Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN dạy học theo phương pháp bàn tay nặn bột trong môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.58 KB, 19 trang )


CHUYÊN ĐỀ
“DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP
BÀN TAY NẶN BỘT
TRONG MÔN KHOA HỌC LỚP 4”
MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
1 Lời mở đầu 2
2 Phần I: Những ưu và khuyết điểm trong quá trình thực hiện dạy học
phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn Khoa học lớp 4.
3
3 Phần II: Mục tiêu, nội dung chương trình và các phương pháp dạy
học môn Khoa học lớp 4
4
4 Phần III: Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn Khoa
học lớp 4.
6
5 Phần IV: Tiến trình đề xuất dạy bài Ánh sáng 11
6 Phần V: Kết luận 13
1
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với môn Tiếng Việt và Toán, môn Khoa học là một trong những môn có tầm
quan trọng nhất của chương trình Tiểu học. Như chúng ta đã biết môn Khoa học lớp 4
nói riêng và môn Khoa học trong chương trình Tiểu học nói chung tích hợp các nội dung
của khoa học tự nhiên với khoa học về sức khoẻ trong các chủ đề: Con người và sức
khoẻ; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật; Môi trường và tài nguyên; Bước
đầu hình thành và phát triển những kĩ năng như tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng
xử hợp lí trong đời sống để phòng chống một số bệnh tật và tai nạn; …
Các phương pháp dạy học thường xuyên sử dụng ở môn học này là: Phương pháp
quan sát, phương pháp thí nghiệm, phương pháp thực hành, đóng vai và truyền đạt. Các
hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là dạy học theo nhóm, cá nhân, trò chơi học tập


Năm học 2012-2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đưa ra thí điểm phương
pháp “Bàn tay nặn bột” vào áp dụng ở bậc Tiểu học. Đây là phương pháp dạy hình thành
kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm, thông qua cách học sinh chia nhóm để tự
làm, tự trao đổi, nghiên cứu, quan sát để tìm ra câu trả lời cho các vấn đề trong cuộc
sống. Giáo viên chỉ đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn. Với sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo
ngành và chuyên môn trường, tập thể giáo viên tổ 4 đã tích cực nghiên cứu soạn giảng,
đổi mới phương pháp dạy học. Bước đầu sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong
môn Khoa học phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh, nhằm mục đích nâng cao
chất lượng toàn diện vững chắc.
Qua giảng dạy, chúng tôi đã rút ra một số kinh nghiệm có tính chất trọng tâm, thiết
thực, thật sự có tác dụng góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, cần được đúc kết kinh
nghiệm học tập. Bên cạnh những kết quả đạt được, không sao tránh khỏi những tồn tại,
thiếu sót cần được chấn chỉnh khắc phục, bổ sung cho hoàn thiện hơn. Tập thể giáo viên
tổ 4 xin đưa ra tham luận chuyên đề “Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột trong môn
Khoa học lớp 4 ”. Để phát huy mặt ưu điểm của phương pháp này, chúng tôi tập hợp
một số nội dung chính, cơ bản, tiêu biểu đưa ra hội thảo để trao đổi nhằm góp phần thiết
2
thực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hoàn thiện và phát triển tư duy,
năng lực cho học sinh.
Chúng tôi rất mong và đón nhận ý kiến đóng góp chân thành của quý thầy cô giáo
trong hội đồng nhằm sửa đổi, bổ sung cho dự thảo chuyên đề được hoàn chỉnh, thiết thực
hơn.
PHẦN I
NHỮNG ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN DẠY
HỌC PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG MÔN KHOA HỌC LỚP 4.
Qua quá trình tập huấn phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột, dưới sự chỉ đạo của
ngành và chuyên môn trường, đội ngũ giáo viên trong tổ đã nổ lực tìm hiểu tài liệu,
những hiểu biết qua tập huấn, vận dụng phương pháp này nhằm từng bước đổi mới
phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục. Trong thực tế giảng dạy của GV và
học tập của HS, chúng tôi rút ra một số ưu điểm và tồn tại sau:

1. Ưu điểm:
a. Đối với GV:
- Có sự chỉ đạo tập huấn của chuyên môn trường.
- Đội ngũ giáo viên trong tổ hiện nay đều chuẩn về trình độ và vững vàng về
chuyên môn, sẵn sàng cho ứng dụng phương pháp BTNB vào giảng dạy.
3
- Sử dụng tốt trang thiết bị dạy học vào các tiết học.
b. Đối với HS:
- Phương pháp này, HS được tham gia các thí nghiệm, rồi tự đưa ra đánh giá, thảo
luận so sánh kết quả với các bạn trong nhóm để đi đến kết luận kiến thức. Hầu hết HS
đều cảm thấy hứng thú, chủ động trong suốt quá trình thời gian của tiết học, nắm vững
kiến thức, hiểu bài sâu hơn.
- Rèn luyện được ở các em kĩ năng giao tiếp, diễn đạt nói và viết, kĩ năng làm việc
theo nhóm.
- Phát huy được tính tư duy, say mê sáng tạo, giải quyết vấn đề.
2. Khuyết điểm:
a. Đối với GV:
- Đây là một phương pháp mới, hoạt động chưa đồng bộ, nên GV chưa hiểu đúng
bản chất của phương pháp BTNB.
- GV chưa được thực hành, áp dụng nhiều với phương pháp BTNB nên gặp nhiều
khó khăn trong quá trình áp dụng.
- Tài liệu hướng dẫn, tham khảo, tài liệu hỗ trợ bước đầu còn hạn chế.
- Việc chuẩn bị bài dạy bằng phương pháp này tốn rất nhiều thời gian: nghiên cứu
bài dạy, soạn bài theo phương pháp mới, chuẩn bị đồ dùng dạy học, chuẩn bị đồ dùng
cho học sinh. GV chưa có thời gian chuẩn bị chu đáo.
- SGK chưa phù hợp với cách dạy học theo phương pháp BTNB, chưa kích thích
sự suy nghĩ sáng tạo của học sinh.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng được cho việc dạy học theo phương
pháp này. Bàn ghế không phù hợp với cách dạy học theo nhóm, chưa có phòng thí
nghiệm, chưa có đầy đủ thiết bị dạy học.

- Một số lớp có số HS quá đông (34 em) nên việc tổ chức học nhóm khó, HS các
nhóm không thể quan sát và trao đổi với nhau, khó tổ chức các hoạt động dạy học.
b. Đối với HS:
- Các em chưa quen với phương pháp này thường hay lúng túng, rụt rè trong quá
trình học.
- HS chưa có vở thực hành, thí nghiệm trong quá trình học.
4
- HS chưa biết cách đặt câu hỏi sát với nội dung bài.
PHẦN II
MỤC TIÊU, NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC MÔN KHOA HOC LƠP 4
A – Mục tiêu chương trình môn Khoa học
Sau khi học xong môn Khoa học ở tiểu học, học sinh cần đạt được: Một số kiến thức
cơ bản, ban đầu và thiết thực. Một số kĩ năng ban đầu. Một số thái độ và hành vi.
1. Một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực
- Sự trao đổi chất, sự sinh sản, sự lớn lên của cơ thể người. Cách phòng tránh một số
bệnh.
- Sự trao đổi chất, sự sinh sản của thực vật, động vật.
- Đặc điểm và ứng dụng của một số chất, nguồn năng lượng thường gặp trong đời sống
và sản xuất.
2. Một số kĩ năng ban đầu
- Ứng xử thích hợp trong một số tình huống.
- Quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành.
- Nêu thắc mắc, biết tìm thông tin để giải đáp; biết diễn đạt những hiểu biết.
- Phân tích, so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng.
3. Một số thái độ và hành vi
- Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn.
- Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống.
- Yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp. Có ý thức và hành động bảo vệ môi
trường xung quanh.

