Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Giải pháp quản trị và chất lượng cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp tại VCB chi nhánh tân bình đến năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.19 KB, 90 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1/ Sự cần thiết chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế diễn ra ngày càng nhanh, đi lên từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam buộc phải không ngừng đổi mới, đi tắt
đón đầu, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế
giới,học hỏi kinh nghiệm, giaolưu - trao đổi văn hóa, tri thức với các nước
phát triển khác. Vượt lên trên mọi khó khăn thử thách đó, Việt Nam vẫn hoàn
thành sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, từng bước đưa Việt
Nam trở thành con rồng châu Á.
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, nhu
cầu vốn đã và đang là 1 nhu cầu vô cùng cấp thiết cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị cũng như dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế. Do đố, có thể
thấy tín dụng trung - dài hạn là một trong những công cụ đắc lực để đáp ứng
nhu cầu đó.
Nhận thấy tầm quan trọng của tín dụng trung - dài hạn đối với việc phát
triển kinh tế xã hội, các NHTM cũng đang triển khai nhiều biện pháp để có
những bước chuyển dịch về cơ cấu tín dụng, tăng dần tỉ trọng cho vay trung -
dài hạn với phương châm “Đầu tư chiều sâu cho DN cũng là đầu tư tương lai
cho ngành NH”.
Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động tín dụng trung- dài hạn còn đang gặp
nhiều khó khăn, nổi cộm là vấn đề hiệu quả tín dụng trung- dài hạn còn nhiều
rủi ro, dư nợ tín dụng trung- dài hạn trong các NHTM vẫn thường chiếm tỉ lệ
không cao so với cầu. Ngoài ra tỉ lệ nợ quá hạn còn cao, cho vay ra nhưng
không thu hồi được cả gốc và lãi vẫn còn tồn tại nên ảnh hưởng không nhỏ tới
sự phát triển kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng.
Sau một thời gian thực tập tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam CN
Tân Bình, nhóm em nhận thấy rằng những vấn đề này còn tồn tại trong tín
1
dụng trung - dài hạn của Ngân hàng. Sau khi tìm hiểu vấn đề, nhóm em đã
chọn nghiên cứu đề tài “Giải pháp quản trị và chất lượng cho vay trung -
dài hạn của doanh nghiệp tại VCB - Chi nhánh Tân Bình đến năm 2017”.


2/ Mục tiêu nghiên cứu
+ Tìm hiểu thực trạng hoạt động cho vay trung - dài hạn đối với doanh
nghiệp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam - chi nhánh Tân Bình
qua các năm.
+ Từ việc tìm hiểu quy trình tín dụng, thực tế hoạt động tại chi nhánh có
thể tìm ra được khó khăn hạn chế đang tồn tại để từ đó đưa ra các giải pháp
phù hợp giúp chi nhánh nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng trung- dài hạn và công tác quản trị thông qua các chỉ tiêu như:
tình hình huy động vốn, doanh số cho vay, doanh số thu nợ, nợ trung - dài
hạn, nợ quá hạn,
Phạm vi nghiên cứu là tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam -
chi nhánh Tân Bình giai đoạn 2011-2013 và kế hoạch kinh doanh đến năm
2017.
4/ Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, thu thập thông tin số liệu có liên quan phản ánh
thực trạng hoạt động tín dụng trung - dài hạn của doanh nghiệp tại ngân hàng
TMCP Ngoại Thương Việt Nam - chi nhánh Tân Bình.
Khóa luận được nghiên cứu theo phương pháp thống kê, phân tích, tổng
hợp và so sánh để làm rõ nội dung nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
5/ Kết cấu nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh sách
bảng biểu, đồ thị, nội dung của đề tài gồm bốn chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng trung - dài
2
hạn đối với doanh nghiệp của ngân hàng
Chương 2: Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam-chi
nhánh Tân Bình.
Chương 3: Thực trạng tình hình thực hiện chất lượng tín dụng trung- dài

hạn của doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam - chi
nhánh Tân Bình.
Chương 4: Giải pháp quản trị và chất lượng hoạt động tín dụng trung -
dài hạn của doanh nghiệp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam -
chi nhánh Tân Bình.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG TRUNG – DÀI HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1/ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG-DÀI HẠN CỦA DOANH
NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1/ Khái niệm NHTM
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, là một tổ chức tín dụng thực
hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế tạo lập nguồn vốn
tín dụng và cho vay phát triển kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.
Ngân hàng Thương mại (Commerical Bank) đã hình thành, tồn tại và
phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự
phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại có tác động rất lớn và quan
trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các
Công ty, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân,… bằng cách nhận tiền gửi
rồi sử dụng số vốn đó để cho vay , chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh
3
toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Ở Việt Nam, theo pháp lệnh ngân hàng năm 1990: Ngân hàng thương
mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu
là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Theo Nghị định
Chính phủ số 49/2000NĐ-CP ngày 12/09/2000 định nghĩa: “ Ngân hàng
Thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và

