tâm lý, cái tự nhiên - sinh học quy
định cái xã hội, nhu cầu vật chất quy định hành động xã hội.
Con người mang bản tính vừa cá nhân vừa cộng đồng có bản chất là yêu:

Bản tính cá nhân: Mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý trí, ý
chí, trái tim… để nhận thức, khát vọng, cảm xúc ; là con người đang tồn tại bằng
xương bằng thịt, đang sống, đang làm việc, đang yêu, đang nhận thức.
Bản tính cộng đồng: Mỗi con người cá nhân bị ràng buộc với những người
khác. Hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ có được trong sự hòa hợp với cộng đồng.
Mỗi con người tiềm tàng một năng lực sáng tạo kỳ vĩ và một tình yêu mênh
mông dành cho con người. Bản chất con người nằm trong tình yêu, thể hiện qua các
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 5 -

nhu cầu, khả năng, khát vọng, ham muốn.
1.3. Mối quan hệ giữa con người với thần:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng yếu tố
quan trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của
con người. “Thượng Đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ mà là thực
thể tâm lý”. Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ của
con người là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Nhưng sự chiêm nghiệm hay trạng thái
đau khổ, trạng thái xúc cảm không phải là hiện tượng có tính chủ quan như chủ
nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm , mà chúng có tính khách quan, nghĩa là gắn liền
với các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội. Trên tinh thần như vậy, ông phê
phán các quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính
bẩm sinh.
1.4. Quan niệm về nhận thức
Khách thể của nhận thức là giới tự nhiên và con người chứ không phải lý tính
logic trừu tượng hay thượng đế. Chủ thể của nhận thức là con người đang tồn tại có
cảm giác và lý trí.
Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận; Tư duy lý luận xử lý tài
liệu cảm tính để khám phá ra chân lý – chân lý là sự phù hợp của tư tưởng trong chủ
thể với đối tượng được tư tưởng – khách thể.

Nhờ vào năng lực của cảm giác và lý trí mà con người có thể nhận thức đầy
đủ giới tự nhiên; đó là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ
khác nhau.

2. Quan điểm về tự nhiên:
Tại sao giới tự nhiên lại trở thành đối tượng đầu tiên bắt buộc con người phải
lệ thuộc được Feuerbach giải thích như sau:
Thứ nhất, bởi giới tự nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của con người, là
cái tác động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết của con người.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 6 -

Thứ hai, sự sùng bái giới tự nhiên còn bắt nguồn từ việc trong quá trình sống,
do thể chất yếu ớt của mình, con người thường có tâm lý sợ hãi các hiện tượng của
giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng bất lực trước các hiện tượng đó.

3. Quan điểm về xã hội
Feuerbach cố gắng xây dựng quan điểm xã hội học nhân đạo trên cơ sở đạo
đức học. Ở đây Feuerbach chịu ảnh hưởng của phong trào ánh sáng (Montesquieu,
Voltaire ) và chủ nghĩa duy vật pháp thế kỷ XVIII. Từ khẩu hiệu tự do - bình đẳng
- bác ái, Feuerbach đã nêu lên tuyên ngôn nổi tiếng: “hãy thống nhất mọi người trên
tinh thần nhân bản!
Con người bình đẳng như chính thiên nhiên tạo ra. Vấn đề này trong triết học
cận đại đề cập nhiều, nhưng đến Feuerbach mang thêm nhiều nét đặc trưng, thể hiện
tâm trạng của tầng lớp tiến bộ trong giai cấp tư sản Đức. Nếu con người bình đẳng
với nhau theo bản chất tự nhiên của mình, thì mọi đặc quyền đặc lợi đẳng cấp trên
đều trái với tự nhiên, do đó cần phải loại trừ. Con người do thiên nhiên tạo ra để
sống và hưởng thụ chứ không phải để đau khổ.


4. Quan điểm về tôn giáo
Phân tích một cách toàn diện về nguồn gốc phát sinh của tôn giáo, Feuerbach
có cơ sở khoa học để đi đến kết luận: “Không phải Thượng đế đã sáng tạo nên con
người theo hình đáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính con
người đã sáng tạo nên Thượng đế theo hình dáng của mình. Mọi Thượng đế đều là
tồn tại được sáng tạo nên bằng tưởng tượng. Con người u sầu, ốm yếu phản ánh tâm
trạng của mình trong hình ảnh một Thượng đế tương tư, con người vui vẻ thì ngược
lại, họ miêu tả Thượng đế với bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa dạng của con
người quy định tính đa dạng của Thượng đế. Như vậy, có thể nói một cách ngắn gọn
rằng, Feuerbach đã truy tìm bản chất của tôn giáo trong bản chất của con người. Tôn
giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 7 -

Feuerbach nói: “Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì chúa của con
người như thế. Giá trị không vượt quá giá trị con người. Ý thức của Chúa là tự ý
thức của con người, nhận thức của chúa là tự nhận thức của con người”.
Tôn giáo vừa là ảo tưởng vừa là mơ ước, khát vọng đời thường của con
người; là sự tha hóa bản chất của con người. Tôn giáo là sản phẩm tâm lý & nhận
thức của con người; con người sinh ra thượng đế.

