Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận tìm hiểu chính sách giá về kinh doanh xuất khẩu gạo tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.6 KB, 23 trang )

Đề tài: Tìm hiểu chính sách giá về kinh doanh xuất khẩu gạo tại Việt Nam.
Phần I. MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng đối với một nền kinh tế quốc
dân. Ở bất cứ nền kinh tế nào, nông nghiệp cũng đóng vai trò là nền móng cho sự phát
triển.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với định hướng lấy nông nghiêp làm cơ
sở. Tuy nhiên, những yếu kém về hoạt động xuất nhập khẩu làm cho quá trình phát
triển nền nông nghiệp hiện đại bộc lộ những trở ngại rất lớn, đặc biệt là lĩnh vực xuất
khẩu gạo của Việt Nam- đất nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Thế kỷ
21, nông nghiệp nước ta vẫn chủ yếu sản xuất với quy mô nông hộ, manh mún, kỹ
thuật còn khá lạc hậu, chính vì vậy mà đời sống của nhân dân nông thôn vẫn còn hết
sức khó khăn, nhất là mối lo ngại rủi ro về thị trường tiêu thụ sản phẩm, trong đó lo
ngại lớn nhất vẫn là về giá cả- thứ liên quan trực tiếp đến đời sống trực tiếp của người
dân.
Từ thực tế nói trên, đặt ra vấn đề hết sức nghiêm túc là Đảng, Nhà nước ta cần
quan tâm tới nông nghiệp, đến đời sống của nhân dân mà trên hết là ban hành chính
sách giá để bảo vệ cho người dân làm nông nghiệp. Đây là cơ sở và là điều kiện tiên
quyết để tiến hành mọi hoạt động mở rộng đầu tư góp phần giải quyết thu hẹp bất bình
đẳng cho khu vực nông thôn.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết trên, chúng tôi chọn đề tài như sau: “ Tìm hiểu chính
sách về kinh doanh xuất khẩu gạo tại Việt Nam- công cụ: giá sàn xuất khẩu gạo và quỹ
bình ổn giá gạo trong nước”. Để tìm hiểu về vấn đề này,chúng tôi xin thông qua Nghị
định số 109/2010/NĐ-CP về Chính sách kinh doanh xuất khẩu gạo.
Phần II. Nội dung
1. Cơ sở lí luận
a. Khái niệm:
- Chính sách nông nghiệp là thể hiện tổng thể các biện pháp kinh tế hoặc phi kinh tế
thể hiện sự tác động ,can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo
những mục tiêu xác định ,trong 1 thời gian nhất định.
- Chính sách xuất khẩu là một trong những chính sách có ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển của một đất nước. Đặc biệt là việc kinh doanh xuất khẩu gạo là một vấn đề cần


phải có chính sách đúng đắn để khuyến khích người nông dân tích cực tăng năng suất
sản xuất, nhưng phải đáp ứng được những lợi ích mà họ đán được hưởng. Bên cạnh đó
phải đảm bảo đến vấn đề an ninh lương thực của cả quốc gia.
- Xuất khẩu là hành vi mang hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ của các nước này ra bán ở thị
trường nước khác, thông thường sản phẩm, dịch vụ này phải được di chuyển ra khỏi
biên giới của một quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là việc thực hiện những công việc
liên quan đến những nghiệp vụ bán hàng cho doanh nhân có quốc tịch của nước sản
xuất hay lưu kho hàng hóa. Tuy nhiên, một số nghiệp vụ xuất khẩu xảy ra giữa nước
sở tại và người mua cư trú tại các quốc gia khác, nhưng hàng hóa, dịch vụ lại được
giao ngay tại trong nước và thu bằng ngoại tệ.
- Kinh doanh xuất khẩu gạo là hoạt động mua bán hàng hóa giữa các thương nhân ở
các nước khác nhau( ở phạm vi quốc tế) nhằm đạt được mục tiêu kinh tế tối đa và các
lợi ích xã hội khác. Đây không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống
các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài
nhằm bán sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ ,qua đó
đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển,chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước
nâng cao mức sống của nhân dân.
- Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của
một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng
hoá hoạt động kinh doanh của mình.
- Mục đích của kinh doanh xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia trong
phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu
diễn ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại mặt hàng khác nhau.
Phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
- Chính sách kinh doanh xuất khẩu là văn bản ban hành bởi Chính phủ quy định về
nhũng yêu cầu cần phải thực hiện cũng như những trách nhiệm của thương nhân kinh
doanh xuất khẩu để được phép thực hiện việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài.
b. Căn cứ để hoạch định chính sách kinh doanh xuất khẩu gạo (chủ yếu xét trên
khía canh chính sách giá sàn xuất khẩu gạo và quỹ bình ổn giá gạo)
-Nắm rõ được vai trò của giá cả của gạo đối với sản xuất và đời sống là vô cùng quan

trọng. Vì gạo là loại thực phẩm thiết yếu đối với đời sống con người ,ngoài ra đây cũng
là nguồn nguyên liệu cho các hoạt động công nghiệp chế biến.
- Sản xuất lúa gạo còn là nguồn thu nhập chủ yếu của nông dân nên khi hoạch định
chính sách giá cho lúa gạo cần có cái nhìn toàn diện
- Xét trong một thời gian ngắn thì giá cả lúa gạo (nông sản nói chung) thường có tính
không ổn định so với các loại sản phẩm công nghiệp.
- Khi xác định giá cả cần xem xét tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp.
- Khi hoạch đinh chính sách giá còn phải căn cứ vào chi phí sản xuất của từng loại
hàng nông sản ,sự cân bằng về cung cầu của mặt hàng này đối với thụ trường trong
nước và nước ngoài.
c. Các nhân tố có ảnh hưởng đến chính sách
- Mức độ tham gia đóng góp ý kiến và thực hiện theo yêu cầu của chính sách chính phủ
đề ra của các bộ ,ban, nghành, và người tham gia vào quá trình kinh doanh xuất khẩu
gạo
- Sự hiểu đúng đắn ,một nghĩa của chính sách đối với các tác nhân có liên quan.
- Sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài đến chính sách.
2. Hệ thống các văn bản có liên quan đến chính sách
• Nghị định Số: 109/2010/NĐ-CP “Về kinh doanh xuất khẩu gạo”
• Thông tư số: 89/2011/TT-BTC “Hướng dẫn về phương pháp xác định giá sàn
gạo xuất khẩu”
• Thông tư số 44/2010/TT-BCT “ Quy định chi tiết một số điều của nghị định số
109/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 11 năm 2010 của Chính phủ về kinh doanh
xuất khẩu gạo
3. Tóm tắt cấu trúc NĐ 109/2010/NĐ-CP về Chính sách kinh doanh xuất khẩu
gạo
3.1 Đánh giá tình hình:
Những năm gần đây, vấn đề an ninh lương thực luôn là vấn đề nóng bỏng được cả
thế giới quan tâm. Tuy nhiên, đối với Việt Nam- đất nước đứng nhất nhì thế giới về sản
lượng gạo thì vẫn đang còn nhiều bất cập trong khâu kinh doanh xuất khẩu gạo của các
doanh nghiệp trong nước. NĐ 109/2010/NĐ-CP về chính sách cho kinh doanh xuất

