Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tìm hiểu tình hình thực hiện chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.97 KB, 30 trang )

Chính sách nông nghiệp
I. Tính cấp thiết của đề tài.
Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương chuyển nền kinh tế từ cơ chế bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo đó phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, đa dạng hoá, đặc biệt thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự
chủ, có quyền bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trước pháp luật. Việc giao
đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài, với các quyền cơ bản: chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp việc mở rộng hoạt động tín dụng
nông thôn cả về mạng lưới cùng như cơ cấu vốn, tăng cường các biện pháp khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dịch vụ nông nghiệp nông thôn đã phát huy cao tiềm
năng của đất đai, sức lao động, tiền vốn. Chủ trương và chính sách đó đã tạo ra sự đổi
mới căn bản trong sản xuất nông nghiệp, bộ mặt nông thôn ngày một khởi sắc, đời
sống nông dân ngày một nâng cao, qui mô sản xuất của từng hộ gia đình đã được mở
rộng, tính chất và mục đích sản xuất cũng đã thay đổi đã sản xuất ra khối lượng hàng
hoá lớn để bán trong nước và xuất khẩu, đó là một mô hình sản xuất mới xuất hiện
trong cơ chế thị trường ở nông thôn mà ta gọi là kinh tế trang trại.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, kinh tế trang trại luôn có
vị trí và vai trò quan trọng. Trước hết kinh tế trang trại được khẳng định là cơ sở sản
xuất, kinh doanh nông - lâm - ngư nghiệp, là hình thức sản xuất kinh doanh trực tiếp
tạo ra nông sản hàng hoá cho xã hội, là đối tượng để tổ chức lại nền nông nghiệp -
nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Mặt khác, kinh tế trang trại có vai trò quan
trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tập trung
chuyên canh, sản xuất hàng hoá, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm có giá trị cao.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn không những đem lại
hiệu quả về mặt kinh tế mà còn mang lại hiệu quả về xã hội, môi trường, tạo điều kiện
thu hút lao động dôi dư ở nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, đồng thời cho phép sử dụng tài nguyên đất đai, điều kiện tự nhiên và nguồn lực
lao động một cách hiệu quả.
Trong thời gian qua, kinh tế trang trại ở nước ta phát triển khá mạnh và đã đạt
được những kết quả nhất định, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 03/2000/NQ- CP của
Chính phủ về phát triển kinh tế trang trại với đặc trưng là sản xuất hàng hoá quy mô


1
Chính sách nông nghiệp
lớn đã trở thành một trong những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp
phù hợp và có hiệu quả cao trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Nhưng đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu, việc phát triển số lượng, quy mô, hiệu
quả của các trang trại vẫn chưa phát huy được những thế mạnh sẵn có. Các trang trại
phát triển mang tính tự phát, sản phẩm chủ yếu mới qua sơ chế, mới tính đến số lượng
chưa thực sự quan tâm đến chất lượng sản phẩm và nhu cầu thị trường….Những vấn
đề đó ảnh hưởng đến hiệu quả và sự phát triển bền vững của kinh tế trang trại trên địa
bàn huyện. Vì vậy, cần phải điều tra nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng thực hiện
chính sách phát triển kinh tế trang trại ở đây một cách toàn diện làm cơ sở cho việc
hoạch định phương hướng và đề ra các giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong
toàn huyện được hiệu quả. Do đó, nhóm chúng em chọn đề tài “ Tìm hiểu tình hình
thực hiện chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại ở Thành phố Hà
Nội”.
II. Mục tiêu.
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Tìm hiểu tình hình thực hiện chính sách phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
- Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành và phát triển kinh tế trang trại,
các đặc trưng của kinh tế trang trại và tiêu trí đánh giá trang trại.
- Đánh giá vai trò của kinh tế trang trại cũng như tìm hiểu xu hướng phát triển
kinh tế trang trại.
- Hệ thống các văn bản chính sách liên quan đến chính sách phát triển kinh tế
trang trại.
- Nội dung của chính sách phát triển kinh tế trang trại.
- Đánh giá tồn tại, hạn chế bất cập của chính sách và đề xuất hoàn thiện chính
sách.
III. Phương pháp nghiên cứu.

3,1 Xác định điểm nghiên cứu: Chọn địa bàn Thành phố Hà Nội là địa bàn nghiên cứu
tình hình thực hiện chính sách.
2
Chính sách nông nghiệp
3,2. Thu thập số liệu: Sử dụng số liệu thứ cấp là chủ yếu.
3,3. Sử lý số liệu: Các số liệu thu thập trên mạng, trên báo và các bảng thống kê của
việc thực hiện chính sách tại Thành phố Hà Nội.
3,4. Phương pháp phân tích:
- Phương pháp thống kê mô tả, phân tích thực trạng phát triển của việc áp dụng chính
sách này.
Phân tích các chính sách liên quan đến việc thực hiện chính sách này tại Thành phố Hà
Nội.
3
Chính sách nông nghiệp
IV. Nội dung.
IV.1 Một số lý luận về chính sách phát triển trang trại.
4.1.1. Một số khái niệm.
* Chính sách: là chủ trương và các biện pháp thực thi của một chính đảng và chính
phủ về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
* Chính sách phát triển nông nghiệp: là tập hợp các giải pháp cụ thể hoá chủ trương
của Đảng và nhà nước để phát triển nông nghiệp. Các chính sách phát triển nông
nghiệp gồm: Chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách giá nông sản, chính
sách bảo hiểm sản xuất nông nghiệp, chính sách hỗ trợ, chính sách ruộng đất, chính
sách phát triển KTTT, chính sách phát triển hợp tác xã, chính sách tiêu thụ nông
sản…
* Trang trại: là đơn vị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, và nuôi trồng thuỷ sản hàng
hoá tập trung có quy mô tương đối lớn hoặc lớn đem lại hiệu quả cao.
* Kinh tế trang trại : là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông
thôn chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản
xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng gắn sản

xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản.
Theo nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2000 nêu rõ “Kinh
tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn,
chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất
trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm, thủy sản”.
4.1.2 Chính sách phát triển kinh tế trang trại.
Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP đã khẳng định chủ trương nhất quán là
khuyến khích mạnh mẽ phát triển KTTT trong nông nghiệp và nông thôn. Như Nghị
quyết đã nêu rõ: Phát triển KTTT chính là góp phần khai thác sử dụng có hiệu quả
đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững, tạo việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm
nghèo, phân bổ lại lao động, dân cư xây dựng nông thôn mới.
Chính sách nông nghiệp
Quá trình tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền với quá trình
phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp
sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình CNHHĐH trong nông
nghiệp và nông thôn.
Kết quả hoạt động kinh doanh của KTTT có thể khẳng định vai trò, vị trí của
KTTT : Là “tế bào” của nền nông nghiệp hàng hoá là bộ phận cấu thành quan trọng
của hệ thống nông nghiêp, là hình thức doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra nông sản
phẩm hàng hoá cho xã hội, thích hợp với sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị
trường. KTTT đã và đang “đánh thức dậy” nhiều vùng đất hoang hoá, đồi núi trọc, sử
dụng một phần sức lao động dư thừa tại chỗ để tạo ra nông sản hàng hóa, bảo vệ và
phát triển môi trường, củng cố quan hệ sản xuất XHCN trong nông thôn.
Sau nghị quyết 03/CP của chính phủ, các bộ các ngành đã ban hành các văn
bản hướng dẫn thực hiện bao gồm các qui định cụ thể để thực hiện các chính sách
chủ yếu là:
+ Về sử dụng đất đai
Theo nghị quyết số 03/CP ngày 02/02/2000 thì hộ gia đình có nhu cầu và khả
năng sử dụng đất để phát triển trang trại được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất và

được cấp giấy CNQSDĐ, thẩm quyền giao đất cho thuê, được áp dụng theo quy định
tại Nghị định số 85/NĐ-CP ngày 28/08/1999 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một
số quy định về giao đất nông nghiệp cho một số hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài và Nghị định số 163/1999/ NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao
đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài vào mục đích lâm nghiệp.
Mặt khác theo điều 82 luật đất đai năm 2003( có hiệu lực từ 01/7/2004), đất sử
dụng cho KTTT còn được quy định như sau:
1. Nhà nước khuyến khích hình thức KTTT của hộ gia đình, cá nhân nhằm khai thác
có hiệu quả đất đai để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sử
dụng đất trong sản xuất nông, lâm nghiệp ,nuôi trồng thuỷ sản, làm muối gắn với
dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Chính sách nông nghiệp
2. Đất sử dụng cho KTTT bao gồm đất được nhà nước giao không thu tiền sử dụng
đất trong hạn mức giao đất cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối quy định tại điều 70 luật đất đai, đất do
nhà nước cho thuê, đất do thuê, nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế được tặng cho,
đất do nhận khoán của tổ chức, đất do hộ gia đình, cá nhận góp.
3. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất làm KTTT được chủ động chuyển đổi mục đích
sử dụng các loại đất theo phương án sản xuất, kinh doanh đã được UBND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt.
4. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất làm KTTT phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đã được xét duyệt được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là không có
tranh chấp thì được tiếp tục sử dụng theo các quy định sau đây:
a) Trường hợp đất được giao không thu tiền sử dụng đất trong hạn mức cho hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm
muối thì được tiếp tục sử dụng trong thời hạn còn lại.
b) Trường hợp đất được giao không thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất nông nghiệp- lâm nghiệp- nuôi trồng thuỷ sản, làm muối thì phải
chuyển sang thuê đất.

c) Trường hợp sử dụng đất do được nhà nước cho thuê, nhận chuyển nhượng, được
thừa kế, nhận khoán của tổ chức, do hộ gia đình cá nhân góp vốn thì được tiếp tục sử
dụng theo quy định của luật này.
5. Nghiêm cấm việc lợi dụng hình thức KTTT để bao chiếm, tích tụ đất đai không vì
mục đích sản xuất.
+ Về thuế
Để khuyến khích và tạo điều kiện hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển KTTT
nhất là những vùng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi đầm phá ven biển, thực hiện miễn
thuế thu nhập cho trang trại với thời gian tối đa theo nghị định số 51/1999/ NĐ-CP
ngày 08/7/1999 của chính phủ. Theo quy định của luật thuế thu nhập doanh nghiệp
thì hộ gia đình và cá nhân, nông dân sản xuất hàng hoá lớn, có thu nhập cao thuộc
đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Giao cho Bộ tài chính nghiên cứu trình
Chính sách nông nghiệp
chính phủ sửa đổi, bổ sung nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 của chính
phủ về quy định chi tiết thi hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp, đối tượng nộp
thuế là những hộ làm KTTT đã SXKD ổn định, có giá trị hàng hoá và lãi lớn giảm
mức thuế suất nhằm khuyến khích phát triển KTTT .
Tuỳ vào hoạt động SXKD của trang trại mà chủ trang trại phải đóng những
loại thuế( thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất nông
nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu). Các trang trại được
miễn tiền thuế đất theo quy định của pháp luật về đất đai khi thuê đất trống đồi núi
trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích ở
các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp.
+Về tín dụng
- Trang trại phát triển SXKD được vay vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại
quốc doanh. Thực hiện theo quyết định số 67/1999/ QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của
Thủ tướng chính phủ .
- Chủ trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay theo
quy định tại nghị định số 178/1999/ NĐ- CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về bảo

đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
- Mức cho vay, phương thức cho vay của tổ chức tín dụng đối với chủ trang trại theo
quyết định 423/ QĐ- NHNN1.
+Về phân bổ sử dụng lao động
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng
quy mô SXKD, tạo được nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Ưu tiên sử dụng lao
động của hộ nông dân không đất. Thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu
việc làm. Chủ trang trại được thuê lao động không hạn chế số lượng, trả công lao
động trên cơ sở thoả thuận với người lao động theo quy định của pháp luật về lao
động.
Đối với những địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, Chủ
trang trại đựơc ưu tiên vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm
Chính sách nông nghiệp
nghèo để tạo việc làm cho lao động tại chỗ, thu hút lao động ở các vùng đông dân cư
để phát triển sản xuất. Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động làm
trong trang trại bằng nhiều hình thức tập huấn, bỗi dưỡng ngắn hạn.
- Nghị định số 39/2000/NĐ-CP. Ngày 18/4/2003. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của bộ luật lao động về việc làm.
- Thông tư 23/2000/TT-BLĐTB&XH ngày 28/9/2000 hướng dẫn một số chế độ đối
với người lao động làm việc trong các trang trại.
+Về khoa học-công nghệ
Nghị quyết 03/2000/ NQ-CP. Ngày 02/02/2000 đã thể hiện chính sách ưu đãi
trong công tác thuỷ lợi phục vụ hoạt động của trang trại. Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn cùng với các địa phương có quy hoạch, kế hoạch xây dựng các công
trình thuỷ lợi để tạo nguồn nước phát triển sản xuất. Chủ trang trại tự bỏ vốn hoặc
vay từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước để xây dựng hệ thống dẫn
nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong trang trại.
+ Về tiêu thụ nông sản
Bộ Thương mại, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương tổ chức tốt việc cung cấp trông tin thị trường,

khuyến cáo KHKT, gắn trang trại định hướng SXKD phù hợp với nhu cầu của thị
trường trong và ngoài nước.
Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp mở rộng và xây dựng mới các cơ sở
công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh: Hướng dẫn việc ký kết hợp
đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản. Nhà nước khuyến khích phát triển chợ
nông thôn các trung tâm giao dịch mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp. Tạo điều
kiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các chương trình, dự án hợp tác
hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Đẩy mạnh sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất,
chế biến tiêu thụ nông sản thuộc các thành phần kinh tế. Đặc biệt là giữa các doanh
nghiệp nhà nước với hợp tác xã, chủ trang trại, hộ nông dân. Nhà nước tạo điều kiện
và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình và sản phẩm
mua gom của trang trại khác và nhập khẩu vật tư nông nghiệp.
Chính sách nông nghiệp
- Thông tư 61/2000/ TT-BNNPTNT/ KH ngày 6/6/2000. Hướng dẫn quy hoạch sản
xuất nông, lâm nghiệp và chế biến tiêu thụ nông sản đối với chủ trang trại.
4.1.2 Đặc trưng của kinh tế trang trại.
Các đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại như sau:
+ Đặc trưng về mục đích sản xuất: Sản xuất hàng hóa theo nhu cầu cảu thị trường,
đây là đặc trưng quan trọng nhất của trang trại.
- Đặc trưng về yếu tố sản xuất: Ruộng đất và tiền vốn được tập trung với quy mô đủ
lớn để sản xuất hàng hóa.
- Về tổ chức sản xuất: trang trại có phương thức tổ chức sản xuất tiến bộ trê cơ sở
thâm canh, chuyên canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và thường xuyên tiếp
cận thị trường.
- Về chủ trang trại: Có ý chí, nghị lực, năng lực tổ chức quản lý kinh doanh, có kiến
thức, kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp.
- Về lao động: chủ yếu là sử dụng lao động gia đình và lao động thuê mướn nhưng
tùy thuộc vào từng loại hình và quy mô của từng trang trại.
4.1.3 Tiêu chí xác định trang trại.
Để xác định một đơn vị sản xuất cơ sở trong nông nghiệp có phải là một trang

trại hay không cần phải có tiêu chí xác định. Tiêu chí xác định trang trại dựa trên các
đặc trưng cơ bản nhất của trang trại nhưng cần đơn giản, dễ vận dụng. Theo thông tư
Số: 27/2011/TT-BNNPTNT Quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh
tế trang trại ngày 13 tháng 4 năm 2011 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
hướng dẫn tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại như sau:
Điều 2: Đối tượng áp dụng.
1. Cá nhân, hộ gia đình có hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản đạt tiêu chí xác định kinh tế trang trại theo quy định của Thông tư này;
2. Tổ chức, cá nhân khác liên quan đến việc cấp, cấp đổi, cấp lại và thu hồi giấy
chứng nhận kinh tế trang trại.
Điều 3. Phân loại trang trại
Chính sách nông nghiệp
1. Các trang trại được xác định theo lĩnh vực sản xuất như sau:
a) Trang trại trồng trọt;
b) Trang trại chăn nuôi;
c) Trang trại lâm nghiệp;
d) Trang trại nuôi trồng thuỷ sản;
đ) Trang trại tổng hợp.
2. Trang trại chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản) là
trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của ngành chiếm trên 50%
cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong năm. Trường hợp không có
ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại
tổng hợp.
Điều 5. Tiêu chí xác định kinh tế trang trại
Cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đạt tiêu
chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
1. Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt:
a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu:
- 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long;
- 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.

b) Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.
2. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu
đồng/năm trở lên;
3. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản
lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
Điều 6. Thay đổi tiêu chí xác định kinh tế trang trại
Tiêu chí xác định kinh tế trang trại được điều chỉnh phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, ổn định trong thời gian tối thiểu là 5
năm.
4.1.4 Vai trò kinh tế trang trại.
Chính sách nông nghiệp
Kinh tế trang trại có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền nông
nghiệp bền vững:
- Đóng góp vào tăng trưởng nông nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh.
- Tác động đến môi trường tự nhiên và cân bằng sinh thái.
- Giải quyết việc làm và tạo thu nhập ổn định cho nông dân vùng nông thôn.
4.1.5 Xu huớng phát triển KTTT ở Việt Nam
Các trang trại đã được hình thành ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường đã
đang và sẽ phát triển theo các xu hướng sau:
- Tích tụ và tập trung sản xuất: Sau khi hình thành, nhìn chung các trang trại vẫn diễn ra
quá trình tích tụ và tập trung sản xuất nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu
quả SXKD. Tích tụ ở đây chủ yếu là tích tụ vốn mà thực chất là tích luỹ vốn, làm tăng
vốn tự có của trang trại để đầu tư mở rộng sản xuất mà chủ yếu là đầu tư cho thâm
canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
- Chuyên môn hoá sản xuất: Chuyên môn hoá là điều kiện để phát triển sản xuất hàng
hoá. Do vậy sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá là một xu hướng phát triển của
KTTT.
- Nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh hoá sản xuất: Phát triển sản xuất nông sản
phẩm hàng hoá và nâng cao hiệu quả sản xuất đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình
độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất là cơ sở quan trọng để nâng cao năng suất cây trồng,