các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần
thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Như vậy, có thể nói rằng Ngân hàng thương mại là loại định chế tài
chính trung gian cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường, là nhịp cầu
nối liền giữa những chủ thể thừa vốn với các chủ thể thiếu vốn trong nền kinh
tế. Chính nhờ vậy mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ
được huy động, tập trung lại với số lượng đủ lớn để cấp tín dụng cho các tổ
chức kinh tế, cá nhân nhằm mục đích phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội.
1.1.2/ Các hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường
Ngân hàng thương mại (NHTM) hiện nay có hai loại nghiệp vụ chính:
nghiệp vụ truyền thống (cổ điển) và nghiệp vụ hiện đại (mới).
1.1.2.1. Nghiệp vụ truyền thống của NHTM
Chủ yếu là nghiệp vụ huy động vốn bằng tiền mặt, cho vay bằng tiền
mặt, thu nợ bằng tiền mặt và trả tiền gửi cũng bằng tiền mặt.
1.1.2.2.Nghiệp vụ hiện đại của NHTM
Gồm nghiệp vụ thẻ thanh toán, thuê mua, thu nợ, hợp đồng tương lai,
nghiệp vụ trao đổi, lãi suất và tỉ giá hối đoái.
1.1.2.3. Hoạt động của NHTM
a/ Hoạt động huy động vốn gồm: Nhận tiền gửi; Phát hành giấy tờ có
4
giá; Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng; Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng Nhà
nước.
Để được hoạt động và thực hiện huy động vốn, ngân hàng phải có một
lượng vốn nhất định gọi là vốn tự có. Vốn tự có là điều kiện bắt buộc để Ngân
hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động
được những khoản gửi đầu tiên, vốn tự có còn đóng vai trò là một tấm đệm
giúp chống lại rủi ro phá sản, những thua lỗ về tài chính trong hoạt động tạm
thời, nó tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức

mạnh tài chính của Ngân hàng. Và nó còn cung cấp năng lực tài chính cho sự
tăng trưởng và sự phát triển dịch vụ mới, cho những chương trình và trang
thiết bị mới.
b/ Hoạt động dịch vụ thanh toán
Khi các khách hàng gửi tiền vào NH, NH không chỉ giữ tiền mà còn thực
hiện các lệnh chi trả cho khách hàng củahọ. Thanh toán qua NH là thanh toán
không dùng tiền mặt. Thanh toán qua NH là các thanh toán phổ biến ở các
quốc gia vì nó đảm bảo an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí.
Một dịchvụ mới, quan trọng được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch
cho phép người gửi viết Séc thanh toán cho việc mua hàng hóa dịch vụ. Cùng
với sự phát triển như: ủy nhiệm chi, nhờ thu, tín dụng chứng từ, thanh toán
bằng điện, thẻ,
c/ Hoạt động ngân quỹ
Các NH mở tài khoản và giữ tiền của khách hàng, qua đó NH thường có
mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng. NH có kinh nghiệm trong việc quản lý
ngân quỹ. Theo đó NH quản lý việc thu và chi cho khách hàng và tiến hành
đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín
dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Nghiệp vụ
ngân quỹ là nghiệp vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng của NHTM.
d/ Các hoạt động khác
5
Ngoài các nghiệp vụ chính như trên, NHTM còn thực hiện một số hoạt
động khác: Góp vốn và mua cổ phần; Tham gia thị trường tiền tệ; Kinh doanh
ngoại hối – vàng; Ủy thác và nhận ủy thác; Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm;
Tư vấn tài chính; Kinh doanh bất động sản; Bảo quản vật quý giá và các dịch
vụ khác liên quan đến hoạt động của NHTM.
1.1.3/ Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.3.1/ Khái niệm về tín dụng Ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá)
giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính) và bên đi vay (cá

nhân, doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán.
Tín dụng ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để
bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp
vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến đổi mới công nghệ sản xuất. Ngoài
ra tín dụng Ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của
cá nhân.
* Bên cho vay chuyển giao cho bên đi vay một lượng tài sản nhất định.
* Bên đi vay được sử dụng tạm thời lượng giá trị tài sản đó trong một
thời gian nhất định, và bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay
sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền
kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và
kịp thời.
1.1.3.2/ Sự cần thiết của tín dụng Ngân hàng
Trong suốt quá trình phát triển lâu dài của hoạt động Ngân hàng thì
hình thức tín dụng Ngân hàng là hình thức có ưu thế và quan trọng nhất. Hình
6
thức tín dụng Ngân hàng là hình thức chủ yếu trong mọi hoạt động của ngân
hàng cũng như trong nền kinh tế thị trường.
Tín dụng Ngân hàng luôn là nhịp cầu giúp Ngân hàng tồn tại và ngày
càng phát triển mạnh hơn, bởi nguồn vốn cho vay của ngân hàng là rất lớn, đó
là toàn bộ nguồn vốn trong nền kinh tế mà Ngân hàng có thể tập trung và huy
động được.
Là định chế tài chính trung gian, hệ thống Ngân hàng tham gia quan hệ
tín dụng với 2 tư cách vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Thông qua
cơ chế thị trường, bằng những biện pháp kinh tế năng động, cùng các phương
pháp kỹ thuật hiện đại, tiên tiến Ngân hàng có khả năng thu hút những nguồn