khẩu gạo thực sự là một chính sách cần thiết để giải quyết những vấn đề đang được
quan tâm hiện nay và nâng cao chất lượng cũng như số lượng gạo xuất khẩu ra thị
trường thế giới.
3.2 Mục tiêu, đối tượng thụ hưởng của chính sách:
a.Mục tiêu của chính sách:
- Góp phần tiêu thụ thóc, gạo hàng hóa và bảo đảm lợi ích người trồng lúa theo
chính sách hiện hành.
- Bảo đảm cân đối xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
- Góp phần bình ổn giá thóc, gạo trong nước
- Thực hiện các cam kết quốc tế và bảo đảm xuất khẩu có hiệu quả.
b. Đối tượng áp dụng:
Nghị định này áp dụng đối với thương nhân theo quy định của Luật Thương mại;
các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong quản lý, điều hành xuất khẩu gạo và các tổ
chức, cá nhân khác có liên quan.
c. Các giải pháp thực hiện chính sách
Căn cứ trách nhiệm cụ thể được phân công theo quy định tại Nghị định này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan, các Bộ: Công thương, Tài chính, Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm
hướng dẫn thi hành Nghị định này với các giải pháp như sau:
 Cân đối nguồn thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu
Hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc cân đối nhu cầu tiêu
dùng gạo trong nước, công bố vào quý IV hàng năm nguồn thóc, gạo hàng hóa có thể
xuất khẩu trong năm kế hoạch tiếp theo; cập nhật và thông báo với Bộ Công thương,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam về tình hình sản xuất, sản lượng, chủng loại theo mùa
vụ trong năm. Việc điều hành xuất khẩu gạo thực hiện trên cơ sở nguồn thóc, gạo hàng
hóa được cân đối cho xuất khẩu hàng năm .
 Dự trữ lưu thông
Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo phải thường xuyên duy trì mức dự trữ
lưu thông tối thiểu tương đương 10% số lượng gạo mà thương nhân đã xuất khẩu trong

06 tháng trước đó.
 Mua thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu
Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm thông báo với Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương các điểm mua thóc, gạo và công bố
các điểm mua này để người dân biết; niêm yết giá mua theo chất lượng, chủng loại
thóc, gạo hàng hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân trực tiếp giao dịch.
Trường hợp mua thóc, gạo hàng hóa qua thương nhân khác hoặc từ các cơ sở
chế biến, thương nhân và các cơ sở chế biến phải liên kết, tổ chức thành hệ thống ổn
định để thực hiện quy định tại khoản 1 Điều này.
Khuyến khích thương nhân mua thóc, gạo hàng hóa thông qua hợp đồng ký với
người sản xuất theo chính sách hiện hành của Nhà nước về tiêu thụ nông sản hàng hóa
thông qua hợp đồng.
Thương nhân thực hiện mua thóc, gạo hàng hóa theo quy định tại Điều này được
vay tín dụng xuất khẩu theo quy định hiện hành.
 Điều tiết giá thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu
Nguyên tắc điều tiết:Thực hiện cơ chế điều tiết giá thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu
trên thị trường trên cơ sở giá thóc định hướng bình quân từng vụ sản xuất được xác
định và công bố theo quy định tại Điều này nhằm góp phần bảo đảm lợi nhuận cho
người trồng lúa theo chính sách hiện hành (dưới đây gọi là giá thóc định hướng).
Xác định, công bố giá thóc định hướng: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành quy định, hướng dẫn phương pháp điều
tra, xác định chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất lúa hàng hóa để Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm căn cứ xác định và công bố giá thành
sản xuất lúa bình quân dự tính trong toàn tỉnh, thành phố ngay từ đầu vụ đối với từng
vụ sản xuất trong năm.
Trên cơ sở giá thành sản xuất lúa bình quân dự tính từng vụ sản xuất do Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương công bố, Bộ Tài chính chủ trì, phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra, tổng hợp và xác định giá
thành sản xuất lúa bình quân dự tính cho từng vụ sản xuất của toàn khu vực sản xuất.
Trên cơ sở giá thành sản xuất bình quân dự tính từng vụ, Bộ Tài chính xác định,

công bố giá thóc định hướng ngay từ đầu vụ để làm cơ sở điều tiết giá thóc, gạo hàng
hóa trên thị trường, góp phần bảo đảm mức lợi nhuận bình quân cho người trồng lúa
theo chính sách hiện hành.
Cơ chế điều tiết: Trường hợp giá thóc hàng hóa trên thị trường bằng hoặc cao
hơn giá thóc định hướng, Nhà nước không can thiệp; Trường hợp giá thóc hàng hóa
trên thị trường thấp hơn giá thóc định hướng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
chủ trì, phối hợp với các Bộ: Tài chính, Công thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và Hiệp hội Lương thực Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định áp
dụng các biện pháp điều tiết cụ thể để duy trì giá thóc, gạo hàng hóa trên thị trường
không thấp hơn giá thóc định hướng, đồng thời bảo đảm hoạt động xuất khẩu gạo hiệu
quả.
 Bình ổn giá thóc, gạo trong nước
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ
Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các thương nhân kinh
doanh xuất khẩu gạo trên địa bàn tổ chức hệ thống thu mua, phân phối gạo và bảo đảm
bình ổn thị trường tiêu dùng nội địa; kiểm tra việc thực hiện mua thóc, gạo hàng hóa
theo quy định tại Nghị định này.
Khi giá gạo trong nước biến động gia tăng vượt mức quy định theo pháp luật
hiện hành, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, căn cứ quy định của pháp luật hiện
hành về bình ổn giá mặt hàng gạo và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, chỉ đạo, hướng
dẫn thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo đưa ngay gạo dự trữ lưu thông bổ sung vào
nguồn cung ứng thị trường trong nước.
Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm tham gia bình ổn giá và
được bù đắp các chi phí phát sinh theo hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
Việc công bố và áp dụng các biện pháp bình ổn giá thóc, gạo thực hiện theo quy
định của pháp luật hiện hành.
 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung
Hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung là hợp đồng xuất khẩu gạo được ký kết theo