vật nuôi, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
- Hợp tác và cạnh tranh
Các trang trại muốn SXKD phát triển ổn định và đạt hiệu quả thì cùng với việc
thực hiện tích luỹ mở rộng sản xuất, chuyên môn hoá sản xuất, nâng cao kỹ thuật và
thâm canh sản xuất phải hợp tác với nhau và với các đơn vị, tổ chức kinh tế khác có
liên quan tới hoạt động SXKD của trang trại để giúp cho mỗi trang trại giải quyết tốt
hơn những vấn đề của SXKD mà mỗi trang trại nếu tách rời ra sẽ không giải quyết
được hoặc giải quyết kém hiệu quả như: Xây dựng hệ thống tưới tiêu nước, chế biến
sản phẩm, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới, cung ứng vật tư sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm…
Chính sách nông nghiệp
Cùng với hợp tác SXKD, mỗi trang trại đồng thời còn phải cạnh tranh với các
trang trại, với những đơn vị, tổ chức kinh tế khác cùng SXKD những sản phẩm như của
trang trại để có thể tiêu thụ nông sản phẩm làm ra với giá cả hợp lý, đảm bảo có lãi,
thực hiện tích luỹ và mở rộng sản xuất. Muốn đứng vững trong cạnh tranh, các trang
trại phải coi trọng việc nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm làm ra.
* Những điều kiện ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và phát triển của KTTT
- Có sự tác động tích cực và phù hợp của Nhà nước: Sự tác động của Nhà nước có vai
trò to lớn đối với sự hình thành và phát triển của KTTT. Chỉ có Nhà nước với tư cách là
chủ thể quản lý nền kinh tế, chủ thể quản lý xã hội, mới có thể chủ động tạo ra môi
trường kinh tế và pháp lý cho KTTT hình thành và phát triển.
- Có hỗ trợ của công nghiệp chế biến nông sản: Mục đích trực tiếp của KTTT là sản
xuất hàng hoá. Việc tiệu thụ nông sản phẩm là điều kiện cơ bản để trang trại ra đời và
phát triển.
- Có sự phát triển nhất định của kết cấu hạ tầng, trước hết là đường giao thông và các
công trình thuỷ lợi
- Có sự hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa: Sự hình thành các
vùng chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp và tích cực tới sự
hình thành và phát triển của các trang trại vì các vùng chuyên canh tập trung luôn gắn

liền với sự hình thành và phát triển của các trang trại vì các vùng chuyên canh tập trung
luôn gắn liền với công nghiệp chế biến, với các điều kiện thuận tiện cho việc giao lưu,
trao đổi hàng hoá và do vậy tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm của trang trại.
Đồng thời các vùng chuyên canh tập trung còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng
dụng tiến bộ KHKT, cho việc hợp tác SXKD giữa các trang trại.
- Có sự phát triển nhất định của các hình thức liên kết kinh tế trong nông nghiệp: Trình
độ chuyên môn hoá càng cao thì yêu cầu liên kết kinh tế càng lớn vì chuyên môn hoá là
hình thức biểu hiện cụ thể của phân công lao động. Liên kết kinh tế là hình thức biểu
hiện của hiệp tác lao động trong hoạt động sản xuất.
Chính sách nông nghiệp
- Người chủ trang trại phải có ý chí, có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản xuất và
có năng lực nhất định về tổ chức SXKD.
IV.2 Hệ thống các văn bản chính sách liên quan đến chính sách phát triển kinh
tế trang trại.
Những chính sách được ban hành là những cơ sở cực kỳ quan trọng trong việc
hình thành tư liệu sản xuất cơ bản nhất của các trang trại, mở ra cho trang trại một
sức sống mãnh liệt.
- Ngày 02/02/2000 chính phủ ra Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP về kinh tế trang trại.
Trong nghị quyết này chính phủ đã xác định rõ vị trí, tính chất, vai trò của kinh tế
trang trại. Đặc biệt đã đề ra chính sách ưu đãi khuyến khích cụ thể đối với KTTT.
Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP đã khẳng định chủ trương nhất quán là
khuyến khích mạnh mẽ phát triển KTTT trong nông nghiệp và nông thôn. Như Nghị
quyết đã nêu rõ: Phát triển KTTT chính là góp phần khai thác sử dụng có hiệu quả
đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững, tạo việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm
nghèo, phân bổ lại lao động, dân cư xây dựng nông thôn mới.
Nghị quyết đã đưa ra một sô chính sách lâu dài của Nhà nước đối với kinh tế
trang trại là:
- Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia
đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê

đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để sản
xuất kinh doanh.
- Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu
quả đất trống, đồi núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai thác
các loại đất còn hoang hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước eo
vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng chuyên canh với tỷ suất
hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông, khuyến khích phát triển kinh tế
trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và thương
mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối
Chính sách nông nghiệp
với những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng
quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông
nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
- Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ
nông dân, phát triển kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng
các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân,
các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho
nông nghiệp, nông thôn phát triển.
- Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học-công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm,
xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển bền
vững.
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành
mạnh, có hiệu quả.
• Về chính sách cụ thể.
a) Chính sách đất đai
- Hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để phát triển trang trại được
Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất được áp dụng theo quy định tại Nghị định số
85/1999/NĐ-CP, ngày 28 tháng 8 năm 1999 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một

số quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài và Nghị định số 163/1999/NĐ-CP, ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ
về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn
định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản
sống tại địa phương có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất thì
ngoài phần đất đã được giao trong hạn mức của địa phương còn được ủy ban nhân
dân xã xét cho thuê đất để phát triển trang trại.
Chính sách nông nghiệp
Hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng và khả năng tạo dựng cơ nghiệp
lâu dài từ sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản được ủy ban nhân dân xã
cho thuê đất để làm kinh tế trang trại.
Hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện vọng lập nghiệp lâu
dài, có vốn đầu tư để phát triển trang trại, được ủy ban nhân dân xã sở tại cho thuê
đất.
Diện tích đất được giao, được thuê phụ thuộc vào quỹ đất của địa phương và
khả năng sản xuất kinh doanh của chủ trang trại.
- Hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê
hoặc thuê lại quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác để phát
triển trang trại theo quy định của pháp luật. Người nhận chuyển nhượng hoặc thuê
quyền sử dụng đất hợp pháp có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về
đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân đã được giao hoặc nhận chuyển nhượng, quyền sử dụng
đất vượt quá hạn mức sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 để phát triển
trang trại, thì được tiếp tục sử dụng và chuyển sang thuê phần diện tích đất vượt hạn
mức, theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nhưng chưa được giao, chưa được thuê, hoặc
đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận
trước ngày ban hành Nghị quyết này, nếu không có tranh chấp, sử dụng đất đúng

mục đích, thì được xem xét để giao hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
- Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm
chỉ đạo cơ quan địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để
các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất.
b) Chính sách thuế
- Để khuyến khích và tạo điều kiện hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh
tế trang trại, nhất là ở những vùng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi, đầm phá ven biển,
Chính sách nông nghiệp
thực hiện miễn thuế thu nhập cho trang trại với thời gian tối đa theo Nghị định số
51/1999/NĐ-CP, ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết
thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH10.
Theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì hộ gia đình và cá
nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao thuộc đối tượng nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp. Giao Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 1998 của Chính phủ về Quy định
chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng quy định đối tượng nộp
thuế là những hộ làm kinh tế trang trại đã sản xuất kinh doanh ổn định, có giá trị
hàng hóa và lãi lớn, giảm thấp nhất mức thuế suất, nhằm khuyến khích phát triển
kinh tế trang trại, được nhân dân đồng tình và có khả năng thực hiện.
- Các trang trại được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về
đất đai khi thuê đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản xuất, trồng
cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo
vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
c) Chính sách đầu tư, tín dụng
- Căn cứ vào quy hoạch phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trên các địa
bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, Nhà nước có chính
sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng về giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sinh
hoạt, thông tin, cơ sở chế biến để khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân phát triển
trang trại sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

- Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh trong những lĩnh vực thuộc đối
tượng quy định tại Điều 8 mục I Chương II của Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày
29 tháng 6 năm 1999 của Chính phủ được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển
của Nhà nước và việc vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thực hiện
theo các quy định của Nghị định này.
- Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh được vay vốn tín dụng thương mại
của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn được thực hiện theo quy
định tại Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng
Chính sách nông nghiệp
Chính phủ về "Một số chính sách tín dụng ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông
thôn", chủ trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay
theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, ngày 29 tháng 12 năm 1999 của
Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
d) Chính sách lao động
- Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng
quy mô sản xuất kinh doanh, tạo được nhiều việc làm cho lao động nông thôn, ưu
tiên sử dụng lao động của hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ
nghèo thiếu việc làm. Chủ trang trại được thuê lao động không hạn chế về số lượng;
trả công lao động trên cơ sở thoả thuận với người lao động theo quy định của pháp
luật về lao động. Chủ trang trại phải trang bị đồ dùng bảo hộ lao động theo từng loại
nghề cho người lao động và có trách nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai
nạn, ốm đau trong thời gian làm việc theo hợp đồng lao động.
- Đối với địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, chủ trang trại
được ưu tiên vay vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo để
tạo việc làm cho lao động tại chỗ; thu hút lao động ở các vùng đông dân cư đến phát
triển sản xuất.
- Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm trong
trang trại bằng nhiều hình thức tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn.
đ) Chính sách khoa học, công nghệ, môi trường.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các địa phương có quy

hoạch, kế hoạch xây dựng các công trình thuỷ lợi để tạo nguồn nước cho phát triển
sản xuất. Chủ trang trại tự bỏ vốn hoặc vay từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước để xây dựng hệ thống dẫn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong
trang trại. Các chủ trang trại xây dựng các công trình thuỷ lợi, sử dụng nước mặt,
nước ngầm trong phạm vi trang trại theo quy hoạch không phải nộp thuế tài nguyên
nước.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây nông nghiệp,
Chính sách nông nghiệp
cây lâm nghiệp và các cơ sở sản xuất con giống (chăn nuôi, thuỷ sản) hoặc hỗ trợ
một số trang trại có điều kiện sản xuất giống để bảo đảm đủ giống tốt, giống có chất
lượng cao cung cấp cho các trang trại và cho hộ nông dân trong vùng.
- Khuyến khích chủ trang trại góp vốn vào Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học,
liên kết với cơ sở khoa học, đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng
vào trang trại và làm dịch vụ kỹ thuật cho nông dân trong vùng.
e) Chính sách thị trường.
- Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị
trường, khuyến cáo khoa học kỹ thuật, giúp trang trại định hướng sản xuất kinh
doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
- Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các cơ sở
công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh; hướng dẫn việc ký kết hợp
đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản. Khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tiêu thụ nông sản hàng hoá của
trang trại và nông dân trên địa bàn.
- Nhà nước khuyến khích phát triển chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch
mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp. Tạo điều kiện cho các chủ trang trại được
tiếp cận và tham gia các chương trình, dự án hợp tác, hội chợ triển lãm trong và
ngoài nuớc.
Đẩy mạnh sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản

thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp Nhà nước với hợp
tác xã, chủ trang trại, hộ nông dân.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực tiếp sản
phẩm của mình và sản phẩm mua gom của trang trại khác, của các hộ nông dân và
nhập khẩu vật tư nông nghiệp.
g) Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại.
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của trang trại không bị quốc hữu hoá, không
bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trong trường hợp vì lý do quốc phòng, an
Chính sách nông nghiệp
ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước cần thu hồi đất được giao, được thuê của trang
trại thì chủ trang trại được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời
điểm công bố quyết định thu hồi.
Sau nghị quyết 03/CP của chính phủ, các bộ các ngành đã ban hành các văn
bản hướng dẫn thực hiện bao gồm:
- Liên bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Tổng cục thống kê đã ban hành
thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 và thông tư liên tịch
số 62/2003/TTLT/BNN-TCTK ngày 20/5/2003 hướng dẫn tiêu chí xác định là kinh
tế trang trại.
- Bộ nông nghiệp và PTNT đã ban hành thông tư số 07/2003/ TTBNN ngày
04/7/2003 thông tư sữa đổi, bổ sung mục III của thông tư liên tịch số
69/2000/TTLB/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 hướng dẫn tiêu chí để xác định là kinh
tế trang trại.
- Thông tư 61/2000/ TT-BNNPTNT/ KH ngày 6/6/2000. Hướng dẫn quy hoạch
sản xuất nông, lâm nghiệp và chế biến tiêu thụ nông sản đối với chủ trang trại.
- Quyết định Số: 423/2000/QĐ-NHNN1 của thống đốc ngân hàng nhà nước về
chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại.
- Quyết định số 39/2006/QĐ-UB về việc ban hành “Quy định trình tự, thủ tục cấp
giấy chứng nhận kinh tế trang trại trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
- Quyết định Số: 91/2007/QĐ-UBND về việc ban hành quy chế hỗ trợ các doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội xây dựng, quản lý và phát triển thương hiệu.

- Thông tư Số: 27 /2011/TT-BNNPTNT Quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy
chứng nhận kinh tế trang trại.
IV.3 Tình hình thực hiện quyết định số 05/2008/QĐ-UBND về ban hành
quy định về một số chính sách khuyến khích, phát triển kinh tế trang trại
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
IV.3.1 Nội dung triển khai chính sách.
• Chính sách về đất đai
Chính sách nông nghiệp
- Về thời gian sử dụng đất phát triển KTTT được quy định tối thiểu là 20 năm, kể từ
ngày được phê duyệt hoặc phê duyệt lại (cả trang trại sử dụng đất công ích và các
loại đất khác theo quy định của pháp luật, được UBND các huyện cho phép xây dựng
và sản xuất kinh doanh theo hình thức trang trại). Đối với diện tích đất công ích sử
dụng làm trang trại, thì cứ 5 năm UBND cấp xã ký hợp đồng lại hoặc bổ sung, điều
chỉnh mức giá thuê đất cho phù hợp với thực tế.
- Được phép xây nhà cấp 4 để làm nhà kho chứa vật tư, thức ăn chăn nuôi; nhà bảo
vệ, nhà nghỉ tạm của người lao động; chuồng trại chăn nuôi và các công trình phục
vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của
trang trại. UBND các huyện căn cứ vào nội dung hoạt động của trang trại chịu trách
nhiệm xem xét, cho phép trang trại xây dựng diện tích nhà cấp 4 phù hợp với nội
dung sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đúng quy định của pháp luật. Nghiêm cấm
biến đất trang trại làm đất ở thổ cư.
• Chính sách khoa học kỹ thuật
- Các trang trại được tham gia thực hiện các mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật.
Được tập huấn về kỹ thuật, kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, bảo quản chế
biến, được cung cấp thông tin thị trường, đào tạo quản lý từ chương trình khuyến
nông và các chương trình hỗ trợ khác của nhà nước. Khuyến khích việc phát triển
trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
- Các trang trại áp dụng công nghệ mới về chế biến, bảo quản nông sản. Được ngân
sách huyện hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo, tập huấn kỹ thuật mới theo dự án được
UBND huyện phê duyệt.

• Chính sách vay vốn
- Các trang trại được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ nông dân và Quỹ khuyến nông để phát
triển trang trại theo quy định của từng loại Quỹ.
- Các chủ trang trại và các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản (điện, nước, giao
thông, thuỷ lợi, chuồng trại, nhà xưởng sản xuất) cho các trang trại có quy mô từ 2 ha
trở lên, được vay vốn tín dụng tại Ngân hàng Thương mại theo dự án được cấp thẩm
quyền phê duyệt và theo quy định hiện hành của nhà nước.
Chính sách nông nghiệp
• Chính sách xúc tiến thương mại
- Hỗ trợ 70% kinh phí cho việc xây dựng thương hiệu sản phẩm và quảng cáo các sản
phẩm nông nghiệp trên các phương tiện đại chúng.
- Hỗ trợ 100% kinh phí thuê gian hàng để tham gia các hội chợ, triển lãm giới thiệu
sản phẩm nông nghiệp ở trong nước và các quầy hàng, điểm bán hàng tại các chợ do
ngành Thương mại và UBND các quận, huyện quản lý trên địa bàn Hà Nội đối với
việc kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp an toàn.
- Hỗ trợ 50% kinh phí thuê gian hàng ở nước ngoài, để tham gia các hội chợ triển
lãm giới thiệu sản phẩm nông nghiệp. Đối với chủ trang trại được Thành phố cho
phép đi tham gia hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài được hỗ trợ
30% tiền vé đi lại.
5.3.2 Tổ chức huy động nguồn lực
Nguồn lực Kinh phí cấp, hỗ trợ tại khoản 2, Điều 4 của Quy định, được trích
từ nguồn ngân sách các huyện theo kế hoạch hàng năm Thành phố giao. Riêng kinh
phí xây dựng mô hình khuyến nông Thành phố cấp qua Sở Nông nghiệp và PTNT.
Kinh phí cấp, hỗ trợ tại điều 6 của Quy định được trích từ nguồn ngân sách
của chương trình xúc tiến thương mại của Thành phố (quy định tại Quyết định số
91/2007/QĐ-UBND của UBND Thành phố).
5.2.3 Tổ chức thực hiện
5.2.3.1 Trách nhiệm của các sở, ngành thành phố
• Sở Nông nghiệp và PTNT của huyện:
- Chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính rà soát kế hoạch đầu tư hỗ trợ tài chính hàng