vốn trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc, phù hợp với nhu cầu vốn
trong sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh, giúp cho nến kinh tế ngày càng phát triển.
1.1.3.3/ Các hình thức tín dụng Ngân hàng
Việc phân chia tín dụng một cách khoa học sẽ giúp cho các nhà quản trị
lập một quy trình tín dụng thích hợp, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Song các
Ngân hàng thường phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau đây:
a/ Căn cứ vào thời hạn
+ Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Với mục
đích là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
+ Cho vay trung hạn: có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Mục đích là
nhằm tài trợ cho việc đầu tư tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại này
thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
b/ Căn cứ vào mục đích tín dụng
+ Cho vay kinh doanh BĐS: gồm cho vay xây dựng ngắn hạn và dài
hạn tài trợ cho việc mua đất, nhà cửa và BĐS khác.
+ Cho vay nông nghiệp: loại này nhằm hỗ trợ nông dân trong sản xuất.
7
+ Cho vay CN & TM: loại vay này giúp cho doanh nghiệp trang trải
các chi phí trong sản xuất.
+ Cho vay cá nhân: là loại đáp ứng nhu cầu tiêu dung cá nhân.
+ Cho vay các TCTC: là loại cho vay dành Ngân hàng, Công ty bảo
hiểm, Cty tài chính và các TCTC khác.
+ Tài trợ thuê mua: là tín dụng ngân hàng mua thiết bị, máy móc
+ Cho vay khác: gồm các loại không xếp hạng trên và các khoản cho
vay kinh doanh chứng khoán.
c/ Căn cứ vào thành phần kinh tế
+ Cho vay đối với kinh tế quốc doanh: là quan hệ cho vay giữa ngân
hàng với các doanh nghiệp nhà nước.

+ Cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh như: là quan hệ cho vay
giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: HTX, Công ty
cổ phần, Cty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể.
d/ Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn
+ Cho vay đối với vốn lưu động: là loại cho vay nhằm để bổ sung vốn
lưu động cho các TCKT.
+ Cho vay đối với vốn cố định: Là loại cho vay để hình thành nên tài
sản cố định cho các TCKT.
e/ Căn cứ vào sự đàm bảo trong quan hệ tín dụng
+ Cho vay có đảm bảo: loại cho vay này được biểu hiện ở việc cầm giữ
vật thế chấp, cầm cố nào đó hoặc qua một bảo lãnh của bên thứ ba.
+ Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của người đi vay.
g/ Căn cứ theo cách khác
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn phân chia theo các tiêu thức sau: Cho
vay trực tiếp; Cho vay gián tiếp; Cho vay trả góp; Cho vay phi trả góp.
8
1.1.3.4/ Đặc trưng của tín dụng
Có thể nói trong hoạt động kinh doanh tín dụng nói chung và tín dụng
ngân hàng nói riêng, đặc trưng của tín dụng đều dựa trên 3 đặc tính chủ yếu
là: lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả.
a/ Yếu tố lòng tin
Bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng la-tinh “credittum” có nghĩa là
“sự giao phó” hay “sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái niệm tín dụng cũng cho ta
thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu
hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay.
Yếu tố lòng tin tuy vô hình nhưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây
là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín
dụng phát sinh.
Lòng tin trong quan hệ tín dụng được biểu hiện từ chủ yếu từ phía

người cho vay đối với người đi vay bởi lẽ người cho vay là người giao phó
tiền bạc hoặc tài sản của họ cho người khác sử dụng.
b/ Tính thời hạn và tính hoàn trả
Khác với các quan hệ mua bán thông thường khác (sau khi trả tiền
người mua trở thành chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt bán
đoạn”), quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ
không trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay
dưới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho người kia sử dụng trong một thời gian
nhất định. Sau khi khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam
kết, người đi vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi
tức hợp lý kèm theo như cam kết đã giao ước với người cho vay.
Mọi khoản vay dưới dạng hiện vật hay tiền tệ cũng đều là hàng hoá và
vì thế nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng người
cho vay chỉ bán “giá trị (quyền) sử dụng của khoản vay” chứ khôngbán “giá
trị của khoản vay”, nên sau khi hết thời gian sử dụng theo cam kết, khoản vay
9
đó được hoàn trả về và vẫn giữ nguyên giá trị của nó, phần lợi tức theo thoả
thuận nếu có là “giá bán” quyền sử dụng khoản vay trong thời gian nhất định.
Như vậy, khối lượng hàng hoá hay tiền tệ (phần gốc) cho vay ban đầu chỉ là
vật chuyên chở giá trị sử dụng của chúng, nó được phát ra qua các thời gian
nhất định rồi sẽ thu về chứ không được bán đứt.
Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, tùy theo đặc
điểm riêng của mỗi ngân hàng mà tín dụng được phân chia theo các hình thức
phù hợp. Thông thường các ngân hàng phân chia tín dụng theo tiêu thức thời
gian bao gồm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, và tín dụng dài hạn.
1.1.3.5/ Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế vận động theo các
quy luật khách quan: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, các TCKT để có thể
đứng vững trên thương trường thì cần phải có vốn để đầu tư và tín dụng Ngân
hàng là một trong những nguồn vốn tối ưu để họ có thể khai thác. Đồng thời,

