Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

đề tài nghiên cứu triển khai giải pháp bảo mật hệ thống mạng với FIREWALL ASA và hệ thống IDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 69 trang )

i


HỌC VIỆN KỸ THUẬT MẬT MÃ
KHOA AN TOÀN THÔNG TIN
*****



THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài
NGHIÊN CỨU TRIỂN KHAI GIẢI PHÁP
BẢO MẬT HỆ THỐNG MẠNG VỚI FIREWALL
ASA VÀ HỆ THỐNG IDS



Giáo viên hướng dẫn : ThS Phạm Duy Trung
Sinh viên thực hiện : Trần Mạnh Hùng
Nguyễn Như Hoàng
Lớp : AT6A


HÀ NỘI, 2/2014
ii

MỤC LỤC
MỤC LỤC II
LỜI NÓI ĐẦU V
DANH MỤC VIẾT TẮT VI
DANH MỤC HÌNH ẢNH VÀ BẢNG BIỂU VII


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 9
1.1. Đánh giá tổng quan về bảo mật mạng máy tính 9
1.2. Các mối đe dọa 10
1.2.1. Mối đe dọa bên trong 11
1.2.2. Mối đe dọa từ bên ngoài 12
1.2.3. Mối đe dọa không có cấu trúc 12
1.2.4. Mối đe dọa có cấu trúc 13
1.3. Các lỗ hổng 13
1.3.1. Lỗ hổng bảo mật 13
1.3.2. Phân loại lỗ hổng bảo mật 13
1.3.2.1. Loại C – Ít nguy hiểm 14
1.3.2.2. Loại B – Nguy hiểm 15
1.3.2.3. Loại A – Rất nguy hiểm. 16
1.4. Một số tấn công phổ biến 17
1.5. Các giải pháp phát hiện và phòng chống tấn công mạng 20
1.5.1. Các biện pháp phát hiện hệ thống bị tấn công 20
1.5.2. Giải pháp phát hiện và phòng chống xâm nhập 21
CHƯƠNG 2. TƯỜNG LỬA CISCO ASA 24
2.1. Giới thiệu 24
2.2. Các chức năng cơ bản của tường lửa Cisco ASA 25
iii

2.2.1. Các chế độ làm việc của tương lửa Cisco ASA 25
2.2.2. Quản lý file 26
2.2.3. Mức độ bảo mật 26
2.3. Network Access Translation(NAT) 29
2.3.1. Khái niệm 29
2.3.2. Một số kỹ thuật NAT 29
2.3.3. NAT trên Cisco ASA 31
2.4. Access Control List(ACL) 32

2.5. VPN 35
2.5.1. Giới thiệu về VPN 35
2.5.2. Site – to – site VPN 36
2.5.3. Remote access VPN 36
2.5.4. AnyConnect VPN 37
2.6. Một số loại Cisco ASA 38
2.6.1. Cisco ASA 5510 38
2.6.2. Cisco ASA 5520 39
2.6.3. Cisco ASA 5540 40
2.6.4. Đặc điểm phần cứng của thiết bị bảo mật Cisco ASA 5510, 5520, 5540
40
2.6.5. Cisco ASA Security Services Module 42
CHƯƠNG 3. HỆ THỐNG PHÁT HIỆN VÀ PHÒNG CHỐNG XÂM NHẬP
IDS/IPS 44
3.1. Lịch sử phát triển IDS/IPS 44
3.2. Vai trò, chức năng IDS/IPS 45
3.3. Đặc điểm, kiến trúc hệ thống của IDS/IPS 46
iv

3.3.1. Cơ sở hạ tầng của hệ thống IDS/IPS 46
3.3.2. Kiến trúc hệ thống phát hiện xâm nhập 47
3.3.2.1. Cấu trúc 47
3.3.2.2. Kiến trúc của hệ thống IDS/IPS 48
3.4. Phân loại IDS/IPS 51
3.4.1. Host-based IDS/IPS 52
3.4.2. Network based IDS/IPS 54
3.4.3. Triển khai hệ thống IDS/IPS 55
3.4.4. Khả năng phát hiện và phòng chống của IDS/IPS 58
3.5. Hệ thống giám sát lưu lượng mang 59
3.6. Hệ thống báo động 60

3.7. SNMP và hệ thống giám sát mạng 61
CHƯƠNG 4. DEMO 63
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 68

v

LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội phát triển kéo theo sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Những chiếc
máy tính thông minh dần chiếm vai trò rất quan trọng trong cuộc sống ngày nay.
Bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần đến máy tính, một thiết bị xử lý và hơn thế nữa là
không thể thiếu. Cùng với sự ra đời và phát triển của máy tính và mạng máy tính
là vấn đề bảo mật thông tin, ngăn chặn sự xâm nhập và đánh cắp thông tin qua
mạng, thông tin cá nhân trực tiếp và gián tiếp. Phát hiện và ngăn chặn sự tấn công
của các Hacker nhằm đánh cắp dữ liệu và phá hoại tư liệu quan trọng là rất cần
thiết.
Thông qua đề án: “Nghiên cứu và triển khai giải pháp bảo mật hệ thống
mạng với firewall ASA và hệ thống IDS”. Chúng tôi giới thiệu tổng quan về xu
hướng quản trị và bảo mật mạng hiện nay, cùng với nội dung tổng quan về
Firewall ASA, IDS/IPS bằng các bước cấu hình và triển khai mô hình
mạng.
vi

DANH MỤC VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Tên đầy đủ
VPN
Virtual Private Network
TCP/IP
Internet Protocol Suite