B – Nội dung chương trình môn Khoa học lớp 4.
Bao gồm 3 chủ đề.
Chủ đề: Con người và sức khỏe (Trao đổi chất ở người; Dinh dưỡng; Phòng bệnh;
An toàn trong cuộc sống)
5
Chủ đề: Vật chất và năng lượng (Nước; Không khí; Âm thanh; Ánh sáng; Nhiệt)
Chủ đề: Thực vật và động vật (Trao đổi chất ở thực vật;Trao đổi chất ở động vật;
Chuỗi thức ăn trong tự nhiên.)
CÁC BÀI KHOA HỌC LỚP 4 CÓ THỂ ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY
NẶN BỘT
STT BÀI TÊN BÀI DẠY
1 2+3 Trao đổi chất ở người
2 20 Nước có những tính chất gì?
3 21 Ba thể của nước
4 22 Mây được hình thành như thế nào? Mưa từ đâu ra?
5 23 Sơ đồ vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên
6 27 Một số cách làm sạch nước
7 30 Làm thế nào để biết có không khí?
8 31 Không khí có những tính chất gì?
9 32 Không khí gồm những thành phần nào?
10 35 Không khí cần cho sự cháy
11 36 Không khí cần cho sự sống
12 37 Tại sao có gió?
13 41 Âm thanh
14 42 Sự lan truyền âm thanh
15 45 Ánh sáng
6
16 46 Bóng tối
17 47 Ánh sáng cần cho sự sống
18 50+51 Nóng lạnh và nhiệt độ

19 52 Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt
20 55+56 Ôn tập: Vật chất và năng lượng
21 57 Thực vật cần gì để sống?
22 60 Nhu cầu không khí của thực vật
23 61 Trao đổi chất ở thực vật
24 62 Động vật cần gì để sống
25 64 Trao đổi chất ở động vật
C – Một số phương pháp và tiến trình thực hiện phương pháp Bàn tay nặn bột.
1. Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột.
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thí nghiệm trực tiếp
- Phương pháp làm mô hình
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
2. Tiến trình thực hiện phương pháp Bàn tay nặn bột gồm 5 bước:
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
Bước 5: Kết luận và hợp thức hoá kiến thức
Lưu ý: Trong mỗi tiết học GV cần tổ chức cho HS thực hiện các hoạt động, tập cho
các em giải quyết vấn đề đơn giản, làm việc theo cặp. Tăng cường cho HS sử dụng tranh
ảnh, sơ đồ, mẫu vật, đồ dùng thí nghiệm.
PHẦN III
PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG MÔN KHOA HỌC LỚP 4
I. Mục tiêu của phương pháp bàn tay nặn bột.
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ sở
của sự tìm tòi -nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự nhiên. Thực
hiện phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của giáo viên, chính HS tìm ra câu trả lời cho
7
các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên

cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình.
Phương pháp BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa
học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp bàn tay
nặn bột còn chú ý đến rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học
sinh.
Dạy Khoa học trước đây Dạy Khoa học ứng dụng bàn
tay nặn bột
Học khoa học qua nhìn, xem Học khoa học thông qua ứng
dụng trực tiếp
Do GV thực hiện là chính Chính cá nhân học sinh tự làm
II. Một số PP tiến hành thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
1. PP quan sát.
* Quan sát là:
- Tìm câu trả lời cho câu hỏi đặt ra
- Nhận thức bằng tất cả các giác quan
- Tổ chức sự nghiên cứu một cách chặt chẽ và có PP
- Xác lập các mối quan hệ bằng cách so sánh với các mô hình, những hiểu biết và các đối
tượng khác.
8
Vấn đề khoa học
HS tự đặt câu hỏi giả
thiết ban đầu
Tiến hành thí nghiệm
Kiểm chứng
Vấn đề khoa học
Đưa ra kết luận thông
qua so sánh, thảo luận,
phân tích, tổng hợp
* Quan sát giúp HS phát triển các khả năng:
- Chặt chẽ trong nhìn nhận