5. Quan điểm của Ludwig Feuerbach về đạo đức
Theo Feuerbach tính cảm giác là động lực chủ yếu quyết định hành vi của
mỗi cá nhân và xã hội nói chung. Feuerbach phân biệt đạo đức của con người với
đạo đức tôn giáo, Feuerbach phủ nhận Thượng đế, đề cao tôn giáo “thuần khiết” của
tình yêu. Do vậy đạo đức học của Feuerbach có cơ sở từ nguyên lí nhân bản và chủ
nghĩa tự nhiên.
Bao trùm lên toàn bộ đạo đức học của Feuerbach là nguyên lý tình yêu phổ
quát. Tình yêu là công cụ sáng tạo, cơ sở xây dựng quan hệ giữa người với người,

đối với hận thù là công cụ phá hoại, tiêu diệt xung đột.
Về hình thức, Feuerbach là một người hiện thực chủ nghĩa, ông lấy con người
làm xuất phát điểm. Ông cho rằng con người mang bản tính cá nhân, và con người –
cá nhân cũng mang bản tính cộng đồng, có bản chất nằm trong tình yêu. Theo đó,
mỗi con người là một cá thể sinh học đặc biệt có lý trí, có ý chí, có trái tim … của
riêng mình để nhận thức, để khát vọng đam mê, để rung động cảm xúc. Hạnh phúc
của mỗi cá nhân là hạnh phúc được kiếm tìm trong sự hòa họp với mọi người, trong
cộng đồng. Tình yêu giữa con người với nhau vừa là phương tiện vừa là mục đích
của sự hòa hợp xã hội, và hơn thế nữa, nó còn là động lực tiến bộ xã hội, bởi vì nó là
sự thể hiện rõ nhất bản chất người trong mỗi con người.
Theo Feuerbach, lòng mong muốn hạnh phúc là bẩm sinh ở con người, do đó,
nó phải là cơ sở của mọi đạo đức. Song, lòng mong muốn hạnh phúc phải chịu hai
sự uốn nắn. Thứ nhất, của những hậu quả tự nhiên của hành vi của chúng ta: sau trác
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 8 -

táng thì đến chán chường, sau thói quen chơi bời quá độ thì đến bệnh tật. Thứ hai,
của những hậu quả xã hội của những hành vi đó: nếu như chúng ta không tôn trọng
lòng mong muốn hạnh phúc đó của những người khác thì những người đó sẽ phản
kháng lại và phá hoại lòng mong muốn hạnh phúc của chúng ta. Do đó, nếu như
chúng ta muốn thỏa mãn lòng mong muốn hạnh phúc của chúng ta, chúng ta phải
biết đánh giá đúng những hậu quả của hành vi của chúng ta, và ngoài ra, chúng ta
phải tôn trọng những người khác cũng có quyền bình đẳng với chúng ta trong việc
mong muốn hạnh phúc. Do đó, sự tự hạn chế một cách hợp lý bản thân, và tình yêu -
lại tình yêu! - trong quan hệ với những người khác, là những quy tắc cơ bản của đạo
đức của Feuerbach, mà từ đó rút ra những quy tắc khác.
Tóm lại, học thuyết của Feuerbach về đạo đức thì cũng giống như tất cả
những học thuyết trước đó. Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi
dân tộc, mọi hoàn cảnh.


III. Những giá trị & hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach
1. Giá trị:
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach đã để lại cho di sản văn hóa nhân loại
vô cùng quý giá.
Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời kỳ trước Karl Marx,
công lao vĩ đại của Feuerbach là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghiã duy
tâm và thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết học duy vật; đã
giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hegel và chủ nghĩa duy tâm nói
chung.
Cải cách triết học của Feuerbach thể hiện trước hết trong việc giải quyết một
cách duy vật vấn đề cơ bản của triết học - mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, tư
duy và tồn tại. Trong khi giải quyết vấn đề này, Feuerbach đã đưa thuyết nhân bản
đến gần chủ nghĩa duy vật. Luận điểm xuất phát của triết học Feuerbach là giới tự
nhiên tồn tại không lệ thuộc vào ý thức, nó là cơ sở của tồn tại con người, ngoài tự
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 9 -

