Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

Giám sát hệ thống tài chính chi tiêu và mô hình định lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.45 MB, 202 trang )

GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH:CHỈ TIÊU VÀ MƠ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG

GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH:
CHỈ TIÊU VÀ MƠ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC


GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH:
CHỈ TIÊU VÀ MƠ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG

1


GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH: CHỈ TIÊU VÀ MƠ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG
Báo cáo nghiên cứu RS - 03
Bản quyền © 2013 thuộc về Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.
Mọi sự sao chép và lưu hành không được sự đồng ý của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
và UNDP là vi phạm bản quyền.

2


GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH:
CHỈ TIÊU VÀ MƠ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG

3


4



LỜI GIỚI THIỆU

Trong vài thập niên gần đây, thế giới đã trải qua nhiều cuộc
khủng hoảng tài chính với phạm vi ngày càng lớn, mức độ tác động
và tần suất ngày càng gia tăng. Một trong những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến các bất ổn đó là hoạt động giám sát tài chính cịn yếu
kém, khơng theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các định chế tài
chính và các cơng cụ tài chính.
Trong bối cảnh đó, thị trường tài chính Việt Nam sau hơn hai
thập kỷ cải cách tuy đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn
tại nhiều rủi ro không thể xem thường trong khi cơng tác giám sát vĩ
mơ thị trường tài chính hiện cịn khơng ít bất cập. Trên thực tế, việc
giám sát chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, các công cụ phục vụ cho
giám sát an tồn vĩ mơ thị trường tài chính chưa hồn thiện, nhất là
giám sát dựa trên rủi ro. Giám sát rủi ro chéo với các thị trường tài
sản như bất động sản, chứng khốn cịn lỏng lẻo do thiếu sự phối
hợp, liên thông trong giám sát tồn bộ thị trường tài chính giữa các
cơ quan giám sát chuyên ngành. Do đó, việc củng cố và hồn thiện
hệ thống giám sát tài chính hợp nhất ở nước ta là một yêu cầu cấp
thiết, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là cần xây dựng một bộ chỉ tiêu
phục vụ cho việc giám sát hợp nhất thị trường tài chính dựa trên các
tiêu chí giám sát tài chính hiện đại đang được nhiều nước trên thế
giới áp dụng.

5


Đây là nghiên cứu được triển khai trong khuôn khổ Dự án “Hỗ
trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách

kinh tế vĩ mơ” của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội do Chương trình
Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) tài trợ, do nhóm tác
giả của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thực hiện. Mọi
nhận định, phân tích, đánh giá trong báo cáo này thể hiện quan điểm
độc lập của nhóm tác giả và khơng phản ánh quan điểm của Ủy ban
Kinh tế cũng như của Ban Quản lý Dự án.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
TS. Nguyễn Văn Giàu
Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

6


Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ nâng cao
năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mơ” do
Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì, với sự tài trợ của Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP).

Trưởng Ban chỉ đạo Dự án:
Nguyễn Văn Giàu
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Giám đốc Dự án:
Nguyễn Văn Phúc
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Phó Giám đốc Dự án:
Nguyễn Minh Sơn
Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Văn phịng Quốc hội
Quản đốc Dự án:
Nguyễn Trí Dũng

Nhóm tác giả:
Võ Trí Thành (Đồng chủ biên)
Lê Xuân Sang (Đồng chủ biên)
Đinh Hiền Minh
Nguyễn Anh Dương
Đinh Trọng Thắng
Các tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn đối với các ông Nguyễn Văn Giàu,
Nguyễn Văn Phúc, Hà Huy Tuấn, Nguyễn Minh Sơn, Lê Xn Nghĩa,
Nguyễn Trí Dũng, Tơ Trung Thành, Rodney Schmidt, Vũ Đình Ánh, Bùi
Huy Thọ, Nguyễn Tiên Phong và các bà Lê Thị Ngọc Liên, Nguyễn Thị
Minh Huệ và các đồng nghiệp Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung
ương vì những ý kiến đóng góp và sự ủng hộ về chuyên môn của họ.