thỏa thuận giữa cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước
ngoài hoặc vùng lãnh thổ nước ngoài và các hợp đồng xuất khẩu gạo được ký kết theo
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn và Hiệp hội Lương thực Việt Nam xây dựng cơ chế, tiêu chí để chỉ
định thương nhân ký kết, tổ chức thực hiện hợp đồng tập trung và chỉ đạo việc thực
hiện hợp đồng tập trung.
Thương nhân ký kết, tổ chức thực hiện hợp đồng tập trung trực tiếp xuất khẩu
20% (hai mươi phần trăm) lượng gạo trong hợp đồng. Căn cứ các tiêu chí tại khoản 4
Điều này và quy định do Bộ Công thương ban hành, Hiệp hội Lương thực Việt Nam
phân bổ số lượng gạo 80% (tám mươi phần trăm) còn lại của hợp đồng cho các thương
nhân khác để thực hiện ủy thác xuất khẩu.
Việc phân bổ hợp đồng tập trung cho các thương nhân để thực hiện ủy thác xuất
khẩu dựa trên cơ sở các tiêu chí sau đây: Thành tích xuất khẩu trực tiếp 06 (sáu) tháng
trước đó của thương nhân; Trách nhiệm thực hiện giao hàng theo các hợp đồng tập
trung đã được giao; Lượng thóc, gạo hiện có sẵn của thương nhân;Thành tích mua thóc
gạo của thương nhân theo chỉ đạo của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Căn cứ quy định của Nghị định này, Bộ Công thương ban hành quy định hướng
dẫn về hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung và xử lý vi phạm liên quan đến việc giao
dịch, ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo vào thị trường có hợp đồng tập trung.
 Đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo
Căn cứ quy định của Nghị định này, Bộ Công thương ban hành quy định về
đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo để Hiệp hội Lương thực Việt Nam thực hiện việc
đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo.
 Giá sàn gạo xuất khẩu
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có sản
lượng lúa hàng hóa lớn và Hiệp hội Lương thực Việt Nam hướng dẫn phương pháp xác
định giá sàn gạo xuất khẩu theo các nguyên tắc sau: Phù hợp với diễn biến của thị
trường trong nước và thế giới; Phù hợp với giá thóc định hướng được công bố, mặt

bằng giá mua thóc, gạo hàng hóa trong nước, chi phí kinh doanh và lợi nhuận của
thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo; Căn cứ hướng dẫn của Bộ Tài chính, Hiệp hội
Lương thực Việt Nam công bố giá sàn gạo xuất khẩu trong từng thời kỳ để làm cơ sở
cho việc ký kết và đăng ký hợp đồng xuất khẩu; Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ
Công thương kiểm tra, giám sát việc công bố giá sàn gạo xuất khẩu do Hiệp hội Lương
thực Việt Nam thực hiện theo quy định tại Nghị định này.
 Thống kê, báo cáo tình hình đăng ký hợp đồng xuất khẩu
Hiệp hội Lương thực Việt Nam có trách nhiệm thống kê, cập nhật số lượng, trị
giá, chủng loại thóc, gạo, thị trường, khách hàng, thương nhân xuất khẩu, số lượng hợp
đồng đăng ký hàng ngày và báo cáo bằng văn bản theo định kỳ hàng tuần, tháng, quý,
năm hoặc báo cáo đột xuất theo yêu cầu về Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Báo cáo định kỳ được đồng gửi Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương nơi có thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu.
Trường hợp có diễn biến bất thường trong việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam phải báo cáo ngay với các Bộ, ngành liên quan để kịp
thời xử lý.
 Thuế xuất khẩu thóc, gạo
Việc áp dụng thuế đối với thóc, gạo xuất khẩu thực hiện theo quy định của pháp
luật về thuế.
d. Công tác tuyên truyền phổ biến chính sách.
-Chính sách sau khi được ban hành được đưa xuống các Bộ, Ban , ngành có liên
quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hiệp hội Lương
thực Việt Nam, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu gạo… để có thể xem xét và
thực hiện chính sách.
-Tổ chức các hội thảo, hội nghị để các bên tham gia trong chính sách có thể đưa ra
quan điểm , nhìn nhận của mình về chính sách.
- Lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong và ngoài nước để nhằm hoàn thiện
hơn về chính sách. Đặc biệt là sự học tập các chính sách của các nước nằm trong
top xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới như Thái Lan, Ấn Độ để rút kinh nghiệm.
e. Phân cấp trong triển khai tổ chức thực hiện

• Bộ Công thương
Chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo theo hợp đồng tập trung,
tiến hành đàm phán với các nước có nhu cầu nhập khẩu, ký kết các biên bản thỏa thuận
về xuất khẩu gạo với nước ngoài hoặc vùng lãnh thổ của nước ngoài.
Kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh của thương nhân; phối hợp với
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm về kinh doanh
xuất khẩu gạo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh
xuất khẩu gạo theo thẩm quyền.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và Hiệp hội Lương thực Việt Nam tổ chức điều hành xuất khẩu
gạo bảo đảm các nguyên tắc quy định tại Nghị định này.
• Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Thống nhất chỉ đạo các địa phương lập và tổ chức thực hiện quy hoạch vùng sản
xuất lúa hàng hóa; hướng dẫn nông dân sản xuất theo hướng chuyên canh các giống lúa
có chất lượng, năng suất cao; áp dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ trong sản xuất,
chế biến thóc, gạo; nâng cao chất lượng, thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường.
Chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Hiệp hội Lương thực Việt Nam theo dõi tình hình sản xuất, nắm sản lượng thóc, gạo để
cân đối nguồn thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa
phương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, các Tổng Công ty Lương thực Nhà nước đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia, bình ổn thị trường nội địa, đáp ứng mục tiêu, nguyên
tắc điều hành xuất khẩu gạo quy định tại Nghị định này.
Phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thóc,
gạo hàng hóa xuất khẩu trong việc chỉ đạo mua thóc, gạo trực tiếp từ người sản xuất
lúa theo chính sách hiện hành và quy định tại Nghị định này.
Xây dựng quy hoạch hệ thống kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo; ban hành quy
chuẩn chung về kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo và hướng dẫn thực hiện trên phạm
vi cả nước từ ngày 01 tháng 5 năm 2011.
• Bộ Tài chính
Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban

hành chính sách, quy định về tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu đối với thương nhân
xây dựng, mở rộng, hiện đại hóa kho chứa, cơ sở xay, xát thóc, gạo và thương nhân
kinh doanh xuất khẩu gạo.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan thực hiện các biện
pháp bình ổn giá gạo theo quy định của pháp luật hiện hành.
Chỉ đạo Tổng cục Hải quan tổng hợp, báo cáo định kỳ hàng tháng gửi Bộ Tài
chính, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Chính
phủ và Hiệp hội Lương thực Việt Nam về lượng, giá, thị trường xuất khẩu và kết quả
xuất khẩu gạo của từng thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
• . Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chỉ đạo các ngân hàng thương mại chủ động cân đối, bảo đảm nguồn vốn cho
thương nhân vay để mua thóc, gạo hàng hóa theo kế hoạch dự kiến được cân đối theo
quy định tại Nghị định này.
• Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thóc, gạo hàng
hóa xuất khẩu
Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất lúa, bảo đảm cơ
cấu giống, chỉ đạo việc cung ứng vật tư, kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng gạo
đáp ứng nhu cầu của thị trường; kiểm tra hoạt động sản xuất, lưu thông, tiêu thụ thóc,
gạo trên địa bàn; quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng hệ thống kho chứa,
cơ sở xay xát thóc, gạo trên địa bàn; chỉ đạo việc mua thóc, gạo trực tiếp từ người sản
xuất và mua thông qua hợp đồng ký với người sản xuất theo chính sách hiện hành của
Nhà nước.
Báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ,
ngành liên quan về sản lượng, chủng loại thóc, gạo hàng hóa tồn đọng và dự kiến năng
suất, sản lượng thu hoạch thóc, gạo trên địa bàn để phục vụ công tác điều hành xuất
khẩu gạo.
Chỉ đạo các Sở: Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương tổ
chức điều tra, khảo sát chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất lúa từng vụ trên địa
bàn theo quy định của Nghị định này và hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính; chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo trên địa bàn trong việc chấp