nhiên và con người, không có gì cả, bản chất của Thượng đế chẳng qua là sự phản
ánh hư ảo bản chất con người.
Nguyên lý nhân bản của triết học Feuerbach là xoá bỏ sự tách rời giữa tinh
thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên tao ra. Feuerbach đấu
tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là quan
niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm tôn giáo và thần học cho rằng Thượng
đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người tạo ra Thượng đế. Khác với
Hegel nói về sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Feuerbach nói về sự tha hoá của bản
chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người
là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một
hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người

không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng
đế; từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên
đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Công lao to lớn của Feuerbach còn ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống chủ
nghĩa duy tâm mà còn đấu tranh chống lại những người duy vật tầm thường. Ông đã
có quan niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về các quá trình lý –
hoá; công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Như vậy, Feuerbach đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh của
chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra mối liên
hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu tranh loại bỏ tôn
giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có công khôi
phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII. Là tiền đề, hết sức quan
trọng cho chủ nghĩa Marx, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Marx.

2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu, triết học của Feuerbach cũng không thể không có
những hạn chế nhất định của nó.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 10 -

Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach còn không triệt để, vì ông hiểu
con người chỉ là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật.
Ông không thấy được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
Feuerbach cho rằng cần phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi
phối mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Con người trong quan niệm
của Feuerbach là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những đặc tính sinh học
bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy
tâm. Ông nói rằng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do
vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một

tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Trong điều kiện của xã hội tư sản
Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp, đầy rẫy sự đàn áp, bốc lột thì chủ nghĩa nhân
đạo về tình yêu thương con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Trong quan hệ đối với triết học của Hegel, Ông có thái độ phủ định sạch trơn,
không thấy được thành tựu quý giá của Hegel là phép biện chứng để kế thừa và phát
triển. Ông hiểu tính quy luật, tính tất yếu, tính nhân quả một cách siêu hình. Cho
nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông còn mang nặng tính siêu hình. Trong lý
luận nhận thức, Feuerbach không phủ nhân vai trò của tư duy trong nhận thức, nên
chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach chưa thoát khỏi tính trực quan của chủ
nghĩa duy vật trước Marx.
Những hạn chế của nguyên tắc nhân bản trong thế giới quan của Feuerbach
còn thể hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này, ông lại
rơi vào lập trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và ý định
đưa ra nguyên tắc đạo đức chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại lịch sử. Feuerbach
hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo mà ông muốn hoàn thiện nó. Bản thân triết
học cũng hoà vào tôn giáo, theo ông, tôn giáo là mối quan hệ thương yêu giữa người
và người. Và chính vì thế mà theo Feuerbach thì cuối cùng tình yêu nam nữ là một
trong những hình thức cao nhất của việc thực hành tôn giáo mới của ông.
Đạo đức học của Feuerbach, theo Engels, tỏ ra nghèo nàn hơn Hegel do tính
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 11 -

đơn giản và tính ảo tưởng của nó. Feuerbach lấy con người làm điểm xuất phát,
nhưng đó không phải là con người sống trong một thế giới hiện thực với những quan
hệ phức tạp, mà là con người trừu tượng, phi lịch sử.
Feuerbach coi nhận thức là một quá trình tĩnh tại, thụ động của chủ thể tiếp
nhận hình ảnh của khách thể; coi thực tiễn mang tính thấp hèn, cần được loại ra khỏi
nhận thức, trục xuất ra khỏi hệ thống triết học; không thấy được vai trò to lớn của
thực tiễn đối trong quá trình nhận thức hay hoàn thiện nhân cách con người, thúc

đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung.

IV. Vai trò của triết học nhân bản Feuerbach đối với sự ra đời của triết học
Marx
Marx sinh trưởng trong một gia đình trí thức, một vùng có nhiều ảnh hưởng
của cách mạng tư sản Pháp và đạo Kitô là tôn giáo độc tôn. Những ảnh hưởng tốt
của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã giúp Marx hình
thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất đó không ngừng được
bồi dưỡng và đã trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa Marx tới chủ
nghĩa dân chủ cách mạng.
Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Marx
có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động. Lúc
này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần
chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Ông tập trung phê phán các
chính sách của nhà nước Phổ, nhà nước đó chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của
những lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán đó Marx đã nhận thấy hoạt động
của nhà nước không phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hegel đã chứng
minh.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý
tưởng tự do trong thực tế đã giúp Các Marx hình thành khuynh hướng duy vật, nhận
thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Ông đã viết tác phẩm “Góp phần phê phán
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 12 -