7


8


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 11
LỜI NÓI ĐẦU 13

PHẦN 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây
dựng hệ thống các chỉ tiêu giám sát tài chính và
mơ hình định lượng
tác nhân gây bất ổn và khủng hoảng tài chính 19

Rủi ro cố hữu của thị trường tài chính


19

Rủi ro thường gặp trong q trình hoạt động của các định chế tài
chính 19
Nguyên nhân gây nên các khủng hoảng tài chính

20

Bất cập, rủi ro có thể phát sinh từ bản thân mơ hình giám sát tài
chính 27
Rủi ro từ sự phát triển mạnh mẽ các tập đồn tài chính

30

Cách tiếp cận và khn khổ phân tích hệ thống các chỉ tiêu giám sát tài
chính quốc gia VÀ MƠ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG 34

Giám sát an tồn tài chính vĩ mơ và an tồn vi mơ

37

Mơ hình định lượng phục vụ giám sát thị trường tài chính

77

PHẦN 2. Kinh nghiệm quốc tế trong áp dụng các
chỉ tiêu giám sát tài chính mơ hình định lượng
và kiến nghị chính sách cho Việt Nam
Thông lệ về các ngưỡng, chuẩn mực tham chiếu của các chỉ tiêu giám sát trên
thế giới 123


Nguyên tắc, điều kiện áp dụng

123

9


Một số ngưỡng, chuẩn mực tham chiếu trên thế giới

124

Tính hữu dụng của các chỉ tiêu giám sát mơ hình định lượng trên thế giới 135
Vấn đề sử dụng và xây dựng các chỉ tiêu giám sát an toàn vĩ mơ và mơ
hình định lượng 136
Một số kiến nghị chính sách cho Việt Nam 145

Tóm lược hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam

145

Cơng tác thanh tra, giám sát thị trường tài chính

148

Một số kiến nghị áp dụng các chỉ tiêu giám sát tài chính mơ hình định
lượng ở Việt Nam 163
Tài liệu tham khảo 179
Phụ lục 191


10


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐS
BIS
CCTT
CCVL
CtyCK
FSAP
GDP
IAIS
IASB
IMF
IOSCO
NHTW
ST
TCTK
TĐTC
TTCK
TTTC
UBCKNN
UBGSTCQG
USD
WB

Bất động sản
Ngân hàng Thanh tốn Quốc tế
Cán cân thanh tốn
Cán cân vãng lai

Cơng ty chứng khốn
Chương trình đánh giá khu vực tài chính
Tổng sản phẩm trong nước
Hiệp hội Quốc tế của các cơ quan giám sát bảo hiểm
Hội đồng Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Tổ chức Quốc tế các Ủy ban chứng khốn
Ngân hàng Trung ương
Mơ hình kiểm tra sức chịu đựng các cú sốc tài chính - tiền tệ (Stress Test)
Tổng cục Thống kê
Tập đồn tài chính
Thị trường chứng khốn
Thị trường tài chính
Ủy ban Chứng khốn Nhà nước
Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
Đơ la Mỹ
Ngân hàng Thế giới

11


12


LỜI NÓI ĐẦU

Trong hai thập niên lại đây, nhiều nước trên thế giới đã phải
trải qua nhiều bất ổn tài chính và các cuộc khủng hoảng tài chính,
với phạm vi, mức độ tác động ngày càng lớn và tần suất ngày càng
tăng. Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu nổ ra từ cuối năm 2007