hành quy định và tuân thủ sự chỉ đạo điều hành của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
theo quy định tại Nghị định này.
Tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân địa phương thực hiện sản xuất lúa
theo quy hoạch và định hướng chung của Nhà nước để phát triển sản xuất, nâng cao
hiệu quả sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu thóc, gạo.
• Đối với Hiệp hội Lương thực Việt Nam
Phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc
chỉ đạo, hướng dẫn thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo thực hiện mua thóc, gạo
thông qua hợp đồng ký với người sản xuất theo chính sách hiện hành của Nhà nước.
Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện vi phạm trong lĩnh vực
kinh doanh xuất khẩu gạo, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong việc chỉ đạo, hướng dẫn thương
nhân mua thóc, gạo hàng hóa, duy trì mức dự trữ lưu thông bắt buộc, bình ổn thị
trường theo quy định tại Nghị định này.
Xây dựng và duy trì hoạt động của trang thông tin điện tử về tình hình cung –
cầu gạo, thị trường trong và ngoài nước, khách hàng nhập khẩu, giá cả và dự báo
thương mại gạo, thông tin về xuất khẩu và tiêu thụ thóc, gạo.
Chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo; hướng dẫn hội viên chủ
động giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu để nâng cao hiệu quả xuất khẩu
gạo.
Định kỳ báo cáo hàng tuần, hàng tháng, hàng quý về Bộ Tài chính, Bộ Công
thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng đồng bằng sông Cửu Long về diễn
biến tình hình giá mua thóc, gạo; giá thóc, gạo xuất khẩu; lượng gạo tồn kho dự trữ lưu
thông của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
Kịp thời báo cáo các Bộ, ngành liên quan những vấn đề phát sinh theo chức
năng, nhiệm vụ được giao và đề xuất biện pháp xử lý.
• Đối với thương nhân
Báo cáo định kỳ theo quý, năm và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ Công
thương, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Lương thực

Việt Nam, Ủy ban nhân dân và Sở Công thương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
nơi thương nhân có trụ sở chính và nơi thương nhân có kho chứa, cơ sở xay, xát về tình
hình mua, giá mua thóc, gạo, việc tạm trữ, dự trữ, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất
khẩu gạo. Báo cáo định kỳ thực hiện theo mẫu quy định tại Phụ lục VI ban hành kèm
theo Nghị định này.
Báo cáo ngay bằng văn bản với Bộ Công thương, Sở Công thương tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương khi không đáp ứng được các điều kiện về kho chứa, cơ sở
xay, xát theo quy định tại Điều 4 Nghị định này hoặc khi không còn Giấy chứng nhận
đã được cấp do bị thất lạc, bị hư hỏng hoặc bị tiêu huỷ và nêu rõ lý do.
f. Huy động nguồn lực
• Quỹ bình ổn giá lúa ,gạo được hình thành thông qua cơ chế trích theo mức
tiền cố định trên đầu tấn gạo xuất khẩu trực tiếp của tất cả các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo (khoảng 30%), được phép hạch toán vào chi phí sản xuất kinh
doanh hợp lý của doanh nghiệp. Nếu việc bù đắp bị thâm hụt thì sẽ được vay
từ ngân sách nhà nước. Để vận hành Quỹ, Nhà nước ban hành cơ chế quản lý
và sử dụng Quỹ; Quỹ chỉ sử dụng cho mục tiêu thu mua lúa cho người sản
xuất lúa, không sử dụng cho mục đích khác
• Chính phủ giao cho Ngân hàng NN&PTNT thông qua các công ty
lương thực và chính quyền địa phương tính toán cấp cho người trồng
lúa vay số tiền nhất định (khoảng 50% tổng chi phí sản xuất) với mức
lãi suất chỉ bù đắp đủ chi phí hoạt động của ngân hàng (không tính thuế,
lãi…) để lấy tiền chi dùng phục vụ đời sống và chu kỳ sản xuất tiếp
theo.
• Thêm một phương án nữa khi giá thị trường lúa xuống thấp hơn giá sàn
là nhà nước công bố và yêu cầu doanh nghiệp mua theo giá sàn định
hướng với hỗ trợ 100% lãi suất.
g. Nội dung triển khai chính sách
-Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phục trách việc xây dựng và tổ
chức thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất lúa, bảo đảm cơ cấu giống, chỉ
đạo cung ứng vật tư, kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng gạo đáp ứng nhu

cầu của thị trường; chủ trì phối hợp Sở Công Thương trong việc quản lý và
tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng hệ thống kho chứa, các cơ sở xay xát
thóc, gạo trên địa bàn; chỉ đạo việc mua thóc, gạo trực tiếp từ người sản xuất
và mua thông qua hợp đồng ký với người sản xuất theo chính sách hiện hành
của Nhà nước, đồng thời phối hợp với cơ quan truyền thông, UBND các
huyện, thành phố tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân địa phương thực
hiện sản xuất lúa theo quy hoạch và định hướng chung của Nhà nước để phát
triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu gạo
-Sở Công Thương chỉ đạo các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo tổ
chức chức hệ thống thu mua, phân phối gạo, bảo đảm bình ổn thị trường tiêu
dùng nội địa.
-Sở Tài chính chủ trì phối hợp Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở
Công Thương tổ chức điều tra, khảo sát chi phí sản xuất và tính giá thành
sản xuất lúa từng vụ trên địa bàn để làm căn cứ cho Bộ Tài chính tổng hợp,
xác định, công bố giá thóc định hướng ngay từ đầu vụ để làm cơ sở điều tiết
giá thóc, giá gạo hàng hóa trên thị trường, góp phần bảo đảm mức lợi nhuận
bình quân cho người trồng lúa theo chính sách hiện hành.
4. Phân tích kết qủa thực thi chính sách:
Theo tính toán của các chuyên gia, trong cả chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ lúa
gạo, nông dân đảm trách 50% công việc, những người buôn bán chỉ làm 10% công
việc nhưng lại hưởng tới 70% giá trị gia tăng. Nông dân không có quyền mặc cả trên
thị trường; quan hệ giữa doanh nghiệp với nông dân đang diễn ra thiếu công bằng. Vì
vậy chính sách kinh doanh xuất khẩu lúa gạo của Chính phủ thực sự là chính sách đúng
đắn và hợp lý làm rút ngắn mức thu nhập của nông dân và doanh nghiệp. Trải qua
khoảng thời gian thực hiện chính sách, chúng ta hãy xem xét tình hình thực hiện NĐ
này như sau:
4.1. Tình hình xuất khẩu gạo của cả nước và thành tựu đạt được:
Việt Nam có đầy đủ lợi thế để sản xuất lương thực, thực phẩm đặc biệt là lúa
gạo. Vì vậy, có thể nói lúa gạo là một mặt hàng chiến lược của chúng ta. Thực vậy,
Việt Nam đã là nước có sản lượng gạo xuất khẩu cao nhất nhì thế giới và đã trở thành