tín dụng Ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẩn giữa người thừa vốn
và người thiếu vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Như vậy tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế và góp phần điều hành nền kinh tế thị trường. Điều này
được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính thực hiện một trong
những chức năng chủ yếu của mình là tiến hành huy động các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi sau đó cho ra đối với nền kinh tế. Thông qua các hoạt động cho
vay của mình ngân hàng đã đảm bảo cho các doanh nghiệp nóichung, doanh
nghiệp nhà nước nói riêng không chỉ duy trì sản xuất kinh doanh mà còn tái
sản xuất mở rộng.
Đối với các doanh nghiệp hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó
10
khăn nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng thiếu vốn
của các doanh nghiệp là phổ biến và nghiêm trọng. Tín dụng ngắn hạn là hình
thức tốt nhất để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động hoặc sử dụng nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi của doanh nghiệp bởi tính linh hoạt của nó. Tín dụng ngắn hạn
không chỉ còn là nguồn vốn bổ sung nữa mà đã dần trở thành một nguồn vốn
chủ yếu, quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Tín dụng ngắn hạn giúp cho các doanh nghiệp không bỏ lỡ thời vụ
làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, quá trình lưu thông
được thông suốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội.
Mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường để
thực hiện được các khoản đầu tư đó doanh nghiệp không chỉ cần có vốn lưu
động tạm thời mà còn phải có một lượng vốn cố định và ổn định lâu dài. Qui
mô vốn đầu tư cho các yêu cầu trên đôi khi vượt quá khả năng vốn của doanh
nghiệp. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp cho các doanh nghiệp thoả mãn nhu

cầu vốn phục vụ cho các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đó.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng giúp các doanh nghiệp tăng cường quản
lý và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả
Bản chất của tín dụng ngắn hạn không phải là hình thức cung ứng vốn
mà là hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời hạn qui định. Do đó, các doanh
nghiệp sau khi sử dụng vốn vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần thu
hồi vốn là đủ mà còn phải tìm ra nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả,
tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợinhuận lớn hơn
lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới có thể trả được nợ và thu lãi.
Về phía ngân hàng, khả năng thu hồi khoản cho vay phụ thuộc rất lớn
vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Vì vậy,
trước khi cho vay ngân hàng thường xem xét đánh giá rất kỹ lưỡng phương án
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các
11
doanh nghiệp có phương án khả thi, lợi nhuận đủ cao để có thể trả nợ ngân
hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp muốn có được vốn vay ngân hàng thì phải hoàn
thiện năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh để đảm bảo kinh doanh có
hiệu quả. Thêm vào đó, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, ngân
hàng sẽ thực hiện quy trình giám sát, kiểm tra, kiểm soát trong và sau khi cho
vay, thông qua việc làm đó ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của
doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng những điều khoản
như đã thoả thuận trong hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại
hiệu quả cao nhất. Một yếu tố khác là do quyền lợi của ngân hàng luôn gắn
chặt với quyền lợi của khách hàng, nên ngân hàng sẽ sẵn sàng hợp tác với
doanh nghiệp để tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho
doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp tiến
hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng tác động tích cực đến nhịp độ phát triển,
thúc đẩy cạnh tranh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp

chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, sản xuất phải trên cơ sở đáp
ứng nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện,
không những thoả mãn về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng
loại hàng hoá mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên phương diện thời gian, địa
điểm. Hoạt động của các nhà doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất
định theo qui định chung của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong
cạnh tranh. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, doanh
nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện
cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán, mà còn phải không ngừng
cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng vật liệu mới,
mở rộng qui mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi
12
một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của
doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân
hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín
dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối doanh nghiệp với thị trường, nguồn vốn tín
dụng ngắn hạn cấp cho các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp doanh
nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, theo kịp với nhịp độ phát triển chung, từ
đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
Thứ tư, tín dụng Ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế, thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng.
Tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng Công
nghiệp – Nông nghiệp – dịch vụ. Đồng thời, nó còn huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi chưa sử dụng trong tất cả các thành phần kinh tế để cho các TCKT
vay vốn góp phần mở rộng SXKD và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Mặt khác, một trong những quy định của Ngân hàng là giám sát việc sử
dụng vốn vay. Với việc giám sát này, buộc các TCKT sử dụng vốn, với việc
giám sát này, buộc các TCKT sử dụng vốn vay đúng mục đích, để góp phần

nâng cao hiệu quả kinh tế. Trong quá trình hoạt động đó, Ngân hàng thu được
lợi tức cho vay để duy trì và phát triển hoạt động của chính ngân hàng. Tuy
vậy trong cơ chế thị trường hiện nay, việc huy động và cho vay bao nhiêu, có
đáp ứng được hay không, yêu cầu của nền kinh tế thu hồi vốn có đúng hạn
không là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Do vậy, chất lượng hoạt động tín dụng là yếu tố quyết định sự phát triển
bền vững, lành mạnh của ngân hàng, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong
xã hội và góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ năm, tín dụng Ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược kinh
doanh và các chính sách tiền tệ
Một trong những điểm quan trọng của NHTM là khả năng tạo tiền
13
thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi Nhà nước muốn tăng khối
lượng tiền cung ứng thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM
đối với nền kinh tế và ngược lại. Đồng thời cũng góp phần giúp nền kinh tế
tăng trưởng cao. Chính nhờ vậy mà NHNN có thể kiểm soát được khối lượng
tiền cung ứng trong lưu thông, góp phần tăng trưởng kinh tế, bền vững và ổn
định tiền tệ, ổn định vĩ mô.
Thứ sáu, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng
quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn
phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế thế giới. Sự hợp tác hoá bình đẳng
cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển
mạnh mẽ. Trong đó, đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh XNK hàng hoá
là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến nhất giữa các nước.
Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện qui trình này. Ngân
hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín
dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh XNK hàng
hoá.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển

kinh tế xã hội của một đất nước, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển. Tuy nhiên, để tín dụng Ngân hàng phát huy hết vai trò thì các nhà quản
lý ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp
lý, các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người vay và người
cho vay.
1.1.4/ Tín dụng trung - dài hạn của NH đối với doanh nghiệp
1.1.4.1/ Khái niệm, đặc điểm tín dụng trung - dài hạn của NH
a/ Khái niệm
Tín dụng trung- dài hạn: “là loại hình tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm
trở lên, nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm, cải tạo thay thế tài sản cố định, đầu
14
tư xây dựng cơ bản và một phần vốn lưu động thường xuyên của các khách
hàng DN với mục tiêu sau đầu tư là tăng doanh thu, mở rộng thị phần, hạ giá
thành sản phẩm, tạo ra nhiều lợi nhuận hơn cho DN vay vốn”.
b/ Đặc điểm
Đối tượng cho vay không chỉ là các nhu cầu liên quan đến tài sản cố
định mà còn là một phần nhu cầu vốn lưu động tối thiểu.
Nguồn vốn hoàn trả là nguồn tiền tích lũy trong hoạt động của khách
hàng. Đây là điểm khác biệt với cho vay thương mại, theo đó nguồn hoàn trả
nợ là nguồn tiền từ lưu chuyển vào (thu bán sản phẩm) từ hoạt động kinh
doanh cùa người cho vay.
Phương pháp thích hợp là trả góp, tức hoàn trả dần gốc và lãi theo các kì
hạn nhất định. Đây là cách trả vừa tạo điều kiện cho NH duy trì nguồn thanh
khoản, giảm thiểu rủi ro tín dụng, đảm bảo việc thu nợ khả thi, thích hợp với
khả năng tài chính của khách hàng.
Độ rủi ro tín dụng trung- dài hạn cao hơn tín dụng ngắn hạn do thời gian
cho vay dài nên khả thi dự đoán, lên kế hoạch cho việc trả nợ của khách hàng
có nhiều hạn chế, khả năng tài chính cũng như thiện chí trả nợ từ phía người
vay có thể thay đổi theo thời gian, Do đó, lãi suất tín dụng trung- dài hạn
luôn cao hơn tín dụng ngắn hạn nhằm bù đắp rủi ro về khả năng trả nợ cho

NH.
1.1.4.2/ Các phương thức tín dụng trung- dài hạn
a/ Cho vay mua sắm máy móc- thiết bị trả góp (Installment
Equipment Loan) “Là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu mua sắm máy móc
- thiết bị của DN, có thời hạn trên một năm, tiền vay được thanh toán dần cho
NH theo định kỳ”.
b/ Cho vay kỳ hạn (Term Loan) “Là các khoản vay tài trợ cho các mục
đích chung của DN, bao gồm tài trợ cho tài sản lưu động thường xuyên, mua
15
sắm các bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh, các thiết bị sản xuất, tài
trợ cho nhu cầu vốn cho việc liên doanh, liên kết trong kinh doanh”
c/ Cho vay tuần hoàn (Revolving Credit)
“Là một hình thức cho vay, trong đó NH cam kết chính thức dành cho
khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định. Cam kết này
có thể dài từ 1 đến 3 năm, thậm chí 5 năm, song thời hạn của khế ước nợ
trong thời hạn được cam kết thường ngắn, khoảng 90 ngày và nếu khách hàng
thực hiện tốt cácđiều khoản của hợp đồng tín dụng thì cam kết hạn mức sẽ
được tái tục,tức là gia hạn thêm một kỳ hạn bằng kỳ hạn gốc”
Tín dụng tuần hoàn thường được dùng tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài
sản lưu động hoặc thay thế cho các khoản nợ ngắn hạn tới kỳ thanh toán.
d/ Cho vay hợp vốn (Syndicated Loan) “Là phương thức cho vay,
trong đó một nhóm TCTD cùng cho vay đối với một dự ánvay vốn hoặc
phương án vay vốn của khách hàng. Một TCTD sẽ đứng ra làm đầu mối dàn
xếp, phối hợp với các TCTD khác.”
Hình thức này được áp dụng khi khoản vốn yêu cầu đầu tư cho dự án đó
quá lớn, tồn tại rủi ro cao mà NH riêng lẻ không đủ khả năng đáp ứng hoặc đủ
vốn đáp ứng nhưng rủi ro quá lớn NH không muốn đảm nhận hết. Do đó, cho
vay đồng tài trợ là một hoạt động tín dụng giúp NH phân tán bớt rủi ro, sử
dụng nguồn vốn hiệu quả và không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
1.1.4.3/ Vai trò của hoạt động tín dụng trung - dài hạn trong nền kinh tế