ở Hoa Kỳ và cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu đến nay vẫn
chưa chấm dứt đã để lại nhiều hậu quả rất nghiêm trọng. Một nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến các bất ổn và khủng hoảng tài chính chính là
sự giám sát tài chính yếu kém, thường khơng theo kịp sự phát triển
nhanh chóng, đa dạng của các định chế tài chính và các cơng cụ tài
chính. Các cuộc khủng hoảng cũng cho thấy, các chuẩn mực, thơng
lệ tốt về giám sát an tồn vĩ mô1, giám sát dựa trên rủi ro2 đã bị coi
nhẹ; đặc biệt, các bài học đắt giá về việc qn lãng các chuẩn mực
giám sát an tồn vi mơ, trong đó có giám sát chất lượng tín dụng (nợ
xấu) đến nay vẫn cịn ngun giá trị.
Việt Nam đã có hơn hai thập niên cải cách hệ thống tài chính và
đã đạt được một số thành tựu ban đầu. Rõ nét nhất chính là sự phát
triển về lượng (theo chiều rộng) tương đối nhanh của hệ thống ngân
hàng thương mại, giúp khu vực này đóng vai trị trung gian tài chính
nổi trội trong huy động và phân bổ các nguồn vốn trong nền kinh
tế nếu so sánh với nhiều nước đang phát triển và chuyển đổi khác.
Tuy vậy, xét tổng thể, hệ thống tài chính Việt Nam vẫn cịn kém phát
1Thuật

ngữ tiếng Anh: Macro-prudential supervision and Micro-prudential supervision (còn được dịch là
giám sát thận trọng vĩ mô và vi mô).
2Thuật ngữ tiếng Anh: Risk-based supervision.

13


triển, chứa đựng nhiều rủi ro, thể hiện trên nhiều phương diện cả
trong lĩnh vực giám sát tài chính.
Trước hết, việc thực hiện giám sát tài chính vẫn chủ yếu thiên
về giám sát tuân thủ, thiếu khuyết các công cụ hữu hiệu phục vụ cho

giám sát an tồn vĩ mơ, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các
mơ hình phân tích định lượng, cảnh báo, kiểm định rủi ro (như mơ
hình cảnh báo sớm (EWS)3, Mơ hình kiểm tra sức chịu đựng các cú
sốc tài chính tiền tệ của các định chế tài chính (ST)4 và Mơ hình xác
định giá trị rủi ro bị tổn thất (VaR)5) cho cả hệ thống tài chính và cho
từng định chế tài chính cịn ít được phát triển và ứng dụng.
Hơn nữa, giám sát các rủi ro chéo còn yếu kém do thiếu sự phối
hợp, liên thơng trong giám sát tồn bộ thị trường tài chính (TTTC)
xuất phát từ việc các cơ quan giám sát hoạt động một cách độc lập
(hệ thống giám sát hiện nay ở Việt Nam là giám sát theo chuyên
ngành hay theo định chế). Đặc biệt, hiện vẫn chưa có một cơ quan
giám sát tài chính vĩ mơ có đủ thẩm quyền và năng lực bộ máy để
có thể cảnh báo, ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các loại rủi ro của hệ
thống tài chính. Bản thân vị thế pháp lý thấp của Ủy ban Giám sát
Tài chính Quốc gia (UBGSTCQG) cũng là một tác nhân gây nên sự
phối kết hợp thiếu chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, giám sát và
hiệu quả thấp trong giám sát hệ thống tài chính. Ngồi ra, các lỗ hổng
pháp lý trong giám sát hoạt động tài chính (vốn ngày càng gia tăng,
đan xen lẫn nhau của các định chế tài chính, nhất là của các tập đồn
tài chính) cũng có xu hướng tăng và chưa được xử lý hữu hiệu.
Thách thức lại càng lớn trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày
càng sâu rộng vào hệ thống kinh tế - tài chính khu vực và tồn cầu.
Giám sát tài chính ngày càng trở nên khó khăn do sự gia tăng các
cơng cụ tài chính (nhất là phái sinh), sự cải tiến không ngừng công
3Thuật

ngữ tiếng Anh: Early warning system (EWS).
ngữ tiếng Anh: Stress test (ST).
5Thuật ngữ tiếng Anh: Value at risks (VaR).
4Thuật