quốc gia cung cấp gạo quan trọng trên thị trường thế giới. Báo cáo của VFA( Hiệp hội
lương thực Việt Nam), trong giai đoạn 2006 - 2010, xuất khẩu gạo đạt gần 27 triệu tấn
với tổng giá trị hơn 10,5 tỉ USD. Đặc biệt từ năm 2008, trị giá tăng vọt gần 100% so
với năm trước do giá gạo trên thị trường tăng đột biến, đạt 2,663 tỉ USD. Riêng năm
2009, số lượng xuất khẩu gạo đã tăng vọt đat mức kỷ lục hơn 6 triệu tấn, tăng 29,35%
so với năm 2008. Đến năm 2010, xuất khẩu gạo tiếp tục đạt mức kỷ lục mới về cả số
lượng và trị giá với 6,75 triệu tấn (gần 3 tỉ USD), nếu tính cả xuất khẩu tiểu ngạch có
thể lên đến gần 7 triệu tấn.
Với thị trường toàn cầu, gạo Việt Nam ngày càng khẳng định được vị trí, giữ
được giá xuất khẩu và có khả năng cạnh tranh cao ở loại gạo cấp trung bình. Việc duy
trì các thị trường truyền thống và liên tục mở rộng các thị trường mới đóng vai trò nền
tảng giúp ngành lúa gạo Việt Nam khắc phục khiếm khuyết về giống lúa, chất lượng
gạo, tập quán canh tác, sức chứa kho dự trữ, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế
biến. Đặc biệt năm 2011, mặc dù có những lo ngại trước những diễn biến trái chiều
(như việc chính phủ Thái Lan cam kết nâng giá thu mua lúa gạo trong nước để đẩy giá
gạo trên thị trường thế giới có thể lên mức 800 USD/tấn, điều này khiến giá gạo của
Việt Nam cũng có thể tăng theo, nhưng cũng có thông tin Ấn Độ đã quyết định xuất
khẩu trở lại 1 triệu tấn gạo với giá sàn chỉ là 400 USD/tấn và gạo của Việt Nam sẽ phải
cạnh tranh với gạo giá rẻ của Ấn Độ để có thể tiếp tục xuất đi châu Phi .), nhưng xuất
khẩu gạo Việt Nam vẫn đang trên đà tiến tới những kỷ lục mới cả về giá trị và sản
lượng. Tính chung trong 9 tháng qua, giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam vẫn
đạt 495 USD/tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Hơn thế, khoảng cách về giá
một số loại gạo chủ yếu xuất khẩu của nước ta so với gạo cùng phẩm cấp của Thái Lan
chẳng những đã được san bằng, thậm chí có những thời điểm còn cao hơn từ 1 - 6
USD/tấn. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ, khẳng định vị thế của gạo Việt Nam.

Như vậy, trong vòng 3 năm trở lại đây, xuất khẩu gạo đã đạt mức kỷ lục liên
tiếp về số lượng và trị giá. Sau khi có chính sách của chính phủ về kinh doanh xuất
khẩu gạo VFA dự đoán xuất khẩu gạo trong năm 2011 sẽ vượt mức 7 triệu tấn. Bởi
riêng đến thời điểm hiện tại, lượng gạo xuất khẩu đã đạt hơn 6,2 triệu tấn.

Dự báo về tình hình xuất khẩu gạo từ 2012 - 2015, VFA nhận định: Nhìn chung
trong 4 năm tới số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ ổn định ở mức 6 triệu
tấn/năm, nhưng chất lượng gạo sẽ thay đổi và thị trường cạnh tranh gay gắt từ các
nguồn cung cấp mới như: Myanma, Campuchia, Đặc biệt trong thời gian tới, những
diễn biến phức tạp vốn là đặc điểm của thị trường lúa gạo thế giới nhiều năm nay và
việc cần theo dõi sát và nhanh nhạy để quyết định xuất khẩu với giá có lợi nhất vẫn là
một bài toán cần tính kỹ với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam, nhất là
trong bối cảnh Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ việc mở cửa thị
trường xuất khẩu gạo. Nếu như trước đây, để bảo hộ ngành sản xuất trong nước, các
doanh nghiệp nước ngoài phải liên doanh, liên kết với doanh nghiệp trong nước trong
thu mua, xuất khẩu lúa gạo thì từ năm 2011 với việc tuân thủ cam kết WTO về mở cửa
thị trường lúa gạo, các doanh nghiệp nước ngoài có thể trực tiếp tham gia thị trường
lúa gạo Việt Nam. Thị trường thu mua, xuất khẩu lúa gạo của các doanh nghiệp trong
nước vốn đã nhiều cạnh tranh, nay lại đối phó với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp
nước ngoài muốn “chen chân” vào thị trường này. Trong khi xét về năng lực thị trường
và vốn, chỉ có những doanh nghiệp lớn mới có thể cạnh tranh, còn phần lớn doanh
nghiệp nhỏ của Việt Nam đều thua thiệt so với các doanh nghiệp nước ngoài.

Để đối phó với “làn sóng” cạnh tranh này, VFA cho rằng giải pháp cơ bản là các
doanh nghiệp cần thiếp lập, xây dựng vùng nguyên liệu, tạo sự gắn bó mật thiết với
nông dân, tạo thành những chuỗi giá trị bền vững trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
Đây cũng là mô hình nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đang xây dựng tại vùng đồng bằng
sông Cửu Long.

Mặt khác, trước sự cạnh tranh với những nguồn cung ứng mới của thị trường
gạo thế giới như Campuchia và Bangladesh, Việt Nam cũng cần nâng cao chất lượng
lúa gạo trên cơ sở chọn giống và thiết lập các vùng nguyên liệu chất lượng cao, từng
bước hình thành thương hiệu sản phẩm riêng. Cùng với đó, những hạn chế bộc lộ trong
công tác điều hành xuất khẩu gạo thời gian qua cũng cần được nhanh chóng khắc phục,
đồng thời đảm bảo duy trì mục tiêu mấu chốt của vấn đề là phải đảm bảo cho nông dân