thị trường
a/ Đối với nền kinh tế
Hoạt động tín dụng là nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi
thiếu vốn, từ những nhà tiết kiệm sang những nhà đầu tư, phục vụ phát triển
kinh tế. Do tập trung được vốn và điều hòa cung cấp vốn cho nền kinh tế, tín
dụng trung-dài hạn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, mở rộng
đầu tư, phát triển kinh tế. Các khoản cho vay cung cấp cho các ngành được
16
thực hiện theo cả chiều sâu và chiều rộng, đầu tư có trọng điểm, hình thành
các ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác triệt để
các nguồn nhân lực, tập trung phục vụ sản xuất. Nắm trong tay nguồn vốn lớn
và lâu dài đã thúc đẩy tiến độ phát triển các dự án công trình, tạo được hiệu
quả kinh tế bền vững, lâu dài, góp phần thúc đẩy tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đả định hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Bên cạnh đó, các khoản cho vay trung - dài hạn có vai trò tạo nguồn vốn
để thực hiện xây dựng mới, hiện đại hóa từng bước của nền sản xuất trong
nước, thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng, mẫu mã, đa dạng về tín năng
của sản phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Hàng hóa có tính chất cạnh
tranh trên thị trường quốc tế thúc đẩy xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho quốc
gia, cải thiện cán cân thương mại cán cân thanh toán quốc tế.
Tín dụng trung - dài hạn có vai trò trong việc thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô. NHNN luôn quản lý tín dụng trung - dài hạn bằng các quy định
và chính sách của mình. NHNN đóng vai trò là người cho vay cuối cùng trong
nền kinh tế, ổn định lưu thông tiền tệ. Thông qua tín dụng trung - dài hạn,
Chính Phủ cũng có thể quản lý và thực hiện các chương trình kinh tế lớn một
cách có hiệu quả. Ngoài ra, Chính Phủ còn có thể định hướng tín dụng trung -
dài hạn vào các ngành kinh tế mũi nhọn, để các ngành này đi đầu, tạo đà cho
sự phát triển kinh tế -xã hội đất nước.
Tín dụng trung - dài hạn đã trở thành nhịp cầu nối liền quan hệ kinh tế
giữa các quốc gia với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như: các hình

thức tíndụng giữa các Chính Phủ, các hình thức tài trợ, cho vay không hoàn
lại của Chính Phủ các nước.
b/ Đối với doanh nghiệp
Các DN thường gặp phải một căn bệnh là thiếu vốn - đặc biệt là thiếu
vốn trung - dài hạn để phát triển sản xuất. Nền kinh tế không ngừng vận động,
hàng hóa sản xuất ngày càng nhiều và nhu cầu con người không ngừng nâng
17
cao. Một DN muốn tồn tại và phát triển thì phải biết nắm nhu cầu và thỏa mãn
nhu cầu đó. Như vậy, DN phải không ngừng đổi mới, mạnh dạn đầu tư để
nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất hay xâm nhập vào thị
trường mới. Tuy nhiên, để làm được điều này cần phải huy động một khối
lượng vốn nhất định, DN có thể tự tích luỹ qua lợi nhuận để lại, nhưng thời
gian tích lũy có thể quá lâu, làm mất thời cơ kinh doanh. Hơn nữa, khi chậm
đổi mới là lợi nhuận không còn. DN có thể huy động vốn trên thị trường
chứng khoán hoặc vay vốn NH. Đối với DN, việc vay vốn trung - dài hạn từ
NH đôi khi đem lại nhiều lợi nhuận cao hơn so với việc huy động vốn trên thị
trường chứng khoán. Về mặt kỳ hạn, DN có thể vay vốn NH theo kỳ hạn phù
hợp với yêu cầu kinh doanh. Về thủ tục thời gian thì nhanh chóng và ít phức
tạp, hơn nữa không phải công ty nào cũng được quyền bán trái phiếu, cổ
phiếu của mình trên thị trường chứng khoán, nhất là công ty mới thành lập ty
công ty nhỏ, chưa có tiếng tăm.
Ngoài ra các khoản vay trung - dài hạn tại NH, vừa giúp DN thực hiện
chiến lược kinh doanh đem lại lợi tức cho DN mà không gia tăng sự kiểm soát
của người bên ngoài đối với hoạt động kinh doanh của DN như trong trường
hợp phát hành cổ phiếu. Mặc dù có nhiều thuận lợi như vậy nhưng lãi suất
trung - dài hạn của NH là chi phí khá cao đối với DN. Nó buộc các DN phải
nghĩ đến hiệu quả đầu tư, doanh thu đạt được không chỉ đủ để trả vốn và lãi
cho NH mà phải đem lại lợi tức cho mình. Do vậy, lãi suất tín dụng trung -
dài hạn của NH là đòn bẩy thúc đẩy DN khai thác triệt để đồng vốn để kinh
doanh có lãi và thắng lợi trong cạnh tranh.

Như vậy, vay vốn trung - dài hạn từ NH là biện pháp quan trọng để các
DN có vốn thực hiện dự án của mình.
c/ Đối với NHTM
Hoạt động của NH trong cơ chế thị trường là hoạt động trong môi trường
cạnh tranh gay gắt. Để có thể đứng vững trong môi trường này, đòi hỏi NH
18
phải thực sự quan tâm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính mình. Vì
vậy, hoạt động tín dụng được xem là sự cần thiết trong hoạt động cạnh tranh
của NH. Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường vận động trong
điều kiện nền kinh tế mở với nhu cầu mở rộng quy mô, trang bị cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, tiến tới đổi mới nền toàn bộ nền kinh tế đã cho thấy nhu cầu
vốn trung - dài hạn là cấp thiết và quan trọng đối với DN. Đây là điều kiện
NH mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị
trí của mình trong nền kinh tế thị trường.
Hơn nữa, tín dụng trung- dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết
nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi NH, đồng thời cũng là cách NH gọi
vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các DN. Vì vậy, tín dụng
trung- dài hạn cần được tăng cường để các NH có thể tham gia nỗ lực vào sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Ngoài ra tín dụng trung - dài hạn còn là một nghiệp vụ mang lại lợi ích
cho NH. Bởi lẽ tín dụng trung - dài hạn là những khoản tín dụng có quy mô
lớn, lãi suất cao, thời gian dài nên lãi thu về sẽ lớn và ổn định. Quan hệ tín
dụng trung - dài hạn cũng có thể dẫn đến các hoạt động bảo lãnh như bảo lãnh
thực hiện các hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, do NH thực hiện. Các hình thức
bảo lãnh này đem lại lợi nhuận cho NH.
1.2/ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG-DÀI HẠN CỦA DOANH
NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1/ Khái niệm về chất lượng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một loại hàng hoá, sản phẩm, hoạt