14


nghệ thơng tin - truyền thơng, và q trình tự do hóa kinh tế - tài
chính. Các bộ phận của TTTC ngày càng đan xen nhau; ranh giới
giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán (TTCK) truyền
thống trong một nước hay giữa thị trường vốn nội địa với thị trường
vốn quốc tế đang “mờ” dần; các định chế tài chính ngày càng trở nên
đa năng, đa quốc gia. Những điều này đòi hỏi các cơ quan giám sát
phải có tầm nhìn vĩ mơ, tồn cầu và sự phối hợp chặt chẽ trong việc
vừa quản lý một cách hiệu quả, vừa tạo điều kiện cho các bộ phận
TTTC phát triển.
Trong bối cảnh hệ thống giám sát tài chính cịn non yếu và
thách thức ngày càng gia tăng đối với một TTTC đang trong q
trình tự do hóa, việc củng cố, hồn thiện hệ thống giám sát tài chính
Việt Nam là rất cấp thiết. Trong đó, một nỗ lực rất quan trọng là xây
dựng một hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính cho Việt Nam dựa trên
các chủ thuyết giám sát hiện đại, kinh nghiệm quốc tế và điều kiện
cụ thể ở Việt Nam.
Mục tiêu của nghiên cứu này là trên cơ sở xem xét một cách hệ
thống cả lý luận và thực tiễn để bước đầu hình thành ở Việt Nam: (i)
bộ chỉ tiêu giám sát tài chính an tồn vĩ mơ và vi mơ; (ii) mơ hình định
lượng phục vụ giám sát an tồn tài chính vĩ mô và vi mô; (iii) các quy
chuẩn và chỉ tiêu giám sát tập đồn tài chính; và (iv) mơ hình giám sát
tồn hệ thống tài chính trong giai đoạn 2012-2020, tầm nhìn 2030.
Cách tiếp cận của nghiên cứu chủ yếu dựa trên các nguyên nhân
gây bất ổn và khủng hoảng tài chính (các biến số kinh tế, tài chính);
các chủ thuyết giám sát tài chính hiện đại; các thơng lệ, chuẩn mực
quốc tế tốt trong giám sát tài chính (nhất là ngân hàng), đặc biệt bộ

các chỉ tiêu giám sát tài chính được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
các tổ chức quốc tế khác khuyến dụng. Qua đó, nhóm nghiên cứu
bước đầu chọn lọc cho Việt Nam bộ chỉ tiêu giám sát tài chính, mơ
hình định lượng/mơ hình kiểm định cảnh báo rủi ro tài chính, các
15


quy chuẩn, chỉ tiêu giám sát tập đồn tài chính, và đề xuất việc hoàn
thiện tổ chức, chức năng của cơ quan giám sát tồn hệ thống tài chính
(được mặc định là có thẩm quyền cao như trong hệ thống giám sát
tài chính hợp nhất).
Các phân tích, đánh giá chỉ tiêu giám sát tài chính được nhìn
nhận cả dưới góc độ giám sát an tồn vi mơ và vĩ mơ, từ bản thân
rủi ro trong hoạt động của các tập đồn tài chính đa năng và từ các
mơ hình định lượng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính đồng bộ, đa phương
diện của giám sát tài chính, nhóm nghiên cứu cũng bổ sung thêm các
chỉ tiêu giám sát tài chính đối với thị trường bất động sản.
Nghiên cứu này bao gồm hai chương lớn. Chương 1 xem xét cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng các bộ chỉ tiêu giám sát tài
chính, mơ hình định lượng và các quy chuẩn để giám sát an tồn tài
chính vĩ mơ và vi mơ, giám sát các tập đồn tài chính và hoàn thiện
tổ chức của cơ quan giám sát tài chính hợp nhất. Chương 2 cung
cấp kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng các bộ chỉ tiêu giám sát tài
chính, mơ hình định lượng và các quy chuẩn để giám sát an tồn tài
chính vĩ mơ và vi mơ, giám sát các định chế tài chính, tập đồn tài
chính. Đặc biệt, chương 2 còn đưa ra các ngưỡng, chuẩn mực tham
chiếu, thông lệ quốc tế để phục vụ cho công tác giám sát, cảnh báo
rủi ro. Bên cạnh đó, những vấn đề trong xây dựng, áp dụng các chỉ
tiêu giám sát trên thế giới cũng được phân tích. Dựa trên những nền
tảng này và thực tiễn giám sát ở Việt Nam trước năm 2010, nhóm