có lãi trên 30% cũng như giảm thiểu những rủi ro cho người trồng lúa là những giải
pháp cần thiết để đảm bảo n âng cao sức cạnh tranh và tính bền vững của lúa gạo Việt
Nam.
4.2. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo
Theo các quy định tại Nghị định 109/2010/NĐ- CP của Chính phủ về kinh
doanh xuất khẩu gạo, hiện đã có 129 doanh nghiệp được phép kinh doanh xuất khẩu
gạo. Một số doanh nghiệp khác vẫn tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp phép.
Trước tình hình doanh nghiệp tham gia vào xuất khẩu gạo tại Việt Nam sẽ tiếp
tục tăng, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho rằng việc cấp phép nên dừng lại,
nếu không các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh để xuất khẩu sẽ làm tăng chi phí, giảm
lợi nhuận. tinh thần của Nghị định 109 là muốn kiện toàn lại các doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu gạo. Theo đó, doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu về tiềm lực
tài chính, kho chứa, cơ sở xay xát.
Tinh thần của Nghị định 109 là muốn kiện toàn lại các doanh nghiệp tham gia
xuất khẩu gạo. Theo đó, doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu về tiềm lực tài
chính, kho chứa, cơ sở xay xát. để thúc đẩy việc xuất khẩu gạo ngày càng hiệu quả hơn
thì vai trò của VFA cần phải tăng cường hơn nữa trong công tác điều hành. Đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nếu vi phạm các quy định đã được đưa ra cần phải có
chế tài đủ mạnh để các doanh nghiệp khác không dám làm theo, có như thế mới xây
dựng được công đồng kinh doanh gắn bó chặt chẽ không chỉ vì lợi ích của chính doanh
nghiệp mà còn vì lợi ích chung của quốc gia.
4.3. Đối với nông nghiệp nông thôn và nông dân
- Đối với nông nghiệp nông thôn
Hiện nay, nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và
Chính phủ. 20 năm trở lại đây ở khu vực nông thôn giá trị sản lượng nông nghiệp tăng
trưởng trung bình 4,5-5%/năm. Tuy nhiên, do văn bản mới đi vào thực hiện nên nông
nghiệp nông thôn chưa có sự thay đổi rõ rệt . Trong 3 năm qua, khu vực nông nghiệp,
nông thôn đã vượt qua khó khăn, duy trì tăng trưởng. Năm 2009 đạt mức tăng GDP
1,83%; năm 2010 đạt 2,78%; bình quân giai đoạn 2006 – 2010 đạt 3,36%/năm, vượt
mục tiêu Đại hội Đảng X đề ra. Cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển biến tích

cực. Đến nay, công nghiệp và dịch vụ đã chiếm khoảng 60% cơ cấu kinh tế nông thôn.
Công tác giảm nghèo đạt được thành tựu nổi bật, được cộng đồng quốc tế coi là điểm
sáng trên toàn cầu. Theo tiêu chí cũ, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm từ 13,1% năm
2008 xuống còn 9,45% năm 2010.
- Đối với nông dân:
Theo nghiên cứu của WB, khoảng 80% lúa gạo XK của ĐBSCL tập trung vào
khoảng 3.000 hộ có diện tích lớn đất canh tác. Có 40% số hộ của cả vùng có diện tích
đất canh tác dưới 2 ha, thu nhập từ lúa gạo thấp, sống dưới mức đói nghèo. Như vậy
lúa gạo đã chưa giúp thoát đói nghèo cho đại đa số nông dân, mà chỉ giúp thiểu số
những hộ có diện tích lớn khá giả.
Theo thống kê của Viện trưởng Viện khoa học-kỹ thuật nông nghiệp miền Nam,
năm 2010, thu nhập bình quân tính theo đầu người của cả nước là trên 1.000 USD thì
người trồng lúa chỉ mới đạt khoảng 386 USD và đến năm 2011, cũng chỉ mới đạt mức
480-490 USD/người/năm. Việc 80% nông dân (chủ yếu trồng lúa) thu nhập chưa bằng
40% so với mặt bằng chung của xã hội là vấn đề rất đáng suy nghĩ. “Xuất khẩu nhiều
mà đời sống nông dân không đảm bảo” đang là thưc trạng hiện nay.
• Tình hình hiện tại của việc thi hành chính sách
Bộ Công Thương cùng các ban ngành khác cũng đồng ý nới rộng thời gian
thực hiện các hạng mục theo yêu cầu của Nghị định 109 như phải có kho
chứa từ 5.000 tấn trở lên, có nhà máy xay xát với công suất 10 tấn/giờ, có
máy tách vỏ lúa, đánh bóng…, lùi thêm 1 năm, tức đến ngày 1-10-2012 (hai
khoảng thời gian để doanh nghiệp chuẩn bị, còn gọi là giai đoạn chuyển tiếp,
thứ nhất từ ngày 1-1-2011 đến 30-9-2011 và giai đoạn chuyển tiếp thứ hai là
từ đó đến 1-10-2012.)
Hiện nay, doanh nghiệp thấy còn thiếu hạng mục nào thì có thể đi thuê ngoài. Bộ
cũng yêu cầu sở công thương các tỉnh giới thiệu, liên hệ giúp các doanh nghiệp đi
tìm cơ sở thuê ngoài. Trên cơ sở hợp đồng thuê tạm đó, bộ sẽ cấp giấy phép xuất
khẩu tạm thời trong 1 năm. Có thể tính đến chuyện thêm thời gian nhất định để
giúp các doanh nghiệp nhỏ, để có sự công bằng trong điều kiện kinh doanh khó
khăn nói chung và xuất khẩu lương thực nói riêng.

Doanh nghiệp phải chứng tỏ rằng mình có định hướng đầu tư lâu dài, bằng việc có
cơ sở của chính mình, đáp ứng các yêu cầu của Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp
cũng như tinh thần Nghị định 109. Nếu muốn phát triển xuất khẩu gạo bền vững
thì doanh nghiệp phải có trách nhiệm với bà con nông dân bằng cách hạn chế rủi
ro, thất thoát sau thu hoạch, nâng chất lượng hạt gạo.
5. Một số vấn đề tồn tại của ngành hàng xuất khẩu gạo và hạn chế của chính sách
Từ tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu lúa gạo như trên có thể thấy ngành
hàng lúa gạo Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại một số khiếm khuyết, gây ra tổn thất
không nhỏ đối với lới ích chính đáng của nông dân và quốc gia
Về sản xuất, do có quá nhiều giống lúa với chất lượng hạt khác biệt nhau dẫn
đến không đồng nhất về chất lượng, và hệ quả là không thể xác định nguồn gốc và xây
dựng thương hiệu. Chi phí vật tư có nguồn gốc dầu mỏ mà chủ yếu là nhiên liệu, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật tăng cao do lệ thuộc nhập khẩu và chi phí phân phối, tiếp thị
cao. Chi phí lao động, nhất là công đoạn thu hoạc cao, vì thiếu hụt lao động nông
nghiệp và mức độ cơ giới hóa trong công đoạn thu hoạch còn quá thấp. Các vấn đề này
tác động làm cho chất lượng gạo xuất khẩu thấp, giá thành sản xuất cao và tỷ lệ thất
thoát sau thu hoạch quá cao ( ước tính từ 10-12% tổng sản lượng)
Cơ chế xuất khẩu hiện nay đã nới lỏng rất nhiều so với trước đây. Mặc dù các
văn bản chính thức đều không nhắc đến cơ chế hạn ngạch nhưng tổng sản lượng gạo
xuất khẩu phải dựa trên định hướng số lượng xuất khẩu do Chính Phủ quy định dựa
trên cân đối cung cầu thường kì. Ngoài ra, việc quy định tổ chức thực hiện hợp đồng
xuất khẩu tập trung( chỉ định giao dịch dự thầu hoặc ký kết hợp đồng,phân giao chỉ
tiêu 20% xuất khẩu trực tiếp, 80% xuất khẩu ủy thác qua các thành viên khác) và việc
quy định đăng kí số lượng xuất khẩu cho các hợp đồng thương mại trên cơ sở chỉ tiêu
xuất khẩu gạo định hướng cũng thể hiện bản chất của cơ chế diều hành xuất khẩu gạo
hiện nay là theo hạn ngạch.
Theo lý thuyết khi nước xuất khẩu muốn hạn chế tăng giá gạo nội địa do tác
động của sự tăng giá gạo quốc tê thì có thể qpa dụng cơ chế xuất khẩu hoặc hạn ngạch.
Cơ chế thuế xuất khẩu sẽ chuyển giao thu nhập từ thuế xuất khẩu về cho nhà nước,
trong khi cơ chế hạn ngạch sẽ chuyển giao lợi ích đó về cho các doanh nghiệp xuất