IPSec
Internet Protocol Security
NAT
Network Address Translation
LAN
Local Area Network
WAN
Wide Area Network
IDS
Intrusion Detection System
IPS
Intrusion Prevention Systems
DoS
Denial of Service
NIDS
Network Intrusion Detection System
HIDS
Host Intrusion Detection System
ACL
Access Control List
NIC
Network Interface Card
ARP
Address Resolution Protocol
DMZ
Demilitarized Zone
PAT
Port Address Translation

vii


DANH MỤC HÌNH ẢNH VÀ BẢNG BIỂU

Hnh 2.1. Mô tả các mức bảo mật trong hệ thống mạng. 28
Hnh 2.2. Mô tả NAT tĩnh của một mạng Lan ra ngoài Internet. 30
Hnh 2.3. Bảng NAT động của một mạng LAN. 31
Hnh 2.4. Mô tả cơ chế PAT (NAT overload). 32
Hnh 2.5. Sơ đồ ACL điều khiển truy cập mạng. 33
Hnh 2.6. Sơ đồ mạng mô tả kết nối site to site IPSec VPN. 36
Hnh 2.7. Sơ đồ mạng mô tả kết nối Remote Access VPN. 37
Hnh 2.8. Sơ đồ mạng mô tả kết nối AnyConnect VPN. 37
Hnh 2.9. Các dòng sản phẩm Cisco ASA 5500. 38
Hnh 2.10. Mặt trước dòng sản phẩm Cisco ASA 5510, 5520, 5540. 41
Hnh 2.11. Mặt sau dòng sản phầm Cisco ASA 5510, 5520, 5540. 41
Hnh 2.12. Các cổng kết nối của dòng sản phầm Cisco ASA 5510, 5520,
5540. 42
Hnh 2.13. Cisco ASA Security Services Module. 43
Hnh 3.1. Hoạt động của hệ thống IDS/IPS. 46
Hnh 3.2. Cơ sở hạ tầng hệ thống IDS/IPS. 47
Hnh 3.3. Hệ thống mẫu phát hiện xâm nhập. 48
Hnh 3.4. Thành phần của kiến trúc IDS. 49
Hnh 3.5. Các tác nhân tự trị cho việc phát hiện xâm nhập. 51
Hnh 3.6. Phân loại IDS/IPS. 52
Hnh 3.7. Mô hnh vị trí của HIDS/IPS trong hệ thống mạng. 54
Hnh 3.8. Mô hnh vị trí NIDS/IPS trong một hệ thống mạng. 55
Hnh 3.9. Mô hnh triển khai theo kiểu thẳng hàng. 56
Hnh 3.10. Mô hnh triển khai kiểu thụ động. 57
Hnh 3.11. Thiết bị dùng trong hệ thống báo động. 61
Hnh 4.1. Tạo 3 Card Loopback 63
Hnh 4.2. Cấu hình cho Card Loopback 1 63

Hnh 4.3. Cài Fiddler Web 64
viii

Hnh 4.4. Cài Named Pipe TCP Proxy và trỏ đường dẫn tới Serial Port của
ASA 64
Hnh 4.5. Chạy Tftpd, chọn địa chỉ của cổng Loopback, trỏ Current
Directory vào ổ C: 65
Hnh 4.6. Sử dụng SecureCRT để cấu hình cho Firewall ASA 65
Hnh 4.7. Truy nhập vào https://1.1.1.1/ để tiến hành cài đặt ASDM 66
Hnh 4.8. Giao diện ASDM sau khi được cài đặt 66
9

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Đánh giá tổng quan về bảo mật mạng máy tính
Bảo mật mạng máy tính hiện nay được đánh giá là một trong những vấn đề
quan trọng bậc nhất của tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam, theo những
thống kê chưa đầy đủ của Tổng cục thống kê thì tính đến tháng 03/2012 số thuê
bao sử dụng Internet vào khoảng 4,2 triệu thuê bao tăng 17,5% và tổng số người
sử dụng Internet cũng tăng 15,3% tức vào khoảng 32,1 triệu người so với cùng
thời điểm năm 2011. Số liệu trên cho thấy tình hình phát triển công nghệ thông tin
tại Việt Nam trong những năm trở lại đây có tốc độ rất lớn và dự kiến sẽ có chiều
hướng tăng do sự phát triển của thiết bị thông minh và các thiết bị khác. Một số
doanh nghiệp Việt Nam chưa có kế hoạch hoặc có kế hoạch đầu tư nhỏ vào việc
bảo mật cho hệ thống mạng trong khi các doanh nghiệp bắt đầu phát triển các ứng
dụng công nghệ mạng để quảng cáo hoặc cung cấp thông tin của doanh nghiệp
mình trong thế giới số.
Theo báo cáo về an toàn thông tin được công bố trong ngày “An toàn thông
tin năm 2011” về vấn đền an toàn thông tin trong các tổ chức doanh nghiệp Việt
Nam năm 2011, có đến:
- 52% số tổ chức vẫn không hoặc chưa có quy trình thao tác chuẩn để

ứng phó với những cuộc tấn công máy tính
- Tỷ lệ sử dụng những công nghệ chuyên sâu hoặc hẹp hơn như mã
hoá, hệ thống phát hiện xâm nhập, chứng chỉ số, chữ ký số…chỉ chiếm 20% .
- Đặc biệt tỷ lệ sử dụng những giải pháp cấp cao trong bảo mật an ninh
mạng như quản lý định danh, hệ thống quản lý chống thất thoát dữ liệu, sinh trắc
học chỉ chiếm 5% trong tất cả các giải pháp chống tấn công của tội phạm công
nghệ cao.[1]
Nhận định về an toàn thông tin trong những năm qua, các chuyên gia bảo
mật hàng đầu tại Việt Nam đều có chung một nhận định có nhiều biến động lớn
và mức độ tấn công là ngày càng rất nguy hiểm và gây nhiều thiệt hại cho các
10

doanh nghiệp trong nước[2]. Để giải quyết vấn đề này các công ty bảo mật hàng
đầu trên thế giới và của Việt Nam vẫn tiếp tục nghiên cứu phát triển những gói
giải pháp bảo mật bao gồm thiết bị phần cứng và các chương trình phần mềm phục
vụ cho việc an toàn thông tin và bảo mật hệ thống mạng, các nhà cung cấp dịch
vụ giải pháp bảo mật như Juniper (với các sản phẩm phần cứng tường lửa như
NetScreen), Cisco với các thiết bị tường lửa như ASA, PIX hoặc như các thiết bị
tường lửa tiên tiến hơn như Checkpoint, IPS của nhà cung cấp IBM là những thiết
bị phần cứng liên quan đến bảo mật hệ thống mạng và an toàn thông tin liên tục
được đưa ra trên thị trường, bên cạnh những thiết bị phần cứng còn phải kể đến
những ứng dụng phần mềm được các nhà cung cấp giải pháp an toàn thông tin đưa
ra nhằm phục vụ cho việc bảo mật hệ thống thông tin. Có thể kể đến một vài tên
tuổi nổi tiếng như: Symantec (với giải pháp phần mềm Anti Virut, Spam,
Malware), Microsoft, Kaspersky, TrenPC, McAfee, SolarWin với những gói phần
mềm khá hoàn hảo (theo đánh giá của các nhà cung cấp) trong việc bảo mật và an
toàn thông tin.
Những sản phẩm thương mại của các nhà cung cấp giải pháp an toàn thông
tin được tung ra trên thị trường trong những năm gần đây được đánh giá cao về
mức độ bảo mật và hiệu năng hoạt động của nó, tuy nhiên vấn đề đầu tư các giải