động nào cũng cần phải có chất lượng, chất lượng là sự phù hợp mục đích của
người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá, sản phẩm nào đó.
Trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng, chất lượng là sự đáp ứng yêu
cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự
19
tồn tại, phát triển của ngân hàng. Trong đó hoạt động quan trọng nhất là hoạt
động tín dụng . Chất lượng tín dụng được hình thành và đảm bảo từ hai phía
Ngân hàng và khách hàng. Bởi vậy, chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa
cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn,…) vừa
trừu tượng ( thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh
tế, …) Chất lượng tín dụng còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan (khả
năng, trình độ quản lý của cán bộ tín dụng) và khách quan (sự thay đổi của
môi trường kinh doanh, xu hướng phát triển nền kinh tế, sự thay đổi giá cả thị
trường).
Như vậy, chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn. Để có chất
lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng
phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hay nói cách
khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với kết quả và độ tin cậy trong hoạt
động tín dụng.
1.2.2/ Chất lượng tín dụng của NHTM
1.2.2.1/Đối với khách hàng
Tín dụng đưa ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng
với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp ký, thủ tục đơn giản, thu hút được nhiều khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
1.2.2.2/ Đối với NHTM
Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản
thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường cạnh tranh
trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
1.2.2.3/ Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Tín dụng phải luôn đảm bảo sự lưu thông hàng hoá, góp phần giải

quyết công ăn việc làm cho người lao động, khai thác khả năng tiềm tang của
kinh tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng
kinh tế.
20
1.2.3/ Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng
trung - dài hạn đối với doanh nghiệp
1.2.3.1/ Nhóm nhân tố khách quan
Thứ nhất, đối với môi trường kinh tế
Các điều kiện kinh tế trong từng thời kì có ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng trong đó có tín dụng trung - dài hạn. Chẳng hạn trong một nền kinh tế
quá nóng, để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững, Chính Phủ sẽ đề ra một
số biện pháp nhằm hạn chế đầu tư. Định hướng này sẽ tác động đến NH thông
qua chính sách tiền tệ. Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho một nền
kinh tế phát triển, đòi hỏi bản thân NH cũng phải đổi mới cho phù hợp với
tình hình mới. Sự thay đổi mới này diễn ra ở tất cả các khâu bao gồm công tác
tổ chức, trang bị thiết bị, trình độ nhân sự, chất lượng tín dụng do đó cũng
được nâng lên.
Thứ hai, đối với môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị - xã hội ổn định là một điều kiện vô cùng quan
trọng trong việc tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư
dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Một môi trường chính trị - xã hội
ổn định sẽ là cơ sở rất tốt cho hoạt động tín dụng trung - dài hạn của NH, vì
chỉ khi có nhu cầu đầu tư dài hạn trong nền kinh tế mới xuất hiện nhu cầu vay
vốn trung -dài hạn tại NH. Hơn nữa, sự mất ổn định về chính trị - xã hội sẽ
ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các DN, NH sẽ không huy động thêm
vốn được và khả năng thu hồi nợ của NH sẽ gặp nhiều khó khăn. Chất lượng
tín dụng trung - dài hạn của NH sẽ bị ảnh hưởng theo.
Thứ ba, đối với môi trường pháp lý
Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của NH

nói riêng hoạt động của các DN trong nền kinh tế nói chung là một nhân tố rất
21
quan trọng, ảnh hưởng tới phát sinh nợ quá hạn hệ thống pháp luật quốc gia
với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không
đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro cho sản xuất kinh doanh của các DN,
gây nên các khoản nợ quá hạn cho NH. Như vậy, pháp luật có vị trí hết sức
quan trọng đối với hoạt động NH nói chung và chất lượng tín dụng trung - dài
hạn nói riêng.
1.2.3.2/ Nhóm nhân tố chủ quan
+ Về phía NHTM
Một, đối với chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một NH là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng
của NH đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển Nhà nước thì
chính sách tín dụng còn phải bảo đảm kết hợp hài hòa quyền lợi của người
gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân NH. Chính sách
tíndụng phải tạo ra sự công bằng, không những phải đảm bảo an toàn cho hoạt
động tín dụng của NH mà còn phải bảo đảm đủ sức hấp dẫn đối với khách
hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ, thống nhất đầy đủ, đúng đắn, sẽ xác
định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng. Ngược lại, một chính sách
tín dụng tồn tại quá nhiều khuyết điểm sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt
động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo kẻ hở cho
người sử dụng vốn không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.
Hai, đối với chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín
dụng nói riêng cũng như trong hoạt động NH nói chung. Việc tuyển chọn
nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, có tâm huyết
với nghề, giỏi chuyên môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường
và đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản pháp
luật có liên quan đến hoạt động tín dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án