khẩu. Ngoài ra cơ chế phân bổ chỉ tiêu lại có thể dãn đến vấn đề xin-cho, mua bán chỉ
tiêu cũng như sự lựa chọn thiếu công bằng giữa các nhà xuất khẩu. Khi có chênh lệch
lón giữa giá quốc tế và nội địa, nhà sản xuất sẽ là người hưởng lợi chính chứ không
phải là nhà nước ( thong qua thu nhập từ thuế xuất khẩu) và nông dân ( nhờ giá tăng).
Rõ ràng là cơ chế phân giao chỉ tiêu xuất khẩu và cũng không tạo ra lợi ích tối đa cho
nhà nước và người sản xuất.
Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu gạo không bị ràng buộc về điều kiện năng
lực vốn, bảo đảm vùng nguyên liệu, quy mô kho bãi tồn trữ, quy mô trang thiết bị xay
xát chế biến. Vì vậy có quá nhiều doanh nghiệp thương mại tham gia xuất khẩu vào hệ
thống cung ứng gạo đã tạo ra một cơ chế thu mua, chế biến thong qua nhiều tầng trung
gian nên lợi nhuận của nông dân bị giảm. Về mặt kĩ thuật quy trình chế biến gạo xuất
khẩu dựa trên dự trữ gạo nguyên liệu, sau đó phối trộn, lau bóng, sấy và phân cấp theo
hợp đồng xuất khẩu của hệ thống thu mua - chế biến - thương mại hiện nay có bản chất
là quy trình ngược, thay vì dự trữ lúa nguyên liệu và xay xát đến gạo thành phẩm. Quy
trình ngược này dẫn đến chất lượng gạo thấp, tỷ lệ hao hụt và hư hỏng cao,tăng chi phí
trong công đoạn chế biến.
Cơ chế bình ổn giá chưa được xác lập rõ ràng và nhất quán. Dường như do Nhà
thiếu vốn bảo đảm thu mua dự trữ quốc gia nên dự trữ lưu thông do các doanh nghiệp
thực hiện là cơ chế chủ yếu được áp dụng để bình ổn giá hiện nay. Tuy nhiên, cơ chế
này tỏ ra không phù hợp với bản chất kinh tế thị trường của các doanh nghiệp xuất
khẩu, vì buộc các doanh nghiệp thu mua tạm trữ nhằm bình ổn giá bằng nguồn vốn
kinh doanh của doanh nghiệp, mà đa số phải vay với lãi suất thỏa thuận. Việc buộc
doanh nghiệp dự trữ lớn sẽ tăng thêm chi phí, nhất là khi lãi suất cho vay của ngân
hàng tăng và cuối cùng lại tính vào giá thành làm giảm sức cạnh tranh của gạo Việt
Nam khi xuất khẩu. Đồng thời, một nghịch lý khác là khi giá gạo xuất khẩu xuống
thấp, doanh nghiệp có thể thua lỗ nếu phải bắt buộc mua lúa từ nông dân với giá sàn
bảo đảm lợi nhuận cho nông dân 30% so với giá bán. Hơn nữa, khi có dư cung trên thị
trường thế giới, và giá xuất khẩu xuống thấp thì việc buộc doanh nghiệp phải bảo đảm
lợi nhuận mang tính nguyên tắc cho nông dân cũng không phù hợp với quy luật thị
trường. Rõ ràng là cơ chế bình ổn giá hiện nay không tách biệt được lợi ích công (dự

trữ cho mục tiêu an ninh lương thực và bình ổn giá) và lợi ích tư nhân (lợi nhuận từ
kinh doanh của các doanh nghiệp). Đáng lẽ ra, cơ chế bình ổn giá phải tách biệt cho
được hai chức năng này.
Trong khi đó, năng lực dự trữ chung của vùng rất hạn chế do quá thiếu kho
chứa. Ý định của Chính phủ triển khai đầu tư xây dựng hệ thống kho dự trữ hiện đại có
quy mô 4 triệu tấn vẫn chưa thể thực hiện do thiếu vốn, không xác định được vai trò ai
là chủ đầu tư, cơ chế đầu tư, và cơ chế vận hành, khai thác. Do đó, việc thu mua dự trữ
quốc gia nhằm mục tiêu an ninh lương thực và bình ổn cũng khó thực hiện được vì
thiếu cơ sở hạ tầng lưu trữ.Đồng thời, việc thay đổi các quy định về hoạt động kinh
doanh xuất khẩu gạo theo hướng là một ngành nghề có điều kiện vẫn còn đang bị bỏ
ngỏ do xung đột lợi ích giữa các bên liên quan, mặc dù đã có những cuộc thảo luận
chính thức vào giữa năm 2009 do Bộ Công Thương tổ chức.
Một vấn đề tồn tại khác là sự thiếu vắng một hệ thống cơ quan độc lập có chức
năng giám sát, đánh giá, phân tích về chi phí, giá thành và hiệu quả kinh tế của từng
hoạt động và toàn bộ ngành hàng lúa gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long để cung cấp
thông tin tin cậy cho các bên liên quan. Nhà hoạch định chính sách không biết được chi
phí sản xuất, lợi nhuận, giá trị gia tăng ở từng tác nhân tham gia trong ngành hàng là
bao nhiêu, và phân phối lợi ích kinh tế giữa các tác nhân như thế nào để điều chỉnh
chính sách cho phù hợp. Các tranh cãi dai dẵng về cách tính giá thành và phân phối lợi
nhuận giữa các tác nhân trong ngành hàng cũng là hệ quả của vấn đề này. Tóm tắt lại,
có thể thấy có nhiều vấn đề mà dư luận xã hội bức xúc đối với quan hệ kinh tế - thể chế
của ngành hàng lúa gạo, bao gồm các điểm chính yếu sau:
-Về phía sản xuất: nông dân có thu nhập và lợi nhuận thấp trong sản xuất lúa gạo;
-Về phía nhà kinh doanh xuất khẩu lúa gạo:
• Có hiện tượng doanh nghiệp độc quyền nhóm;
• Có tồn tại sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thành viên của VFA và
không phải thành viên; giữa nhóm thành viên chủ yếu chiếm thị phần lớn và các
thành viên nhỏ
• Doanh nghiệp xuất khẩu chiếm giữ phần lớn lợi nhuận sinh ra từ chuỗi giá trị lúa
gạo xuất khẩu;