- Tò mò trước một sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh
- Khách quan
- Tinh thần phê bình
- Nhận biết
- So sánh
- Chọn lọc những điểm chủ yếu, quan trọng và đặc trưng của sự vật hiện tượng.
2. PP thí nghiệm trực tiếp: (PP TNTT)
- Đây là PP được khuyến khích thực hiện trong bước tiến hành thí nghiệm tìm tòi,
nghiên cứu theo PP “BTNB”.
- PP TNTT được thực hiện đối với các kiến thức cần làm thí nghiệm để chứng minh.
Các thí nghiệm do chính HS thực hiện. GV tuyệt đối không được thực hiện thí nghiệm
biểu diễn như đối với các PP dạy học khác.
- Thí nghiệm trong PP “BTNB” được thực hiện để kiểm chứng một giả thuyết đặt ra chứ
không phải là để khẳng định lại một kiến thức. VD: để kiểm tra giả thuyết: “Có phải
không khí cần cho sự cháy không?” HS làm thí nghiệm úp cốc thuỷ tinh lên ngọn nến
đang cháy để kiểm chứng.
3. PP làm mô hình:
- PP làm mô hình thường được tiến hành theo nhóm vì HS cần thảo luận với nhau để làm
mô hình hợp lí.
- Mô hình đối với HS tiểu học chỉ nên thực hiện đơn giản nhằm làm rõ một kiến thức
nhất định.
- Để tiết kiệm thời gian GV có thể chuẩn bị trước một mô hình đúng để trình bày cho HS
so sánh trong trường hợp không có nhóm nào làm đúng. Trong trường hợp này GV cần
giấu mô hình không cho HS nhìn thấy trước khi đưa ra trưng bày.
4. PP nghiên cứu tài liệu:
Khi cho HS tiến hành PP này, GV giúp HS xác định được:
- Động cơ đọc tài liệu: tìm hiểu tổng quát, tìm hiểu chuyên sâu, tìm một định nghĩa, …
- Vấn đề nào cần quan tâm.
9
- Những thắc mắc đang cần tìm câu trả lời.

- Kiểu thông tin nào đang cần có.
- Vị trí cần đọc, nghiên cứu trong tài liệu.
III. Các nguyên tắc của bàn tay nặn bột
Tiến trình bài dạy:
a. Quan sát: HS quan sát sự vật hay một hiện tượng (thực tại, gần gũi, dễ cảm
nhận được)
Sự vật ở đây được hiểu bao gồm: cả những vật có thể sờ được bằng tay (cái lá, quả
bóng,….) và tiến hành các thí nghiệm với nó và cả những sự vật không thể tiếp xúc được
VD: bầu trời, mặt trăng,
b. Học: HS lập luận, đưa ra lí lẽ, thảo luận (các ý kiến, kết quả đề xuất), xây dựng kiến
thức cho mình
c. Các hoạt động đề ra:
- Tổ chức theo các giờ học
- Tạo ra tiến bộ dần dần cho HS
- Gắn với chương trình
- Dành phần lớn quyền tự chủ cho HS
d. Thời gian cho một đề tài 2 giờ/ tuần:
Một đề tài có thể giảng dạy trong nhiều tuần sẽ giúp HS có thời gian tìm hiểu, xây
dựng và hình thành kiến thức, các kiến thức có sự kế thừa liên quan với nhau.
e. Vở thí nghiệm: Mỗi học sinh phải có vở thí nghiệm ghi những kí hiệu riêng của mình.
g. Mục đích hàng đầu:
Chính là giúp HS tiếp cận dần dần các khái niệm (Khoa học, kĩ thuật, Sự vững
vàng trong diễn đạt nói và viết,…)
IV. Các bước tiến trình dạy học theo PP “Bàn tay nặn bột”
Các bước của tiến trình dạy học đưa ra dưới đây là các tiêu chuẩn để áp dụng
phương pháp BTNB vào dạy học các môn Khoa học. Đó là một định hướng hành động
chứ không phải là định nghĩa một phương pháp khoa học hay một tiến trình cứng nhắc đi
từ vấn đề đến khám phá và cuối cùng là cấu trúc kiến thức. Việc vận dụng tiến trình đó
theo một phương pháp tích cực, sáng tạo và linh hoạt giữa các bước, tùy theo chủ đề
10