nghiên cứu đưa ra các đề xuất ban đầu về bộ chỉ tiêu giám sát tài
chính, các mơ hình định lượng, quy chế giám sát tập đồn tài chính,
và mơ hình giám sát tồn hệ thống tài chính của Việt Nam.


16


PHẦN 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO
VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁC
CHỈ TIÊU GIÁM SÁT TÀI CHÍNH
VÀ MƠ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG
Giám sát tài chính được hiểu là việc giám sát của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đối với hoạt động của các định chế tài
chính. Mục tiêu giám sát tài chính là phát hiện, ngăn ngừa và xử lý
việc vi phạm các quy định hiện hành đối với khu vực tài chính và
cuối cùng là duy trì ổn định trên TTTC6.
Các chỉ tiêu giám sát tài chính được hiểu là bộ các chỉ tiêu kinh
tế - tài chính phản ánh mức độ ổn định của TTTC cũng như các các
nhân tố có liên quan và thể hiện sự ổn định kinh tế - tài chính (kể
cả cảnh báo bất ổn, khủng hoảng tài chính) với các mục tiêu định
lượng (ngưỡng cảnh báo, tham chiếu) cụ thể. Chính vì vậy, theo cách
tiếp cận sẽ được nêu dưới đây, một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (như
tăng trưởng GDP, thâm hụt cán cân vãng lai) và một số chỉ số dẫn
báo (leading indicators) với các ngưỡng cụ thể báo trước tình hình
bất ổn kinh tế vĩ mơ (bất cân đối vĩ mơ) cũng có thể được coi là chỉ
tiêu giám sát tài chính. Trong trường hợp khơng có ngụ ý rõ ràng về
ngưỡng tham chiếu hay tiêu chí định lượng xác định, nghiên cứu này

sử dụng thuật ngữ “chỉ số”. Lưu ý là trong một số trường hợp, hai
thuật ngữ “chỉ tiêu” và “chỉ số” có thể được hiểu như nhau.
6Từ

điển đầu tư (URL: />
17


Việc xây dựng các chỉ tiêu giám sát tài chính có ý nghĩa quan
trọng trong điều hành, giám sát hệ thống tài chính, nhất là trong việc
phát hiện những yếu tố dễ bị tổn thương bên trong hệ thống tài chính
- điều đến lượt có thể gây bất ổn cho hệ thống tài chính. Bên cạnh
đó, các chỉ tiêu cịn giúp phát hiện các nhân tố bất ổn bên ngoài hệ
thống tài chính. Đặc biệt, các mơ hình định lượng, với đầu vào hầu
hết là các chỉ tiêu giám sát tài chính, giúp có thể cảnh báo sớm được
các bất ổn, rủi ro tài chính trong tương lai. Quan trọng hơn, mơ hình
định lượng cịn cịn giúp dự báo điểm uốn (ngoặt) của khả năng dễ bị
tổn thương của hệ thống tài chính (trong một số trường hợp là điểm
“phát nổ” khủng hoảng). Như vậy, các chỉ tiêu giám sát tài chính
giúp các nhà quản lý phát hiện các nhân tố gây bất ổn, khủng hoảng
tài chính, qua đó, cảnh báo và có các biện pháp ngăn ngừa, chống đỡ
hữu hiệu và giảm nhẹ các thiệt hại có thể do chúng gây ra.
Trong nghiên cứu này, các nội dung giám sát và cơ sở để xây
dựng các chỉ tiêu giám sát tài chính chủ yếu dựa trên những khía
cạnh yếu kém, dễ bị tổn thương của hệ thống tài chính - những tác
nhân (“tội đồ”) trực tiếp và gián tiếp gây bất ổn và khủng hoảng tài
chính - cụ thể là: (i) các rủi ro cố hữu của hệ thống tài chính; (ii) một
số rủi ro thường gặp trong hoạt động của các định chế tài chính; (iii)
các nguyên nhân vĩ mô và vi mô gây nên các bất ổn và khủng hoảng
tài chính (bao gồm khủng hoảng ngân hàng, khủng hoảng nợ, khủng