pháp bảo mật an toàn thông tin cho doanh nghiệp mang tính đầy đủ đem đến cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ một chi phí đầu tư đáng kể so với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Theo các nghiên cứu hiện nay có tại Việt Nam cũng như trên thế giới về
xây dựng một hệ thống IDS phát hiện và phòng chống xâm nhập mạng trái phép
dựa trên mã nguồn mở cũng phát triển mạnh, tuy nhiên tại Việt Nam các nghiên
cứu này có mức độ triển khai vào thực tế là chưa cao và còn là những bài toán lớn
cho giải pháp bảo mật thông tin dựa trên phần mềm mã nguồn mở.
1.2. Các mối đe dọa
Như đã nêu trên, việc bảo mật đối với các doanh nghiệp là một vấn đề lớn
hiện nay, việc một tội phạm tin học xâm nhập đã tạo ra rất nhiều cách khác nhau
để có thể thành công trong việc làm hư hỏng hoàn toàn một hệ thống mạng hoặc
11

một dịch vụ ứng dụng Web của một doanh nghiệp. Có nhiều phương pháp đã được
triển khai nhằm giảm thiểu khả năng tấn công như phát triển hạ tầng mạng và
truyền thông trên internet, dùng tường lửa, mã hóa, mạng riêng ảo… Sự phát hiện
xâm nhập cũng là một kỹ thuật gần giống với việc sử dụng tường lửa hay đại loại
như thế. Mục đích của một hệ thống phát hiện xâm nhập là thông báo cho nhà
quản trị khi có một hành vi xâm nhập hoặc một sự tấn công được phát hiện. Có
thể có nhiều cách khác nhau để tấn công và hệ thống phát hiện xâm nhập cũng có
nhiều cách để phát hiện. Để làm rõ vấn đề phát hiện xâm nhập trước tiên cần hiểu
rõ một số các mối đe dọa trong bảo mật một hệ thống mạng hoạt động ra sao.
Thông thường có 4 mối đe dọa cho việc bảo mật hệ thống được mô tả như sau:
1.2.1. Mối đe dọa bên trong
Thuật ngữ mối đe dọa bên trong được sử dụng để mô ta một kiểu tấn công
được thực hiện từ một người hoặc một tổ chức có quyền truy cập vào hệ thống
mạng. Các cách tấn công từ bên trong được thực hiện từ một khu vực được coi là
vùng tin cậy trong hệ thống mạng. Mối đe dọa này có thể khó phòng chống hơn vì
các nhân viên hoặc những tổ chức có quyền hạn trong hệ thống mạng sẽ truy cập

vào mạng và dữ liệu bí mật của doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp hiện
nay đều có tường lửa ở các đường biên mạng và họ tin tưởng hoàn toàn vào các
ACL (Access Control List) và quyền truy cập vào server để qui định cho sự bảo
mật bên trong. Quyền truy cập server thường bảo vệ tài nguyên trên server nhưng
không cung cấp bất kì sự bảo vệ nào cho mạng. Mối đe dọa ở bên trong thường
được thực hiện bởi các nhân viên, tổ chức bất bình, muốn “quay mặt” lại với doanh
nghiệp. Nhiều phương pháp bảo mật liên quan đến vành đai của hệ thống mạng,
bảo vệ mạng bên trong khỏi các kết nối bên ngoài, như là truy cập Internet. Khi
vành đai của hệ thống mạng được bảo mật, các phần tin cậy bên trong có khuynh
hướng bị bớt nghiêm ngặt hơn. Khi một kẻ xâm nhập vượt qua vỏ bọc bảo mật
cứng cáp đó của hệ thống mạng, mọi chuyện còn lại thường là rất đơn giản. Các
mạng không dây giới thiệu một lĩnh vực mới về quản trị bảo mật. Không giống
như mạng có dây, các mạng không dây tạo ra một khu vực bao phủ có thể bị can
thiệp và sử dụng bởi bất kì ai có phần mềm đúng và một adapter của mạng không
12

dây. Không chỉ tất cả các dữ liệu mạng có thể bị xem và ghi lại mà các sự tấn công
vào mạng có thể được thực hiện từ bên trong, nơi mà cơ sở hạ tầng dễ bị nguy
hiểm hơn nhiều. Vì vậy, các phương pháp mã hóa mạnh luôn được sử dụng trong
mạng không dây.
1.2.2. Mối đe dọa từ bên ngoài
Mối đe dọa ở bên ngoài là từ các tổ chức, chính phủ, hoặc cá nhân cố gắng
truy cập từ bên ngoài mạng của doanh nghiệp và bao gồm tất cả những người
không có quyền truy cập vào mạng bên trong. Thông thường, các kẻ tấn công từ
bên ngoài cố gắng từ các server quay số hoặc các kết nối Internet. Mối đe dọa ở
bên ngoài là những gì mà các doanh nghiệp thường phải bỏ nhiều hầu hết thời gian
và tiền bạc để ngăn ngừa.
1.2.3. Mối đe dọa không có cấu trúc
Mối đe dọa không có cấu trúc là mối đe dọa phổ biến nhất đối với hệ thống
của một doanh nghiệp. Các hacker mới vào nghề, thường được gọi là script

kiddies, sử dụng các phần mềm để thu thập thông tin, truy cập hoặc thực hiện một
kiểu tấn công DoS vào một hệ thống của một doanh nghiệp. Script kiddies tin
tưởng vào các phần mềm và kinh nghiệm của các hacker đi trước. Khi script
kiddies không có nhiều kiến thức và kinh nghiệm, họ có thể tiến hành phá hoại lên
các doanh nghiệp không được chuẩn bị. Trong khi đây chỉ là trò chơi đối với các
kiddie, các doanh nghiệp thường mất hàng triệu đô la cũng như là sự tin tưởng của
cộng đồng. Nếu một web server của một doanh nghiệp bị tấn công, cộng đồng cho
rằng hacker đã phá vỡ được sự bảo mật của doanh nghiệp đó, trong khi thật ra các
hacker chỉ tấn công được một chỗ yếu của server. Các server Web, FTP, SMTP
và một vài server khác chứa các dịch vụ có rất nhiều lổ hổng để có thể bị tấn công,
trong khi các server quan trọng được đặt sau rất nhiều lớp bảo mật. Cộng đồng
thường không hiểu rằng phá vỡ một trang web của một doanh nghiệp thì dễ hơn
rất nhiều so với việc phá vỡ cơ sở dữ liệu thẻ tín dụng của doanh nghiệp đó. Cộng
đồng phải tin tưởng rằng một doanh nghiệp rất giỏi trong việc bảo mật các thông
tin riêng tư của nó.
13