nghiên cứu là điều cực kì cần thiết. Nói cách khác, mỗi bước được xác định như là yếu tố
cần thiết để đảm bảo rằng quá trình khám phá của HS được thông suốt về mặt tư duy.
Bước 1:Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
- Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ
động đưa ra như là một cách hấp dẫn nhập vào bài học.
Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với HS; nhằm lồng ghép câu
hỏi nêu vấn đề.
VD: Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào? GV nêu câu hỏi: Theo em
không khí gồm những thành phần nào?
- Khi dạy bài Sự lan truyền âm thanh: GV hỏi: Theo em âm thanh được lan truyền như
thế nào?
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học; cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình
độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của HS
nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức.
GV dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không)
đối với câu hỏi nêu vấn đề.
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh
Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu
hỏi hay giả thuyết của HS là bước quan trọng đặc trưng của PPBTNB. Trong bước này,
GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật hiện
tượng mới (kiến thức mới) trước khi học được kiến thức đó. Khi yêu cầu HS trình bày
quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như có
thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy
nghĩ.
VD: Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào?
HS trình bày quan điểm: (có thể có các ý kiến khác nhau) VD: Không khí gồm có
ô-xi, ni-tơ; không khí gồm có bụi; không khí gồm có vi khuẩn;…
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
- Đề xuất câu hỏi: Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV
giúp HS đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt

11
liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì GV cần
phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong hàng chục biểu tượng của HS một
cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của
HS nhằm giúp HS đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học Sau khi chọn
lọc các biểu tượng ban đầu của HS để ghi chép (đối với mô tả bằng lời) hoặc gắn hình vẽ
lên bảng hoặc vẽ nhanh lên bảng (đối với hình vẽ), GV cần khéo léo gợi ý cho HS so
sánh các điểm giống (đồng thuận giữa các ý kiến) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa
các ý kiến) các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau cơ bản đó GV giúp HS đề
xuất các câu hỏi. Sau khi giúp HS so sánh và gợi ý để HS phân nhóm các ý kiến ban đầu,
GV hướng dẫn HS đặt các câu hỏi nghi vấn.
VD: * Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào?
HS đặt câu hỏi: - Trong không khí có ô-xi và ni-tơ không?
- Trong không khí có khí các-bô-níc không?
- Trong không khí có bụi không?
- Trong không khí có khí độc và vi khuẩn không?
* Khi dạy bài Sự lan truyền âm thanh.
HS đặt câu hỏi:
- Âm thanh có truyền qua được không khí không?
- Âm thanh có truyền qau chất lỏng không?
- Âm thanh có truyền qua được chất rắn không?
- Âm thanh yếu đi hay mạnh lên khi khoảng cách đến nguồn âm xa hơn?
- Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu:
Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề xuất thực
nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Các câu hỏi có thể là:
“Theo các em làm thế nào để chúng ta tìm câu trả lời cho các câu hỏi nói trên?”; “Bây
giờ các em hãy suy nghĩ để tìm phương án giải quyết các câu hỏi mà lớp mình đặt ra?”…
Sau khi HS đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, GV nêu nhận xét chung
và quyết định tiến hành PP thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn.
12

Lưu ý rằng phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu ở đây được hiểu là các phương
án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều PP như quan sát, thực hành, thí nghiệm, nghiên cứu tài
liệu, …
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
- Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi-nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận
xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu.
- Khi tiến hành thí nghiệm, GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu HS
cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó GV phát cho HS các dụng
cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với các hoạt động.
- Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận. GV lưu ý
HS ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay
vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thực
hành.
GV chú ý yêu cầu HS thực hiện độc lập các thí nghiệm (theo cá nhân hoặc nhóm) để
tránh việc HS nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi
cho GV phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm.
* Lưu ý: Trong quá trình HS vẽ hình và thực hiện thí nghiệm, nếu sách giáo khoa có
hình vẽ tương ứng thì không cho HS mở sách để tránh việc các em không quan sát mà
chỉ sao chép lại hình vẽ trong sách ra vở thí nghiệm.
VD: Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào?
- Với nội dung tìm hiểu không khí có khí các-bô-níc, GV sử dụng phương pháp thí
nghiệm với nước vôi trong kết hợp với nghiên cứu tài liệu. Nên tổ chức HS thực hiện
vào đầu tiết học để có hiệu quả. Quan sát một lọ thuỷ tinh đựng nước vôi trong, sau thời
gian 30 phút, lọ nước vôi còn trong nữa không? (HS giải thích dựa vào bài học)
- Với nội dung tìm hiểu không khí có khí ô-xi duy trì sự cháy và ni – tơ không duy trì sự
cháy, GV sử dụng phương pháp thí nghiệm và nghiên cứu tài liệu. thí nghiệm: đốt cháy
một cây nến, gắn vào một đĩa thuỷ tinh rồi rót nước vào đĩa , lấy một lọ thuỷ tinh úp lên
cây nến đang cháy. Yêu cầu HS quan sát: HS sẽ thấy sau khi nến tắt, nước lại dâng vào
cốc. Chứng tỏ sự cháy đã làm mất đi một phần không khí ở trong cốc và nước tràn vào
cố chiếm chỗ phần không khí bị mất đi. Vì nến bị tắt nên phần không khí còn lại không