-Về phía tổ chức sản xuất:
• Cấu trúc chuỗi giá trị lúa gạo bất hợp lý về cả khía cạnh tổ chức, kinh tế và kỹ
thuật
• Phân bố cụm ngành cho chuỗi giá trị lúa gạo không hợp lý;
-Chính sách vĩ mô liên quan:
• Duy trì chính sách ổn định quy mô canh tác lúa và định hướng xuất khẩu riêng
cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cần được xem xét lại tính hợp lý về sử
dụng nguồn lực
• Chưa có chính sách cụ thể về dự trữ lương thực quốc gia gắn kết với ngành hàng
lúa gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
• Chính sách điều hành xuất khẩu gạo hiện nay có lợi cho doanh nghiệp, bất lợi
cho nông dân;
6. Kiến nghị (Đề xuất hoàn thiện chính sách)
Bất cứ chính sách nào của quốc gia được đưa ra thì cần dựa trên cơ chế thị trường, lợi
thế phát triển bền vững.Vì vậy cần phải chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước nên cân nhắc lại việc duy trì cơ chế điều hành xuất khẩu gạo theo
cách ấn định khối lượng gạo xuất khẩu, và cách thức phân bổ chỉ tiêu cho hợp đồng
xuất khẩu tập trung. Để cân bằng các lợi ích quốc gia về khai thác lợi thế sản xuất và
xuất khẩu gạo để tăng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm lại lợi ích kinh tế cho nông dân
và đồng thời bảo đảm giá lương thực phù hợp cho khu vực đô thị và người tiêu dùng
lương thực, việc áp dụng công cụ thuế linh hoạt thay cho công cụ hạn ngạch vừa có
tính khả thi, vừa có hiệu quả tốt hơn. Khi áp dụng cơ chế thuế xuất khẩu, Hiệp hội
lương thực sẽ quay trở về vai trò đúng đắn của một hiệp hội ngành nghề là đại diện cho
lợi ích hợp pháp của các thành viên, nghiên cứu và cung cấp thông tin thị trường, điều
phối việc xuất khẩu của các thành viên thông qua cơ chế đấu thầu lại các hợp đồng
xuất khẩu lương thực cấp Chính phủ với mức thuế xuất khẩu xác định.
Thứ hai, cần phải tôn trọng các quy luật thị trường và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp xuất khẩu song song với việc bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá. Vì
vậy, phải tách riêng vai trò dự trữ lương thực quốc gia ra khỏi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Điều kiện tiên quyết phải là đầu tư vốn xây dựng hệ thống kho chứa

quốc gia phục vụ mục tiêu dự trữ quốc gia, bảo đảm an ninh lương thực và bình ổn giá
và xây dựng quỹ bình ổn giá lương thực. Đẩy mạnh hoạt động thu mua dự trữ khi giá
lúa nội địa xuống thấp dựa trên quỹ bình ổn giá vừa giúp bảo bảo an ninh lương thực
vừa giúp tạo ra mặt bằng giá an toàn cho người sản xuất. Khi có nhu cầu xuất khẩu
gạo, Nhà nước có thể bán ra một phần lượng lúa dự trữ này cho các công ty. Các doanh
nghiệp cũng có thể thuê hệ thống kho chứa này để dự trữ lúa trong khi chờ hợp đồng
xuất khẩu.
Thứ ba, để cải thiện cơ chế thu mua gạo xuất khẩu, cũng như thay đổi cơ chế vận hành
của ngành hàng lúa gạo, cần áp dụng chính sách quy định kinh doanh xuất khẩu gạo là
hoạt động kinh doanh có điều kiện. Các doanh nghiệp xuất khẩu phải đạt một quy mô
vốn nhất định, phải có hệ thống kho chứa, nhà máy xay xát chế biến ở một ngưỡng tối
thiểu, có đầu tư phát triển vùng lúa nguyên liệu riêng trong quan hệ liên kết dọc với
người sản xuất mới được phép kinh doanh xuất khẩu gạo. Cũng cần quy định bắt buộc
các doanh nghiệp này phải xuất khẩu gạo với thương hiệu riêng của mình để nâng cao
trách nhiệm với chất lượng hạt gạo quốc gia.
Thứ tư, cải thiện hoạt động cung cấp đầu vào cho sản xuất lúa nhằm giảm chi phí và
giá thành là gợi ý thứ tư. Cần thiết coi phân bón là một mặt hàng chiến lược cho nông
nghiệp và có những biện pháp tiết giảm chi phí phân bón và tăng hiệu quả sử dụng. Mở
rộng cung cấp tín dụng cho chế tạo, lắp ráp và mua sắm thiết bị thu hoạch lúa để tăng
cơ giới hóa thu hoạch và giải quyết thiếu hụt lao động nông nghiệp ở các vùng trồng
lúa quy mô lớn.
Thứ năm, để hỗ trợ công tác điều hành vĩ mô về chính sách lương thực, cần thiết phải
có một cơ quan độc lập có chức năng giám sát, đánh giá, phân tích về chi phí, giá thành
và hiệu quả kinh tế của từng hoạt động và toàn bộ ngành hàng lúa gạo ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long để cung cấp thông tin tin cậy. Cơ quan này có thể là một viện nghiên
cứu hoặc trường đại học ngành kinh tế làm đầu mối để phối hợp với các cơ quan, tổ
chức khác trong thu thập thông tin. Ở cấp địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn có thể là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức điều tra định kỳ theo vụ để thu
thập thông tin về giá vật tư đầu vào, chi phí sản xuất, năng suất, giá thành. Ở cấp trung
ương, Hiệp hội lương thực phải là nơi cung cấp thông tin về giá xuất khẩu, và chi phí

chế biến - xuất khẩu của một số doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ sáu, phải tăng cường sức mạnh chính trị của người dân. Để tự người nông dân
phải tham gia vào quá trình lập chính sách và chủ động triển khai chính sách một cahs
có hiệu quả,phải tổ chức các HTX,các hiệp hội của người nông dân.Qua các hiệp hội
này chính phủ có thể hỗ trợ hộ nông dân nhỏ lẻ vay vốn, trữ lúa gạo Như vậy sẽ giúp
cho người nông dân sản xuất ,kinh doanh ,tham gia ngày càng cao hơn trên chuỗi giá
trị, mang lại hiệu quả bền vững
Phần IV. Kết luận
Ở Việt Nam, nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề quan trọng, bức bách cần
được các cấp chính quyền quan tâm và cần có nhiều biện pháp quan tâm giúp đỡ. Vấn
đề giá sàn và quỹ bình ổn giá mà chính sách đưa ra thực sự là cần thiết đối với đời
sống của gười dân và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo. Trong thời gian
tới, Việt Nam cần coi trọng đúng mức tầm quan trọng của nông dân, từ đó có những
chính sách phù hợp nâng cao đời sống của người dân, góp phần vào quá trình phát triển
kinh tế NN,NT; có những biện pháp nghiêm khắc đối với những doanh nghiệp hoạt
động không hiệu quả mang lại sự “méo mó” của thị trường; tận dụng khai thác mọi
tiềm năng về đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên; phát triển kết cấu hạ tầng, tạo
điều kiện cho nông dân tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh; phát triển
ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho người lao
động trong nông thôn, nâng cao cuộc sống tinh thần vật chất cho người nông dân.

×