năm của các huyện, quận đối với các trang trại, tổng hợp, báo cáo UBND Thành phố
và hướng dẫn, đôn đốc UBND các huyện, quận, các sở, ngành liên quan tổ chức thực
hiện chính sách này.
- Tổng hợp tình hình triển khai và những khó khăn vướng mắc khi tổ chức thực hiện
chính sách, báo cáo UBND Thành phố để xem xét, kịp thời giải quyết.
Chính sách nông nghiệp
- Chỉ đạo các đơn vị trong ngành: Trung tâm Khuyến nông, Chi cục Thú y, Chi cục
Thuỷ sản, Chi cục BVTV và các đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện theo chức
năng, nhiệm vụ được giao.
• Sở Kế hoạch và Đầu tư:
- Thẩm định trình UBND Thành phố phê duyệt các dự án của UBND các huyện,
quận thuộc thẩm quyền Thành phố theo quy định; Thống nhất đề xuất nguồn vốn đầu
tư hàng năm trình UBND Thành phố.
• Sở Tài chính:
- chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Kế hoạch và Đầu tư huyện,
thành phố bố trí kinh phí thực hiện hỗ trợ theo chính sách.
- Kiểm tra, hướng dẫn, quản lý nguồn vốn ngân sách theo quy định hiện hành.
• Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất:
- Đôn đốc, hướng dẫn kiểm tra các huyện thực hiện chính sách đất đai theo quy định.
• Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Thương mại, Ngân hàng Nhà nước thành phố,
Cục Thuế Hà Nội:
- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện,
đôn đốc, kiểm tra theo thẩm quyền.
5.2.3.2 Trách nhiệm của UBND các huyện
- Hàng năm, UBND các huyện lập kế hoạch phát triển trang trại và dự kiến ngân sách
đầu tư hỗ trợ cho trang trại tại địa phương, tổng hợp, thẩm định và báo cáo cấp có
thẩm quyền xem xét, quyết định. Ban hành các cơ chế hỗ trợ, khuyến khích trang trại
trên địa bàn, nhằm đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất phát triển kinh tế hàng hóa.
Tổ chức theo dõi, đánh giá kết quả hoạt động và trực tiếp tháo gỡ khó khăn trong sản
xuất kinh doanh của các trang trại. Thực hiện kịp thời việc cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận KTTT cho các trang trại. Hướng dẫn, kiểm tra
các cơ quan, đơn vị chức năng chuyên môn trực thuộc UBND các huyện và các trang
trại trong việc thực hiện chính sách này.
- Hướng dẫn, đôn đốc UBND các xã, thị trấn hàng năm lập kế hoạch mở rộng, phát
triển mới trang trại. Xây dựng các nội dung và biện pháp cụ thể để giúp đỡ nông dân
Chính sách nông nghiệp
phát triển trang trại. Xây dựng dự án và thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư theo
quy định.
- Chủ động phối hợp với các sở, ngành liên quan thực hiện chính sách theo thẩm
quyền. Cấp và quản lý kinh phí hỗ trợ cho các trang trại đúng quy định về quản lý tài
chính, ngân sách của Nhà nước.
5.3 Kết quả thực hiện chính sách.
Vài năm trở lại đây, hoạt động trang trại ở Hà Nội đã góp phần tích cực trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi, phát triển các loại cây trồng, vật
nuôi có giá trị hàng hoá cao…, tạo nên các mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả
để nông dân học tập và phát triển, góp phần không nhỏ vào kết quả sản xuất nông
nghiệp Thủ đô.
5.3.1 Về đất đai.
Thời gian qua, kinh tế trang trại ở Hà Nội đã có những bước phát triển và thu
được nhiều kết quả quan trọng, đã góp phần khai thác nguồn vốn trong dân, mở rộng
diện tích gieo trồng từ đất trống, đồi trọc, đất hoang hoá, tạo thêm việc làm cho lao
động nông thôn; làm tăng thêm sản phẩm hàng hoá trong nền kinh tế nhiều thành
phần ở Thủ đô.
Hiện nay trên địa bàn Hà Nội hiện có 482 trang trại theo các loại hình gồm: 55
trang trại (TT) trồng trọt, 144 TT chăn nuôi, 180 TT thuỷ sản, 3 TT lâm nghiệp và
100 TT tổng hợp. Nhìn chung các TT của Hà Nội có quy mô nhỏ. Tổng diện tích đất
của các TT toàn thành phố là 1405 ha. Nguồn gốc các loại đất đai dành cho phát triển
kinh tế trang trại rất đa dạng bao gồm: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được Nhà
nước giao, đất cho thuê theo quy định hiện hành, đất cho công nhân và hộ nông dân
nhận khoán, nhận thầu của HTX, của lâm trường hoặc thuê của tư nhân (đất chuyển