13
duy trì sự cháy. Cho HS nghiên cứu tài liệu và rút ra kết luận: Không khí gồm 2 thành
phần chính là khí ô-xi duy trì sự cháy và khí ni-tơ không duy trì sự cháy…
Bước 5: Kết luận và hợp thức hoá kiến thức
Sau khi khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần dược
giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn
chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học.
GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến
thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho
kết luận sau khi thực nghiệm.
GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại các ý kiến
ban đầu (bước 2). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực
nghiệm tìm tòi-nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải
do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức
và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ một
cách lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
V. Các kĩ thuật dạy học và rèn luyện kĩ năng cho HS trong PP “Bàn tay nặn bột”
1.Tổ chức lớp học
2. Giúp HS bộc lộ quan niệm ban đầu
3. Kĩ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho HS
4. Kĩ thuật tổ chức hoạt động nhóm
5. Kĩ thuật đặt câu hỏi của GV
6. Rèn luyện ngôn ngữ cho HS
7. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của HS: (VD nhóm nho xanh, nhóm táo đỏ,
nhóm cam vàng,.)
8. Hướng dẫn HS đề xuất thí nghiệm tìm tòi- nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời:
9. Hướng dẫn HS sử dụng vở thực hành:
10. Hướng dẫn HS phân tích thông tin, hiện tượng quan sát được khi nghiên cứu để đưa
ra kết luận:
11. So sánh, đối chiếu kết quả thu nhận được với kiến thức khoa học:

12. Đánh giá HS trong dạy học:
14
* Tóm lại: PP “BTNB” chú trọng việc giúp cho HS bộc lộ quan niệm ban đầu để tạo
ra các mâu thuẫn nhận thức làm cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết. Hoạt động tìm
tòi-nghiên cứu trong PP BTNB rất đa dạng, trong đó các phương án thí nghiệm nếu được
tiến hành thì chủ yếu là các phương án được đề xuất bởi chính HS. Đặc biệt trong PP
BTNB, HS bắt buộc phải có mỗi em một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép
theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em.
Thông qua các hoạt động như vậy, PP BTNB nhằm đạt được mục tiêu chính là sự
chiếm lĩnh dần dần của HS các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo
là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.
PHẦN IV
TIẾN TRÌNH ĐỀ XUẤT DẠY BÀI ÁNH SÁNG - KHOA HỌC LỚP 4
I. Mục tiêu:
Sau bài học, học sinh biết:
- Phân biệt được vật tự phát sáng và vật được chiếu sáng. Biết được ánh sáng
truyền qua được một số vật và không truyền qua được một số vật, ánh sáng truyền theo
đường thẳng, ta chỉ nhìn thấy vật khi có ánh sáng từ vật đó truyền vào mắt.
- Đưa ra phương án và tiến hành thí nghiệm để tìm hiểu các nội dung về ánh sáng
- Có ý thức chọn nơi có đủ ánh sáng để học, đọc sách…
II. Đồ dùng dạy học:
- Tranh 1,2 SGK phóng to
- 4 tấm bìa gương, 4 tấm bìa giấy, 4 chậu nước
- 4 hộp đen, 4 thẻ số, 4 miếng bìa nhỏ.
- 4 đèn pin, 4 thùng caton
III. Tiến trình dạy học đề xuất:
(Tiến trình này đề xuất cho các hoạt động tìm hiểu về đường truyền ánh sáng, về
sự truyền ánh sáng qua các vật, tìm hiểu về vấn đề mắt nhìn thấy vật khi nào.)
Khởi động
1. Tình huống xuất phát:

15
- GV tắt hết đèn trong lớp học, đóng kín các cánh cửa và hỏi HS có thấy được các dòng
chữ ghi trên bảng không?
- Sau đó, GV mở các cánh cửa ra, bật hết các bóng đèn, hỏi HS có thấy các dòng chữ
trên bảng không? Vì sao?
2. Nêu ý kiến ban đầu của HS:
- GV yêu cầu HS nêu những hiểu biết ban đầu của mình về ánh sáng.
- Cho HS ghi vào vở thí nghiệm, thảo luận nhóm và ghi vào bảng nhóm.
3. Đề xuất các câu hỏi:
- Giáo viên định hướng cho học sinh nêu thắc mắc, đặt câu hỏi xoay quanh nội dung về
ánh sáng.
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm.
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với nội dung bài
học), ví dụ:
+ Ánh sáng có thể truyền qua những vật nào và không truyền qua những vật nào?
+ Ánh sáng đi như thế nào?
+ Những vật như li, chén, xô, quần áo, có tự phát sáng được không?
4. Đề xuất các thí nghiệm nghiên cứu:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, đề xuất, dự đoán kết quả và tiến hành thí
nghiệm nghiên cứu theo nhóm 4 hoặc nhóm 6 để tìm câu trả lời cho câu hỏi ở bước 3
liên quan đến các nội dung:
+ Tìm hiểu về đường truyền của ánh sáng (Thí nghiệm chiếu đèn pin qua khe hẹp của
một tấm bìa. Hãy dự đoán xem ánh sáng qua khe sẽ như thế nào?)
+ Tìm hiểu về sự truyền ánh sáng qua các vật (Làm thí nghiệm để tìm hiểu xem ánh sáng
có thể truyền qua một tấm bìa, quyển vở, tấm thuỷ tinh,… hay không.)
+ Tìm hiểu vấn đề khi nào mắt nhìn thấy được vật (HS làm thí nghiệm 3 ở SGK)
5. Kết luận, kiến thức mới:
- Giáo viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả:
+ Ánh sáng có thể truyền qua cửa kính, vải thưa,…và không truyền qua cửa gỗ, tấm bìa,
quyển vở.

+ Ánh sáng truyền theo đướng thẳng.
16
+ Những vật như li, chén, xô, quần áo,… không tự phát sáng được.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh lại với các ý kiến ban đầu của học sinh ở bước 2
để khắc sâu kiến thức.
(Hoạt động Tìm hiểu vật tự phát sáng và vật được chiếu sáng ở bài học này có thể giảng
dạy theo các phương pháp thông thường sử dụng các tranh ảnh trong SGK)
- Liên hệ giáo dục:
- Dặn dò: Yêu cầu HS ghi lại những điều em biết được về ánh sáng sau bài học vào vở
thí nghiệm.
17
PHẦN V
KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu giảng dạy, tập thể GV tổ 4 đã đúc kết và rút ra nội
dung và phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột để làm cơ sở tham gia đóng góp ý kiến
nhằm vận dụng vào việc soạn giảng bổ sung, hoàn thiện phương pháp dạy học này. Mặt
khác, nhằm tích cực nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục phát huy tính tích cực, độc
lập sáng tạo của HS trong học tập.
Tuy nhiên với sự hiểu biết có hạn và sự mới mẻ của phương pháp Bàn tay nặn bột
trong việc dạy học môn Khoa học, nên nội dung đưa ra trong hội thảo lần này chắc
không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, thiếu cụ thể. Tập thể tổ 4 rất mong sự góp ý
của lãnh đạo nhà trường và quý thầy cô giáo để dự thảo chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tập thể tổ 4 xin ghi nhận những đóng góp quý báu và xin chân thành cảm ơn!
Mỹ Lộc, ngày 28 tháng 1 năm 2013
Soạn thảo
Tập thể tổ 4
18
Ý KIẾN PHÊ DUYỆT CỦA NHÀ TRƯỜNG








Mỹ Lộc, ngày …. tháng … năm 2013
HIỆU TRƯỞNG
19

×