1.2.4. Mối đe dọa có cấu trúc
Mối đe dọa có cấu trúc là khó ngăn ngừa và phòng chống nhất vì nó xuất
phát từ các tổ chức hoặc cá nhân sử dụng một vài loại phương pháp luận thực hiện
tấn công. Các hacker với kiến thức, kinh nghiệm cao và thiết bị sẽ tạo ra mối đe
dọa này. Các hacker này biết các gói tin được tạo thành như thế nào và có thể phát
triển mã để khai thác các lỗ hổng trong cấu trúc của giao thức. Họ cũng biết được
các biện pháp được sử dụng để ngăn ngừa truy cập trái phép, cũng như các hệ
thống IDS và cách chúng phát hiện ra các hành vi xâm nhập. Họ biết các phương
pháp để tránh những cách bảo vệ này. Trong một vài trường hợp, một cách tấn
công có cấu trúc được thực hiện với sự trợ giúp từ một vài người ở bên trong. Đây
gọi là mối đe dọa có cấu trúc ở bên trong. Cấu trúc hoặc không cấu trúc có thể là
mối đe dọa bên ngoài cũng như bên trong.
1.3. Các lỗ hổng

1.3.1. Lỗ hổng bảo mật
Các lỗ hổng bảo mật trên một hệ thống là các điểm yếu có thể tạo nên sự
ngưng trệ của dịch vụ, thêm quyền đối với người sử dụng hoặc cho phép truy cập
bất hợp pháp vào hệ thống. Các lỗ hổng bảo mật có thể nằm ngay các dịch vụ cung
cấp như Web, Email, FTP, … Ngoài ra các chương trình ứng dụng hay dùng cũng
chứa các lỗ hổng bảo mật như Word, các hệ cơ sở dữ liệu như SQL…
1.3.2. Phân loại lỗ hổng bảo mật
Thực hiện phân loại và hiểu được những phương thức bảo mật thực sự quan
trọng trong việc xây dựng một hệ thống lọc và phân loại gói tin của tường lửa với
mục đích phát hiện được những lỗ hổng trong việc bảo mật. Hiện nay việc phân
loại lỗ hổng bảo mật cơ bản được phân thành 03 loại.
Các lỗ hổng bảo mật trên một hệ thống là các điểm yếu có thể tạo ra sự
ngưng trệ của dịch vụ, thêm quyền đối với người sử dụng hoặc cho phép các truy
nhập không hợp pháp vào hệ thống. Các lỗ hổng cũng có thể nằm ngay các dịch
vụ cung cấp như sendmail, Web, Ftp … Ngoài ra các lỗ hổng còn tồn tại ngay
chính tại hệ điều hành như trong Windows NT, Windows 95, UNIX; hoặc trong
14

các ứng dụng mà người sử dụng thương xuyên sử dụng như Word processing, Các
hệ databases…[4]
1.3.2.1. Loại C – Ít nguy hiểm
Các lỗ hổng bảo mật thuộc loại này thường cho phép thực hiện việc tấn công
DoS. DoS là một hình thức tấn công sử dụng các giao thức tầng ứng dụng trong
bộ giao thức TCP/IP để làm hệ thống ngưng trệ, tràn đệm dẫn đến tình trạng từ
chối tất cả các yêu cầu của người sử dụng hợp pháp truy cập hay sử dụng hệ thống.
Một số lượng lớn các gói tin được gửi tới server trong khoảng thời gian liên tục
làm cho hệ thống trở nên quá tải, kết quả là server đáp ứng chậm hoặc không thể
đáp ứng các yêu cầu từ client gửi tới. Các dịch vụ có chứa đựng lỗ hổng cho phép
thực hiện các cuộc tấn công DoS có thể được nâng cấp hoặc sửa chữa bằng các
phiên bản mới hơn của các nhà cung cấp dịch vụ. Hiện nay, chưa có một giải pháp

toàn diện nào để khắc phục các lỗ hổng loại này vì bản thân việc thiết kế giao thức
ở tầng Internet (IP) nói riêng và bộ giao thức TCP/IP đã chứa đựng những nguy
cơ tiềm tàng của các lỗ hổng này. Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm của các lỗ hổng
loại này được xếp loại C; ít nguy hiểm vì chúng chỉ làm gián đoạn cung cấp dịch
vụ của hệ thống trong một thời gian mà không làm nguy hại đến dữ liệu và người
tấn công cũng không đạt được quyền truy nhập bất hợp pháp vào hệ thống.
Một lỗ hổng loại C khác cũng thường thấy đó là các điểm yếu của dịch vụ
cho phép thực hiện tấn công làm ngưng trệ hệ thống của người sử dụng cuối; Chủ
yếu của hình thức tấn công này là sử dụng dịch vụ Web. Với một hình thức tấn
công đơn giản như cùng một lúc gửi nhiều yêu cầu truy cập, điều này có thể làm
treo hệ thống. Đây cùng là một hình thức tấn công kiểu DoS. Người quản trị hệ
thống Website trong trường hợp này chỉ có thể khởi động lại hệ thống.[4]
Một lỗ hổng loại C khác cũng thường gặp đối với các hệ thống mail là không
xây dựng các cơ chế anti-relay (chống relay) cho phép thực hiện các hành động
spam mail. Như chúng ta đã biết, cơ chế hoạt động của dịch vụ thư điện tử là lưu
và chuyển tiếp; một số hệ thống mail không có các xác thực khi người dùng gửi
thư, dẫn đến tình trạng các đối tượng tấn công lợi dụng các máy chủ mail này để
thực hiện spam mail; Spam mail là hành động nhằm tê liệt dịch vụ mail của hệ
15

thống bằng cách gửi một số lượng lớn các messages tới một địa chỉ không xác
định, vì máy chủ mail luôn phải tốn năng lực đi tìm những địa chỉ không có thực
dẫn đến tình trạng ngưng trệ dịch vụ. Số lượng các messages có thể sinh ra từ các
chương trình làm bom thư rất phổ biến trên mạng Internet.
1.3.2.2. Loại B – Nguy hiểm
Các lỗ hổng loại này có mức độ nguy hiểm hơn lỗ hổng loại C, cho phép
người sử dụng nội bộ có thể chiếm được quyền cao hơn hoặc truy nhập không hợp
pháp. Những lỗ hổng loại này thường xuất hiện trong các dịch vụ trên hệ thống.
Người sử dụng local được hiểu là người đã có quyền truy nhập vào hệ thống với
một số quyền hạn nhất định.