hoảng tiền tệ); và (iv) các nhân tố rủi ro xuất phát từ bản chất mơ hình
giám sát tài chính cũng như từ hoạt động của tập đồn tài chính.
Dưới đây lần lượt xem xét nội dung, cơ chế tác động theo các
khía cạnh này. Chi tiết về cơ chế tác động, nguyên nhân trực tiếp và
gián tiếp gây bất ổn tài chính, khủng hoảng tài chính sẽ được xem xét
một phần trong quá trình giới thiệu các chỉ tiêu giám sát và các mơ
hình định lượng riêng biệt.
18


tác nhân gây bất ổn và khủng hoảng tài chính
Rủi ro cố hữu của thị trường tài chính
Hệ thống tài chính (HTTC) của các nước có trình độ phát triển
khác nhau đều có những vấn đề cố hữu và rủi ro thường trực như
thông tin bất đối xứng, sự bất ổn định và rủi ro mang tính hệ thống.
Các rủi ro này ln thường trực trong hệ thống tài chính, có thể gây
nên bất ổn tài chính và thậm chí khủng hoảng tài chính khi một hay
một số yếu kém, rủi ro khơng được phát hiện, hoặc bị kích hoạt bởi
các yếu kém, nhân tố rủi ro khác nếu không được ngăn chặn, xử lý
kịp thời.
Một đặc tính cơ bản của TTTC so với với các thị trường khác là
sự bất ổn định mang tính hệ thống hay rủi ro hệ thống. Như đã đề cập,
các thị trường cấu thành của TTTC gắn bó chặt chẽ với nhau. Một tác
động từ bên trong lẫn bên ngồi có thể gây nên những phản ứng dây
chuyền trên toàn hệ thống TTTC. Rõ ràng TTTC càng phát triển ở
trình độ cao thì tính nhạy cảm mang tính hệ thống càng cao. Hơn nữa,
khủng hoảng tài chính thường kéo theo các cuộc khủng hoảng kinh tế,
thậm chí cả khủng hoảng chính trị - xã hội. Trong bối cảnh tự do hố
tài chính, tính bất ổn định mang tính hệ thống của TTTC có thể lan
truyền nhanh chóng ra khỏi biên giới của một quốc gia và có thể kéo

theo hàng loạt bất ổn, thậm chí khủng hoảng tài chính ở một số nước
khác trong khu vực và thế giới. Khủng hoảng tài chính tại các nước
châu Á năm 1997-1998, và đặc biệt là khủng hoảng tài chính ở Hoa
Kỳ trong hai năm gần đây cho thấy rõ đặc tính này của TTTC.
Rủi ro thường gặp trong quá trình hoạt động của các định chế tài chính
Hệ thống tài chính thường phải đối mặt với nhiều loại rủi ro và
mức độ “phơi nhiễm tài chính”7 là khác nhau với các loại rủi ro khác
nhau, phụ thuộc vào các đặc điểm của danh mục đầu tư của từng định
chế tài chính, nhất là ngân hàng, tầm quan trọng của từng ngân hàng
7Thuật

ngữ tiếng Anh: exposure.

19



×