đổi, chuyển nhượng có sự kiểm soát của chính quyền địa phương)
5.3.2 Lao động và vốn.
Các trang trại có tổng số 3.332 lao động, trong đó 1427 lao động là chủ trang
trại. Số lao động thuê ngoài thường xuyên trên 700 người, lao động thuê theo thời vụ
trên dưới 1.300 người. Lao động trong các trang trại Hà Nội còn quá ít, vì phần lớn
Chính sách nông nghiệp
các trang trại sử dụng lao động tại gia đình là chính và chỉ thuê rất ít lao động ngoài,
do quy mô sản xuất của trang trại còn nhỏ.
Các trang trại Hà Nội hiện có tổng vốn lưu động 139 tỷ 460,6 triệu đồng, trong
đó: lớn nhất là các trang trại nuôi trồng thuỷ sản có 45 tỷ 220 triệu đồng, trang trại
chăn nuôi có 41 tỷ 734 triệu đồng vốn lưu động, thấp nhất là trang trại lâm nghiệp
650 triệu đồng. Vốn sản xuất trung bình của 1 trang trại là 217,5 triệu đồng
Thành phố đã có chính sách về vay vốn nhưng thủ tục còn phức tạp, qua nhiều
đầu mối trung gian nên không khuyến khích được các chủ trang trại vay vốn đầu tư
cũng như việc tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi. Anh hùng Lao động thời kỳ đổi
mới Nguyễn Đắc Hải, chủ trang trại tại xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên) cho biết, trang
trại của anh sau nhiều lần mở rộng quy mô, đến nay có tổng diện tích lên đến 60 ha.
Nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất của trang trại khoảng vài chục tỷ đồng, tuy nhiên
hiện mới chỉ vay được gần 2 tỷ đồng, do đó gặp khó khăn trong sản xuất.
Theo ông Hải, các trang trại phát triển đem lại hiệu quả kinh tế cao cần phải đầu
tư thâm canh, số tiền đầu tư cho 1 ha bình quân khoảng 500 triệu đồng. Trong khi đó,
hơn 20 năm nay, diện tích đất trang trại chỉ được ký hợp đồng 5 năm 1 lần, chính vì
vậy xây dựng được phương án vay vốn lớn là rất khó khăn.
Do mô hình trang trại mới được hình thành, phát triển trong mấy năm gần đây,
nên nhìn chung số sản phẩm hàng hoá hàng năm còn thấp, giá trị hàng hoá hàng năm
mới đạt từ 45 triệu đến 226,7 triệu đồng/trang trại. Cụ thể đối với từng loại trang trại
như sau: TT trồng cây hàng năm, đạt giá trị hàng hoá - dịch vụ 3.485,8 triệu đồng
(trung bình 99,6 triệu đồng/TT); TT trồng cây lâu năm 2.515 triệu đồng (125,8 triệu
đồng/TT); TT chăn nuôi 44.505 triệu đồng (309,1 triệu đồng/TT); TT Nuôi trồng
thuỷ sản 39.921,5 triệu đồng (221,8 triệu đồng/TT); TT Lâm nghiệp là 40 triệu đồng

(13,3 triệu đồng/TT) và TT tổng hợp đạt 23.106 triệu đồng (231,1 triệu đồng/TT).
Theo đó, giá trị thu nhập trung bình ở 1 trang trại đạt 45,9 triệu đồng/năm. Cao nhất
là loại hình trang trại Tổng hợp có giá trị thu nhập 51,6 triệu đồng/TT, thấp nhất là
TT lâm nghiệp, đạt mức 5 triệu đồng/TT. Nhiều mô hình TT hoạt động có hiệu quả
kinh tế cao, giá trị hàng hoá tới 300 triệu đồng, giá trị thu nhập từ 120 triệu đến 150
Chính sách nông nghiệp
triệu đồng/ha như mô hình nuôi trồng thuỷ sản của 1 số chủ hộ TT ở xã Đông Mỹ
(huyện Thanh Trì)
5.3.3 Về quản lý Nhà nước
Chưa có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế trang trại, cũng như chưa có định
hướng cụ thể để các trang trại phát triển. Theo Giám đốc Sở NN & PTNT Hà Nội -
Trần Xuân Việt thì hiện nay, quy mô trang trại tại Hà Nội manh mún, bình quân 1
trang trại chỉ sử dụng 2,58 ha, đầu tư sản xuất không bài bản, nên hạn chế trong việc
phát triển theo hướng bền vững.
Việc thực hiện xác định kinh tế trang trại theo tiêu chí quy định tại thông tư số
69, 62 của Liên Bộ Nông nghiệp & PTNT - Tổng cục Thống kê chưa thống nhất tại
các quận, huyện trên địa bàn Thành phố và có nhiều điểm đã lạc hậu so với hiện tại.
Theo chủ trang trại sản xuất rau sạch ở Đồng Mai – Hà Đông , ông Ngô Cảnh, thì với
tiêu chí định lượng về qui mô sản xuất đối với trang trại trồng cây hàng năm phải từ
2ha trở lên sẽ khó đạt được với những khu vực sản xuất nông nghiệp ven đô vì với
tốc đô thị hóa đến “chóng mặt” như hiện nay, các diện tích đất nông nghiệp thu bị thu
hẹp. Trên thực tế, ở các vùng ven đô, nhiều trang trại được hình thành với diện tích
nhỏ nhưng chủ trang trại đã tổ chức sản xuất những loại cây mang lại giá trị kinh tế
cao như phong lan, rau mầm… giá trị thu về đạt hàng tỉ đồng /năm.
Bên cạnh đó, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với loại đất trang
trại thuê của UBND các xã, hợp tác xã rất khó khăn nên các trang trại chưa yên tâm
đầu tư sản xuất. Mặc dù đã có chính sách đất đai (Tại Quyết định số 05/2009/QĐ-
UBND) quy định thời gian sử dụng đất phát triển kinh tế trang trại tối thiểu là 20
năm và được UBND các huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang
trại; nhưng đến nay mới có khoảng 1,4% trang trại được cấp giấy chứng nhận sử

dụng đất, tương đương với khoảng 30/3.207 trang trại. Do vậy, hầu như các trang trại
chưa thực sự yên tâm trong việc đầu tư mở rộng sản xuất.
Anh Nguyễn Văn Thanh, Chủ nhiệm HTX chăn nuôi Vạn Thái (Ứng Hòa) cho
biết, gia đình anh làm kinh tế trang trại từ năm 2001 nhưng thời hạn Nhà nước cho

×