Một dạng khác của lỗ hổng loại B xảy ra đối với các chương trình có mã
nguồn viết bằng ngôn ngữ lập trình C. Những chương trình viết bằng ngôn ngữ
lập trình C thường sử dụng một vùng đệm – là một vùng trong bộ nhớ sử dụng để
lưu dữ liệu trước khi xử lý. Những người lập trình thường sử dụng vùng đệm trong
bộ nhớ trước khi gán một khoảng không gian bộ nhớ cho từng khối dữ liệu. Ví dụ,
người sử dụng viết chương trình nhập trường tên người sử dụng; qui định trường
này dài 20 ký tự. Do đó họ sẽ khai báo: char first_name [20];
Với khai báo này, cho phép người sử dụng nhập vào tối đa 20 ký tự. Khi
nhập dữ liệu, trước tiên dữ liệu được lưu ở vùng đệm; nếu người sử dụng nhập vào
35 ký tự; sẽ xảy ra hiện tượng tràn vùng đệm và kết quả 15 ký tự dư thừa sẽ nằm
ở một vị trí không kiểm soát được trong bộ nhớ. Đối với những người tấn công,
có thể lợi dụng lỗ hổng này để nhập vào những ký tự đặc biệt, để thực thi một số
lệnh đặc biệt trên hệ thống. Thông thường, lỗ hổng này thường được lợi dụng bởi
những người sử dụng trên hệ thống để đạt được quyền root không hợp lệ. Việc
kiểm soát chặt chẽ cấu hình hệ thống và các chương trình sẽ hạn chế được các lỗ
hổng loại B.[4]
16

1.3.2.3. Loại A – Rất nguy hiểm.
Các lỗ hổng loại A có mức độ rất nguy hiểm; đe dọa tính toàn vẹn và bảo
mật của hệ thống. Các lỗ hổng loại này thường xuất hiện ở những hệ thống quản
trị yếu kém hoặc không kiểm soát được cấu hình mạng.
Một ví dụ thường thấy là trên nhiều hệ thống sử dụng Web Server là Apache,
Đối với Web Server này thường cấu hình thư mục mặc định để chạy các đoạn
scripts là cgi-bin; trong đó tồn tại một đoạn scripts được viết sẵn để thử hoạt động
của apache là test-cgi. Đối với các phiên bản cũ của Apache (trước version 1.1),
có dòng sau trong file test-cgi: echo QUERY_STRING = $QUERY_STRING
Biến môi trường QUERY_STRING do không được đặt trong có
dấu ” (quote) nên khi phía client thưc hiện một yêu cầu trong đó chuỗi ký
tự gửi đến gồm một số ký tự đặc biệt; ví dụ ký tự “*”, web server sẽ trả về nội

dung của toàn bộ thư mục hiện thời (là các thư mục chứa các scipts cgi). Người sử
dụng có thể nhìn thấy toàn bộ nội dung các file trong thư mục hiện thời trên hệ
thống server. Một ví dụ khác cũng xảy ra tương tự đối với các Web server chạy
trên hệ điều hành Novell; Các web server này có một scripts là convert.bas, chạy
scripts này cho phép đọc toàn bộ nội dung các files trên hệ thống.
Những lỗ hổng loại này hết sức nguy hiểm vì nó đã tồn tại sẵn có
trên phần mềm sử dụng; người quản trị nếu không hiểu sâu về dịch vụ và
phần mềm sử dụng sẽ có thể bỏ qua những điểm yếu này.
Đối với những hệ thống cũ, thường xuyên phải kiểm tra các thông báo của
các nhóm tin về bảo mật trên mạng để phát hiện những lỗ hổng loại này. Một loạt
các chương trình phiên bản cũ thường sử dụng có những lỗ hổng loại A như: FTP,
Gopher, Telnet, Sendmail, ARP, finger…[2]
Các loại bảo mật nêu trên có thể phân loại chung thành 03 mức độ cơ bản
của điểm yếu bảo mật như sau:
17

- Điểm yếu về kỹ thuật: bao gồm những kỹ thuật gồm có điểm yếu
trong các giao thức, hệ điều hành và các thiết bị phần cứng như Server, Router,
Switch
- Điểm yếu về cấu hình hệ thống: bao gồm lỗi do nhà quản trị tạo ra,
lỗi này do các thiếu sót trong việc cấu hình hệ thống như: không đảm bảo thông
tin mật tài khoản khách hàng, hệ thống tài khoản với mật khẩu dễ dàng đoán biết,
sử dụng các cấu hình mặc định trên thiết bị.
- Điểm yếu trong chính sách bảo mật: chính sách bảo mật mô tả việc
làm thế nào và ở đâu chính sách bảo mật được thực hiện. Đây là điều kiện quan
trọng giúp việc bảo mật có hiệu quả tốt nhất.
1.4. Một số tấn công phổ biến
Có rất nhiều dạng tấn công mạng đang được biết đến hiện nay, dựa vào hành
động tấn công của tội phạm mạng có thể phân làm 02 loại là chủ động và bị động.
- Tấn công chủ động (active attack): Kẻ tấn công thay đổi hoạt động

của hệ thống và hoạt động của mạng khi tấn công và làm ảnh hưởng đến tính toàn
vẹn, sẵn sàng và xác thực của dữ liệu.
- Tấn công bị động (passive attack): Kẻ tấn công cố gắng thu thập
thông tin từ hoạt động của hệ thống và hoạt động của mạng làm phá vỡ tính bí mật
của dữ liệu.
Dựa vào nguồn gốc của cuộc tấn công thì có thể phân loại tấn công thành 2
loại hình tấn công bao gồm: tấn công từ bên trong và tấn công từ bên ngoài, tấn
công trực tiếp.
- Tấn công bên trong bao gồm những hành vi mang tính chất xâm nhập
hệ thống nhằm mục đích phá hoại. Kẻ tấn công bên trong thường là những người
nằm trong một hệ thống mạng nội bộ, lấy thông tin nhiều hơn quyền cho phép.
- Tấn công bên ngoài là những tấn công xuất phát từ bên ngoài hệ thống
như Internet hay các kết nối truy cập từ xa. Tấn công bên ngoài có thể là những
dạng tất công trực tiếp, các dạng tấn công này thông thường là sử dụng trong giai
18