triết học pháp quyền của Hegel” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hegel. Trong
khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học
Feuerbach. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc
xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của Feuerbach. Sự phê phán sâu rộng triết
học Hegel, việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy

vật và nhân văn của triết học Feuerbach đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật
trong quan điểm triết học của Marx.
Theo bản chất tộc loại của mình, con người tự do không chỉ ở trong tư duy,
khát vọng, mong muốn, mà cả ở trong cảm xúc. Nhờ vậy, con người có khả năng
giữ được một vị thế thuần tuý tinh thần, độc lập với các lợi ích cụ thể hàng ngày
trong mối quan hệ với các hiện tượng của thế giới vật thể. Nói cách khác, con người
có thể chiêm ngưỡng cái đẹp. Tính phổ quát của con người được thể hiện chính
trong sự chiêm ngưỡng ấy. Những suy ngẫm ấy của L.Feuerbach đã đem lại giá trị
lớn lao cho sự phát triển của đường hướng mỹ học duy vật. Không phải ngẫu nhiên
mà sự hình thành những tư tưởng thẩm mỹ của Marx thời trẻ đã gắn bó chặt chẽ với
những suy ngẫm trên của L.Feuerbach.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là Feuerbach là nguồn gốc lý luận trực tiếp
của triết học Marx. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hegel, Karl Marx đã
dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy
vật triết học của Feuerbach; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục
tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó. Từ đó Karl Marx và
Friedrich Engels xây dựng nên triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ. Với tính cách là những bộ phận
hợp thành hệ thống lý luận của triết học Marx, chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc của chúng.
Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Marx đã cải tạo cả chủ nghĩa duy
vật cũ, cả phép biện chứng của Hegel. Marx viết: “Phương pháp biện chứng của tôi
không những khác phương pháp của Hegel về cơ bản mà còn đối lập hẳn với
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 13 -

phương pháp ấy nữa”. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình, Marx đã
làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận
thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”, chủ nghĩa duy vật lịch sử

của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học.
Marx đã nồng nhiệt tiếp thu quan điểm duy vật của triết học Feuerbach.
Song, Marx lại thấy những mặt yếu trong triết học Feuerbach, nhất là việc xa rời
những vấn đề chính trị nóng hổi. Sự phê phán sâu rộng đối với triết học Hegel, việc
khái quát những kinh nghiệm lịch sử, cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và
nhân văn của triết học Feuerbach đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong tư
tưởng của Marx.
Chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người
và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con
người. Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình, máy móc mà chủ
nghĩa duy vật trước Marx đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là
bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức. Chính vì thế mà C.Marx đã nhận xét rằng: “Khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật
của Feuerbach là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình
thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm
giác của con người, là thực tiễn; không được nhận thức về mặt chủ quan”
Triết học về tôn giáo của Feuerbach tuy còn những hạn chế nhất định của nó,
đó là sự biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, song,
triết học tôn giáo của ông đã tạo nên một bước ngoặt trong lịch sử nhận thức về tôn
giáo. Làm cho con người hiểu hơn về bản chất của tôn giáo, để rồi con người nhận
ra một cách rõ ràng về vai trò của nó trong đời sống xã hội nhằm xây dựng một thế
giới tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, thế giới vì hạnh phúc chân chính của con người.
Quan niệm về đạo đức, con người của Feuerbach tuy tuyệt đối hóa về tình
yêu, coi bản chất con người là tình yêu mà không chú ý đến mặt lịch sử-xã hội.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 14 -