22
xin vay, sẽ giúp cho NH ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi
thực hiện chu kì khép kín của một khoản tín dụng. Ngược lại sẽ dẫn đến việc
xác định sai hiệu quả của dự án đầu tư xin vay vốn, giảm hiệu quả khoản tín
dụng, dẫn đến rủi ro cho NH.
Chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng là nhân tố quyết định đến sự
thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động
tín dụng nói riêng. Bởi vì CBTD là người tham gia trực tiếp vào mọi khâu của
quy trình tín dụng. CBTD mà không có đạo đức nghề nghiệp, làm việc thiếu
trách nhiệm, cố ý làm trái pháp luật sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Bên cạnh đó, CBTD cần có sự hiểu biết rộng về pháp luật, mội trường kinh tế,
đường lối phát triển của đất nước, sự thay đổi của thị trường để từ đó tư vấn
lại cho khách hàng để họ có thể xây dựng phương án kinh doanh sao cho phù
hợp, góp phần vào việc gia tăng chất lượng tín dụng, đó là:
+ Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm những qui định cần phải thực hiện trong
quá trình cho vay, nhằm đảm bảo an toàn nguồn vốn tín dụng. Nó được bắt
đầu tư khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến
khi thu hồi được nợ.
Trong quy trình tín dụng, giai đoạn chuẩn bị cho vay là hết sức quan
trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Trong giai đoạn
này, chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối
tượng được vay vốn cũng như qui định điều kiện và thủ tục vay ở từng
NHTM. Việc kiểm tra quá trình cho vay giúp cho ngân hàng nắm được diễn
biến của khoản vay đã cung cấp để có thể điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần
thiết, sớm thấy được nguyên nhân và ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra. Công tác
thu nợ và thanh lý cũng là khâu quyết định sự tồn tại của NHTM. Sự nhạy
bén của NHTM trong việc phát hiện kịp thời những bất lợi xảy ra cùng các
biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn, điều
23

đó sẽ tác động tích cực đến chất lượng tín dụng Ngân hàng.
+ Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín
dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết
định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý các khoản cho
vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những nguồn có sẵn ở ngân hàng
(hồ sơ vay vốn, phân tích của cán bộ tín dụng,…) từ khách hàng (các báo cáo
định kỳ hoặc phản ánh trực tiếp,). Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận
được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định thị
trường, khách hàng, để đưa ra những quyết định phù hợp. Vì vậy, thông tin
càng đầy đủ, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt
động kinh doanh càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao.
+ Kiểm soát nội bộ
Thông qua kiểm soát nội bộ giúp ban Lãnh đạo ngân hàng nắm được
tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, phát hiện những thuận lợi, khó
khăn, sai trái tứ đó đề ra những biện pháp giải quyết kịp thời. Chất lượng tín
dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những qui định, chính sách và mức độ
phát hiện kịp thời các sai sót trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng, để
có biện pháp khắc phục kịp thời, nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng
Ngoài các yếu tố trên, Ngân hàng cần chú ý tới các phương tiện cần
thiết phục vụ cho quá trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang bị đầy đủ thiết
bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và phạm vi, quy mô hoạt động của
ngân hàng sẽ giúp cho cấp quản lý ngân hàng kịp thời nắm bắt tình hình hoạt
động tín dụng để điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế, nhằm
thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Ba, đối với công tác tổ chức của NH
Công tác tổ chức không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác
24
động đến mọi hoạt động của NH. Nếu chỉ xét riêng ảnh hưởng đến chất lượng

tín dụng, thì việc tổ chức thiếu khoa học sẽ tạo sự chồng chéo trong việc phối
hợp công việc giữa các bộ phận trong NH, ảnh hưởng đến thời gian quyết
định đối với một món vay. Do đó, tổ chức phải đảm bảo đúng người đúng
việc, phát huy được khả năng của cán bộ, tạo ra sự nhịp nhàng giữa các khâu.
Nếu được tổ chức một các hợp lý, NH sẽ rút ngắn thời gian thẩm định nhưng
vẫn hạn chế tối đa sự thiếu chính xác trong quá trình thẩm định, vừa đảm bảo
an toàn cho NH vừa phục vụ khách hàng tốt hơn. Từ đó nâng cao chất lượng
tín dụng.
Bốn, đối với công tác thẩm định
Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách toàn diện các nội dung
cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án trước khi ra quyết định
đầu tư. Mục đích củaviệc thẩm định dự án là giúp cho NH rút ra các kết luận
chính xác về tính khả thi của dự án, bao gồm hiệu quả kinh tế và khả năng trả
nợ của NH, từ đó NH có thể ra quyết định cho vay hoặc từ chối. Cũng như từ
quá trình thẩm định, NH có thể tham gia tư vấn, góp ý cho DN, đồng thời căn
cứ vào đó để xác định số tiền vay, thời hạn cho vay cũng như phương thức trả
nợ, tạo điều kiện cho khách hành hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu quá
trình thẩm định không được thực hiện đúng trình tự, nội dung không đầy đủ
chính xác thì khả năng rủi ro đối với NH là quá lớn. Nhưng nếu quá trình
thẩm định quá thận trọng, tốn nhiều thời gian, thủ tục rườm rà thì NH sẻ bỏ lỡ
cơ hội đầu tư, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN và tất nhiên
chất lượng tín dụng của NH sẽ giảm.
Năm, đối với thông tin tín dụng
Những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp ích rất nhiều cho NH
trong những công việc có liên quan đến hoạt động cho vay, theo dõi và quản
lý tiền vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công
tác tín dụng của NH càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được hạn chế ở
25

×