đoạn đầu để chiếm quyền truy cập. Phổ biến nhất vẫn là cách dò tìm tên người sử
dụng và mật khẩu. Tội phạm mạng có thể sử dụng những thông tin liên quan đến
chủ tài khoản như ngày tháng năm sinh, tên vợ (chồng) hoặc con cái hoặc số điện
thoại để dò tìm thông tin tài khoản và mật khẩu với mục đích chiếm quyền điều
khiển của một tài khoản, thông thường đối với những tài khoản có mật khẩu đơn
giản thì tội phạm mạng chỉ dò tìm mật khẩu qua thông tin chủ tài khoản, một cách
tiếp cận việc chiếm quyền truy nhập bằng cách tìm tài khoản và mật khẩu tài
khoảng khác là dùng chương trình để dò tìm mật khẩu. Phương pháp này trong
một số khả năng hữu dụng thì có thể thành công đến 30%. Một kiểu tấn công bên
ngoài khác được đề cập đến nữa chính là hình thức nghe trộm, việc nghe trộm
thông tin trên mạng có thể đưa lại những thông tin có ích như tên, mật khẩu của
người sử dụng, các thông tin mật chuyển qua mạng. Việc nghe trộm thường được
tiến hành ngay sau khi kẻ tấn công đã chiếm được quyền truy nhập hệ thống, thông
qua các chương trình cho phép đưa card giao tiếp mạng (Network Interface Card-

NIC) vào chế độ nhận toàn bộ các thông tin lưu truyền trên mạng. Những thông
tin này cũng có thể dễ dàng lấy được trên Internet.
- Một số các lỗi khác liên quan đến con người, hệ thống cũng là những
kiểu tấn công trực tiếp từ bên ngoài nhưng có mức độ phức tạp và khó khăn hơn,
nguy hiểm nhất là yếu tố con người bởi nó là một trong nhiều điểm yếu nhất trong
bất kỳ hệ thống bảo mật nào[3] (trích website quantrimang.com)
- Khi một mạng máy tính bị tấn công, nó sẽ bị chiếm một lượng lớn tài
nguyên trên máy chủ, mức độ chiếm lượng tài nguyên này tùy thuộc vào khả năng
huy động tấn công của tội phạm mạng, đến một giới hạn nhất định khả năng cung
cấp tài nguyên của máy chủ sẽ hết và như vậy việc từ chối các yêu cầu sử dụng
dịch vụ của người dùng hợp pháp bị từ chối. Việc phát động tấn công của tội phạm
mạng còn tùy thuộc vào số lượng các máy tính ma mà tội phạm mạng đó đang
kiểm soát, nếu khả năng kiểm soát lớn thì thời gian để tấn công và làm sập hoàn
toàn một hệ thống mạng sẽ nhanh và cấp độ tấn công sẽ tăng nhanh hơn, tội phạm
mạng có thể một lúc tấn công nhiều hệ thống mạng khác nhau tùy vào mức độ
kiểm soát chi phối các máy tính ma như thế nào.
19

Các kiểu tấn công có nhiều hình thức khác nhau, nhưng thông thường đều
thực hiện qua các bước theo hướng mô tả sau:
+ Khảo sát thu thập thông tin về nơi chuẩn bị tấn công bằng các công cụ để
tìm hiểu đầy đủ về hệ thống mạng.
+ Sau khi đã thu thập đủ thông tin, tội phạm mạng sẽ dò tìm những thông
tin về lỗ hổng của bảo mật hệ thống dựa trên những thông tin đã tìm được, phân
tích điểm yếu của hệ thống mạng, sử dụng các bộ công cụ để dò quét tìm lỗi trên
hệ thống mạng đó.
+ Khi đã có trong tay những điểm yếu của hệ thống mạng, tội phạm mạng
sẽ tiến hành xâm nhập hệ thống mạng bằng các công cụ như làm tràn bộ đệm hoặc
tấn công từ chối dịch vụ.
+ Ở một số cuộc tấn công, người xâm nhập sau khi đã xâm nhập thành công

và khai thác được hệ thống mạng rồi sẽ thực hiện việc duy trì xâm nhập với mục
đích khai thác và xâm nhập trong tương lai gần. Tội phạm mạng có thể sử dụng
những thủ thuật như mở cửa sau (backdoor) hoặc cài đặt một trojan để nhằm mục
đích duy trì sự xâm nhập của mình. Việc duy trì và làm chủ một hệ thống mạng
tạo cho tội phạm mạng có đủ những điều kiện để khai thác, phục vụ những nhu
cầu về thông tin. Ngoài ra, hệ thống mạng này khi bị chiếm quyền xâm nhập cũng
sẽ trở thành nạn nhân của một hệ thống botnet được sử dụng trong các cuộc tấn
công khác mà cụ thể là tấn công từ chối dịch vụ đến một hệ thống mạng khác.
+ Xóa dấu vết. Khi một kẻ tấn công đã xâm nhập thành công sẽ cố gắng duy
trì sự xâm nhập này. Bước tiếp theo là chúng phải làm sao xóa hết dấu vết để
không còn chứng cứ pháp lí xâm nhập. Kẻ tấn công phải xóa các tập tin log, xóa
các cảnh báo từ hệ thống phát hiện xâm nhập.
Ở các giai đoạn thu thập thông tin và dò tìm lỗ hổng trong bảo mật, kẻ tấn
công thường làm lưu lượng kết nối mạng thay đổi khác với lúc mạng bình thường
rất nhiều, đồng thời tài nguyên của hệ thống máy chủ sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
Những dấu hiệu này rất có ích cho người quản trị mạng có thể phân tích và đánh
giá tình hình hoạt động của hệ thống mạng. Hầu hết các cuộc tấn công đều tiến
20