Quan niệm con người của ông trừu tượng, không mang tính giai cấp, tính dân tộc,

tính lịch sử. Đó là sự mơ hồ, không phù hợp với một xã hội đầy rẫy sự tranh giành
quyền lực, sự áp bức, sự bất bình đẳng nhưng nó cũng cho con người thấy được sự
cần thiết như thế nào của tình yêu giữa con người với con người. Và đúng như vậy,
tình yêu thương giữa con người với con người tôn vinh cho nhân cách con người,
trong khi sự vô cảm hạ bệ con người xuống vực sâu của sự thảm bại. Tình yêu
thương là một nét phẩm chất cao quý trong nhân cách đạo đức. Mỗi người cần biết
bồi dưỡng, phát huy, để tình yêu thương thực sự trở thành mẫu số chung trong nhân
cách con người và sự tiến bộ xã hội.
Tuy không có những công trình triết học đồ sộ như Kant và Hegel, song
những gì mà Feuerbach để lại cho di sản văn hóa nhân loại là vô cùng quý giá. Cùng
với phép biện chứng duy tâm của Hegel, chủ nghĩa duy vật siêu hình của Feuerbach
đã trở thành một tiền đề đề lý luận quan trọng cho sự hình thành triết học Marx. Tuy
nhiên C.Marx và Engels chỉ tiếp nhận những hạt nhân hợp lý, những nhân tố duy vật
trong hệ thống triết học của hai nhà tiền bối này, mà phê phán những hạn chế, lọc bỏ
tất cả những yếu tố bất hợp lý của họ như tính duy tâm khách quan, tính bảo thủ
(Hegel ) phương pháp pháp nhìn nhận siêu hình về xã hội (Feuerbach).
Cũng chính nhờ chủ nghĩa duy vật của Feuerbach đã giúp Marx và Engels
đoạn tuyết với chủ nghĩa duy tâm của Hegel và phái Hegel trẻ. Marx và Engels đã
cải tạo chủ nghĩa duy vật của Feuerbach phát triển lên một hình thức mới cao nhất
đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Một đóng góp, không thể phủ nhận, của triết học Feuerbach là tiền đề lý luận
cho triết học Marx nói riêng và chủ nghĩa Marx nói chung. Hơn bất cứ một lĩnh vực
nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát triển con người, mối quan hệ giữa con người với
con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại, đưa loài người tới một kỷ
nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương
lai.

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

- 15 -


KẾT LUẬN
Với tư cách là một khuynh hướng, một giai đoạn phát triển trong dòng chảy
lịch sử chung của triết học nhân loại, triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Kant, kết thúc
bằng Feuerbach. Tuy chỉ tồn tại trên diễn đàn tư tưởng hơn một thế kỷ, song triết
học cổ điển Đức đã có nhiều đóng góp cho lịch sử triết học nhân loại và gây nên một
tiếng vang lớn về phương diện chính trị - xã hội - giáo dục.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach phản ánh tiếng nói tri ân của thời
đại khai sáng, đang bước sang phần kết của nó - đó là một giai đoạn lịch sử mà con
người vươn lên đòi quyền sống của mình, đòi lại tất cả những gì mình bị chế độ
phong kiến chuyên chế và giáo hội tước đoạt trước đó. Dưới ảnh hưởng của nhiều
trường phái sinh lý học đương thời, Feuerbach đã tiếp cận con người như một thực
thể sinh học, theo ông con người có đầy đủ mọi khát vọng tự nhiên như ăn, uống,
sinh hoạt giới tính, biểu hiện tâm tư tình cảm, ước muốn, những nhu cầu tự nhiên
đó của con người là cơ sở sinh học tạo nên đời sống hiện thực vốn có của nó.
Tuy đạt được khá nhiều thành tựu trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của
mình, song Feuerbach chưa thể nào “thoát khỏi vương quốc của sự trừu tượng, để đi
tới hiện thực sinh động”. Trên phương diện lý luận, Feuerbach lớn tiếng phê phán
tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, song thực tế, ông vẫn chưa thể trút bỏ bộ áo thâm
chùng của giáo hội ban tặng và chiếc mũ duy tâm tự biện của triết học Hegel.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng Feuerbach là nhà duy vật vĩ đại trong triết
học cổ điển Đức. Marx đánh giá cao vai trò của Feuerbach, coi ông là người không
úp mở tuyên bố địa vị thống trị của chủ nghĩa duy vật. Marx và Engel tự coi mình là
môn đồ của Feuerbach, giá trị tư tưởng đó của triết học Feuerbach là điều không thể
phủ nhận được.
Về mặt đóng góp cho kho tàng triết học nhân loại; triết học Feuerbach, là
nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Marx. Cùng với phép biện chứng Hegel,
chủ nghĩa duy vật Feuerbach, Marx đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx


- 16 -

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.Giáo trình Triết học – NXB Lý luận chính trị (2006).
2.Triết học phần 1 Đại Cương về lịch sử Triết học, TS. Bùi Văn Mưa, TS. Trần
Nguyên Ký, PGS TS. Lê Thanh Sinh, TS. Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh, TS.
Bùi Xuân Thanh, Trường Đại học Kinh tế, 2010.
4.Triết học phần 2, Các chuyên đề về triết học Marx-Lê Nin, TS. Bùi Văn Mưa, TS.
Trần Nguyên Ký, PGS TS. Lê Thanh Sinh, TS. Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh,
TS. Bùi Xuân Thanh, Trường Đại học Kinh tế, 2010.
5.Lịch Sử Triết học Phương Tây, Nguyễn Tiến Dũng, NXB TP.HCM, 2006
6.Bài giảng Triết học lớp Cao học của TS: Bùi Văn Mưa
7.

×