hành tuần tự như các bước đã nêu trên. Làm sao để nhận biết hệ thống mạng đang
bị tấn công, xâm nhập ngay từ hai bước đầu tiên là hết sức quan trọng. Ở giai đoạn
xâm nhập, bước này không dễ dàng đối với kẻ tấn công. Do vậy, khi không thể
xâm nhập được vào hệ thống, để phá hoại có nhiều khả năng kẻ tấn công sẽ sử
dụng tấn công từ chối dịch vụ để ngăn cản không cho người dùng hợp lệ truy xuất
tài nguyên hệ thống.
1.5. Các giải pháp phát hiện và phòng chống tấn công mạng
1.5.1. Các biện pháp phát hiện hệ thống bị tấn công
Không có một hệ thống nào có thể đảm bảo an toàn tuyệt đối; bản thân mỗi
dịch vụ đều có những lỗ hổng bảo mật tiềm tàng. Đứng trên góc độ người quản trị
hệ thống, ngoài việc tìm hiểu phát hiện những lỗ hổng bảo mật còn luôn phải thực

hiện các biện pháp kiểm tra hệ thống xem có dấu hiệu tấn công hay không. Các
biện pháp đó là:
- Kiểm tra các dấu hiệu hệ thống bị tấn công: hệ thống thường bị treo
hoặc bị crash bằng những thông báo lỗi không rõ ràng, khó xác định nguyên nhân
hệ thống bị treo do thiếu thông tin liên quan. Trước tiên, xác định các nguyên nhân
về phần cứng hay không, nếu không phải phần cứng hãy nghĩ đến khả năng máy
bị tấn công
- Kiểm tra các tài khoản người dùng mới trên hệ thống: một số tài
khoản lạ, nhất là uid của tài khoản đó là zero
- Kiểm tra xuất hiện các tập tin lạ. Thường phát hiện thông qua cách
đặt tên các tập tin, mỗi người quản trị hệ thống nên có thói quen đặt tên tập tin
theo một mẫu nhất định để dễ dàng phát hiện tập tin lạ. Thực hiện các lệnh liệt kê
danh sách tập tin trong hệ thống để kiểm tra thuộc tính setuid và setgid đối với
những tập tin đáng chú ý (đặc biệt là các tập tin scripts).
- Kiểm tra thời gian thay đổi trên hệ thống, đặc biệt là các chương trình
login, sh hoặc các scripts khởi động trong /etc/init.d, /etc/rc.d …
21

- Kiểm tra hiệu năng của hệ thống. Sử dụng các tiện ích theo dõi tài
nguyên và các tiến trình đang hoạt động trên hệ thống như ps hoặc top …
- Kiểm tra hoạt động của các dịch vụ mà hệ thống cung cấp. Chúng ta
đã biết rằng một trong các mục đích tấn công là làm cho tê liệt hệ thống (Hình
thức tấn công DoS). Sử dụng các lệnh như ps, pstat, các tiện ích về mạng để phát
hiện nguyên nhân trên hệ thống.
- Kiểm tra truy nhập hệ thống bằng các account thông thường, đề
phòng trường hợp các account này bị truy nhập trái phép và thay đổi quyền hạn
mà người sử dụng hợp pháp không kiểm sóat được.
- Kiểm tra các file liên quan đến cấu hình mạng và dịch vụ như
/etc/inetd.conf; bỏ các dịch vụ không cần thiết; đối với những dịch vụ không cần
thiết chạy dưới quyền root thì không chạy bằng các quyền yếu hơn.

- Kiểm tra các phiên bản của sendmail, /bin/mail, ftp; tham gia các
nhóm tin về bảo mật để có thông tin về lỗ hổng của dịch vụ sử dụng
Các biện pháp này kết hợp với nhau tạo nên một chính sách về bảo mật đối
với hệ thống.
1.5.2. Giải pháp phát hiện và phòng chống xâm nhập
Phát hiện xâm nhập là một tập hợp các kỹ thuật và phương pháp dùng để dò
tìm những hoạt động đáng nghi ngờ trên mạng. Một hệ thống phát hiện xâm nhập
được định nghĩa là một tập hợp các công cụ, phương thức, và tài nguyên giúp
người quản trị xác định, đánh giá, và báo cáo hoạt động không được phép trên
mạng.
Phát hiện xâm nhập được xem là một tiến trình được quyết định khi một
người không xác thực đang cố gắng để xâm nhập hệ thống mạng trái phép. Hệ
thống phát hiện xâm nhập sẽ kiểm tra tất cả các gói tin đi qua hệ thống và quyết
định gói tin đó có vấn đề khả nghi hay không. Hệ thống phát hiện xâm nhập đuợc
trang bị hàng triệu tình huống để nhận dạng tấn công và đuợc cập nhật thường
22

xuyên. Chúng thực sự quan trọng và là lựa chọn hàng đầu để phòng thủ trong việc
phát hiện và phòng chống xâm nhập mạng.
Việc nghiên cứu xây dựng hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập
(IDS/IPS) đang được phát triển mạnh và còn phát triển mạnh mẽ trong thời gian
tới. Các sản phẩm thương mại trên thị trường có chi phí rất lớn, vượt quá khả năng
đầu tư của nhiều doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về mã nguồn mở
cũng đã được đầu tư nghiên cứu và triển khai. Có nhiều đề tài trong nước nghiên
cứu liên quan đến IDS/IPS bằng mã nguồn mở chủ yếu tập trung vào Snort. Nhưng
nhìn chung chưa được áp dụng rộng rãi, còn tồn tại nhiều hạn chế như: do chương
trình mã nguồn mở nên hầu hết không có giao diện thân thiện; thành phần báo
động không được tích hợp sẵn, hoặc nếu có cũng chỉ qua giao diện console, hoặc
qua giao diện Web chưa tạo được sự linh động và tiện dụng cho người quản trị
mạng; phần mềm mang tính đơn lẻ (chỉ tập trung nghiên cứu về Snort) trong khi

nhu cầu tích hợp nhiều tính năng giám sát khác để nâng cao hiệu quả sử dụng chưa
được chú trọng và phát triển. Hơn nữa, các dấu hiệu của các kiểu tấn công ngày
một tinh vi phức tạp đòi hỏi hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập
(IDS/IPS) phải được thường xuyên cập nhật những dấu hiệu mới. Người quản trị
mạng còn có thể dựa vào những phân tích khác như những dấu hiệu bất thường về
lưu lượng ra vào hệ thống, hoạt động của CPU, RAM để có những phản ứng kịp
thời. Bên cạnh đó, hệ thống báo động cũng cần triển khai mang tính chất đa dạng
nhiều hình thức, linh động, tiện dụng thực sự hỗ trợ thiết thực cho người quản trị
mạng.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng hầu hết các hệ thống có đặc điểm chung
là tính đa dạng và thay đổi. Việc nghiên cứu và triển khai một hệ thống giám sát
mạng, phát hiện và phòng chống xâm nhập với các yếu tố: chính xác, nhanh chóng,
trực quan, linh động và tiện lợi là vấn đề cấp thiết trong thực tế.
Phát triển hệ thống giám sát trực quan theo dõi các diễn biến trên mạng như
lưu lượng ra vào một Server, Switch, … hay hoạt động của CPU, bộ nhớ, … giúp
người quản trị mạng có những phân tích để đưa ra ứng phó kịp thời.
23

Hệ thống phát hiện xâm nhập dựa vào những mẫu dấu hiệu tấn công triển
khai để giúp phát hiện nhanh các cuộc tấn công mạng. Hệ thống phát hiện này kết
hợp với tường lửa sẽ chống lại các cuộc tấn công xâm nhập. Tuy nhiên, các dấu
hiệu của các kiểu tấn công ngày một tinh vi phức tạp thì hệ thống phát hiện phải
được thường xuyên cập nhật những dấu hiệu mới. Để có thể phát hiện nhanh chóng
các bất thường trên mạng, người quản trị mạng còn có thể dựa vào những đồ thị
trực quan về lưu lượng ra vào hệ thống để có những phản ứng kịp thời.
Hệ thống báo động cũng cần triển khai để thông báo cho người quản trị
trong một số trường hợp: Server ngưng hoạt động, một dịch vụ mạng ngưng hoạt
động hay có tấn công mạng. Hệ thống báo động có thể được triển khai qua nhiều
hình thức để phát báo động như: bằng Web, E-mail hay qua tin nhắn SMS đến
người quản trị mạng.

24

CHƯƠNG 2. TƯỜNG LỬA CISCO ASA
2.1. Giới thiệu
Tường lửa Cisco ASA là công nghệ mới nhất trong các giải pháp tường lửa
được đưa ra bởi Cisco, hiện nay đang thay thế các tường lửa PIX rất tốt. ASA viết
tắt của Adaptive Security Appliances, làm cả hai nhiệm vụ là một tường lửa và
ứng dụng anti-malware.
Cisco ASA hoạt động theo cơ chế giám sát gói tin theo trạng thái (Stateful
Packet Inspection), thực hiện điều khiển trạng thái kết nối khi qua thiết bị bảo mật
(ghi nhận trạng thái của từng gói thuộc kết nối xác định theo loại giao thức hay
ứng dụng). Cho phép kết nối một chiều (outbuond-đi ra) với rất ít việc cấu hình.
Một kết nối đi ra là một kết nối từ thiết bị trên cổng có mức bảo mật cao đến thiếtbị
trên mạng có mức bảo mật thấp hơn.
Trạng thái được ghi nhận sẽ dùng để giám sát và kiểm tra gói trở về. Thay
đổi ngẫu nhiên giá trị tuần tự (sequence number) trong gói TCP để giảm rủi ro của
sự tấn công.
Cisco ASA hoạt động theo kiến trúc phân vùng bảo mật dựa theo cổng,
cổng tin cậy (trusted) hay mức bảo mật cao và cổng không tin cậy (untrusted) hay
mức bảo mật thấp. Quy tắc chính cho mức bảo mật đó là thiết bị từ vùng tin cậy
có thể truy cập được thiết bị truy cập vùng không tin cậy hay còn gọi là Outbound.
Ngược lại từ vùng bảo mật thấp không thể truy cập vùng bảo mật cao trừ khi được
cho phép bởi ACL hay còn gọi là Inbound :
• Mức bảo mật (Security Level) 100 : đây là mức bảo mật cao nhất,
thường được gán cho cổng thuộc mạng bên trong (inside).
• Mức bảo mật 0 : đây là mức bảo mật thấp nhất, thường được gán cho
cổng kết nối ra Internet hay vùng không tin cậy còn gọi là vùng bên ngoài
(outside).
• Mức bảo mật từ 1-99 : Cho phép sử dụng để gán cho những cổng còn
lại nếu yêu cầu mở rộng vùng mạng.

25

Do đó trong quá trình cấu hình thông tin cho cổng đảm bảo mỗi cổng được
gán giá trị mức bảo mật dựa vào chính sách phân vùng bảo vệ thông qua câu lệnh
Security-level.
2.2. Các chức năng cơ bản của tường lửa Cisco ASA
2.2.1. Các chế độ làm việc của tương lửa Cisco ASA
Firewall Cisco ASA có 4 chế độ làm việc chính:
- Chế độ giám sát (Monitor Mode): Hiển thị dấu nhắc “monitor>”.
Đây là chế độ đặc biệt cho phép cập nhật các hình ảnh qua mạng hoặc
khôi phục mật khẩu. Ở chế độ giám sát, có thể nhập lệnh để xác định
vị trí của một máy chủ TFTP và vị trí của phần mềm hoặc file khôi
phục mật khẩu để tải về. Truy cập vào chế độ này bằng cách nhấn
"Break" hoặc "ESC"ngay lập tức sau khi bật nguồn thiết bị.
- Chế độ không đặc quyền (Unprivileged Mode): Hiển thị dấu nhắc“>”.
Chế độ này cung cấp tầm nhìn hạn chế của các thiết bị an ninh. Để
cấu hình, sử dụng lệnh Enable. Các mật khẩu ban đầu là trống, do đó
nhấn Enter một lần nữa để chuyển sang chế độ truy cập tiếp theo
(Privileged Mode).
- Chế độ đặc quyền (Privileged Mode): Hiển thị dấu nhắc “#”. Cho
phép thay đổi các thiết lập hiện hành. Bất kỳ lệnh trong chế độ không
đặc quyền cũng làm việc trong chế độ này. Từ chế độ này, có thể xem
cấu hình hiện tại bằng cách sử dụng “show running config”.Tuy
nhiên, không thể cấu hình ngay ở chế độ này mà phải vào chế độ cấu
hình (Configuration Mode). Truy cập vào chế độ cấu hình bằng cách
sử dụng lệnh “configure terminal” từ chế độ đặc quyền.
- Chế độ cấu hình (Configuration Mode): chế độ này hiển thị dấu
nhắc“(config)#”. Cho phép thay đổi tất cả thiết lập cấu hình hệ thống.
Sử dụng “Exit” từ mỗi chế độ để trở về chế độ trước đó.

×