Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Tiểu luận chuyên viên chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác văn thư - lưu trữ chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động
quản lý hành chính Nhà nước và nhất là trong việc cải cách nền hành chính
quốc gia hiện nay.
Công tác lưu trữ ở nước ta từ lâu đã được Đảng, Nhà nước, các ngành,
các cấp quan tâm; từ đó nhiều văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
hướng dẫn cụ thể đã được ban hành. Do đó, công tác lưu trữ đã có nhiều tiến
bộ, trong đó có hệ thống lưu trữ của Đảng Cộng sản Việt Nam, một bộ phận
quan trọng trong thành phần Phông lưu trữ tài liệu Quốc gia Việt Nam. Ngay
từ tháng 12-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng lao động Việt Nam ra
Thông tri sè 079-TT/TW về việc gửi giấy tờ trong Đảng [36; 24,28]. Sau đó
một loạt văn bản về công tác văn thư lưu- trữ trong các cơ quan của Đảng
tiếp tục được ban hành. Ngày 8-9-1959, Ban Bí thư Trung ương đã ra Thông
tri sè 259 TT/TW về một số điểm về công tác lưu trữ công văn, tài liệu [36;
32,36]; Về nhiệm vụ và chế độ công tác văn thư, lưu trữ công văn tài liệu
mật đã được Văn phòng Trung ương Đảng quy định trong Công văn số 171-
VP/TW ngày 1-10-1968 [36;79,93]. Ngày 6- 4-1971, Văn phòng Trung
ương lại ban hành Quy định về chế độ sưu tầm, tập trung và quản lý tài liệu
lưu trữ ở các cấp bộ Đảng [36;110.119]. Năm 1977, Văn phòng Trung ương
ra quy định về thể thức công văn giấy tờ trong các cơ quan Đảng. Ngày 23-
9-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 20- QĐ/TW về việc
thành lập Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt nam. Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh thuộc Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam do Cục lưu
trữ Văn phòng Trung ương Đảng chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và tổ chức
nép lưu tài liệu vào kho lưu trữ lịch sử.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh là một trung tâm đào tạo
chính trị lớn nhất của cả nước. Theo Quyết định số 149/QĐ-TW ngày 02-8-2005
của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị định 48/2006/NĐ- CP ngày 17 -5-2006
“Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp,


thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý
luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị- xã hội; là trung
tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu
về khoa học chính trị” [4;1]. Học viện bao gồm Trung tâm Học viện và 5 Học
viện Chính trị trực thuộc: Học viện Chính trị khu vực I Hà Nội, Học viện
Chính trị khu vực II Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực III
thành phố Đà Nẵng, Học viện Chính trị khu vực VI thành phố Cần Thơ và
Học viện Báo chí và Tuyên truyền[phụ lục: 01]. Thực hiện chức năng, nhiệm
vụ mà Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị giao, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều loại văn bản có gía trị phản ánh
chức năng, nhiệm vụ của Học viện. Những tài liệu này cần được tổ chức khoa
học để phục vụ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý hành
chính đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Trong những năm qua, nhờ sự chỉ đạo của Ban Giám đốc, Văn Phòng
Học viện, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ lưu trữ phòng Hành chính
Văn phòng Học viện, công tác lưu trữ ở Học viện đã được tổ chức, bước đầu
đi vào nề nếp. Tuy nhiên, còn có những mặt hạn chế trong công tác quản lý và
tổ chức khoa học tài liệu lưu trữ, các Học viện khu vực chưa tổ phòng lưu trữ
nên chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ học tập và giảng dạy, nghiên cứu khoa học
của Học viện trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài "Công tác lưu trữ ở
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - thực trạng và giải pháp" cho
luận văn thạc sĩ lưu trữ, chuyên ngành Lưu trữ học và tư liệu học.
2. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở khảo sát, phân tích thực trạng của công tác lưu trữ ở Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có thể rót ra những kết quả và những
hạn chế của công tác lưu trữ. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp, kiến
nghị với mục tiêu đưa công tác lưu trữ hoàn thiện một bước, góp phần cải

tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lưu trữ ở Trung tâm Học viện;
mặt khác để làm tài liệu tham khảo về công tác lưu trữ ở các Học viện
Chính trị khu vực.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi của Luận văn này chỉ giới hạn việc nghiên cứu, khảo sát
công tác lưu trữ của trung tâm Học viện trong giai đoạn từ năm 1955 - 2006
vì: Học viện được thành lập từ năm 1949, nhưng tài liệu trước năm 1955
không còn tài liệu nào, tài liệu từ năm 1955 đến năm 1977 còn lại hầu như
không đáng kể. Tài liệu từ năm 1977 chủ yếu là tài liệu của Văn phòng, Ban
Giám đốc. Còn tài liệu của các đơn vị trực thuộc thiếu nhiều, có đơn vị
không còn tài liệu. Năm 2007, Học viện sáp nhập với Học viện Hành chính
đổi tên thành Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, vì vậy
đề tài chỉ nghiên cứu đến năm 2006.
- Đối tượng nghiên cứu:
Công tác lưu trữ ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tóm lược quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy. Trên cơ đó khảo sát thành phần, nội dung tài liệu lưu trữ của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Tiến hành khảo sát, nghiên cứu công tác lưu trữ ở Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nhận xét những kết quả và hạn chế công tác lưu trữ ở Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh từ đó nêu các giải pháp và kiến nghị về công tác lưu
trữ ở Học viện.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình thực hiện Luận văn, chúng tôi đã tìm hiểu và khái quát
các công trình nghiên cứu về vấn này thành 3 nhóm như sau:
+ Nhóm thứ nhất các khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên Khoa
Lưu trữ học và Quản trị văn phòng, trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn (Hà Nội), được bảo quản tại Phòng Tư liệu của Khoa cụ thể như:

Quản Tố Trinh, “Tổ chức khoa học tài liệu ở Trung tâm Thông tin tư liệu
địa chính Tổng cục Địa chính”, năm 2001; Nguyễn Thị Nga; “Tổ chức
khoa học tài liệu tại Tỉnh uỷ Nghệ An”, năm 2002; Dương Thị Quế, “Tổ
chức khoa học tài liệu tại Trường Đại học khoa học và hội và Nhân văn
Hà Nội”, năm 2002 Các tác giả trên đã nghiên cứu về tổ chức khoa học
tài liệu ở các loại hình tài liệu: tài liệu hành chính, tài liệu nghe nhìn và tài
liệu khoa học kỹ thuật ở các cơ quan quản lý Nhà nước như các bộ và các
cơ quan chuyên ngành (Tổng cục Địa chính), cơ quan Đảng (Tỉnh uỷ), cơ
quan sự nghiệp (Trường Đại học).
- Nhóm thứ hai là các luận văn thạc sĩ của trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn Đại học quốc gia Hà Nội như: Hà Văn Huề, “xác định các
giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
lưu trữ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”, năm 2002; Đỗ Thị Huấn,
“tổ chức khoa học tài liệu của Ban Kinh tế Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam”, năm 1998. Đây là các công trình nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức
khoa học tài liệu lưu trữ tại các cơ quan, trên quan điểm so sánh, vận dụng
lý luận vào thực tiễn để nhận xét và đưa ra các giải pháp, kiến nghị thích
hợp cho mỗi loại cơ quan.
- Nhóm thứ ba tài liệu ở Học viện bao gồm: Quyết định về công tác lưu
trữ của Giám đốc Học viện; các hướng dẫn, các báo cáo quý năm; một số bài
viết về văn bản quản lý nhà nước, tài liệu chỉnh lý phông lưu trữ Học viện đợt
I,II của Văn phòng Học viện.
Về công tác lưu trữ ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh từ
trước đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu đề cập về tổ chức
quản lý và tổ chức thực hiện nghiệp vụ lưu trữ ở Học viện.
Đây là những tài liệu tham khảo để xây dựng đề cương đề tài. Vì vậy,
đề tài luận văn mà chúng tôi chọn ở đây hoàn toàn không có sự trùng lặp với
bất cứ công trình nghiên cứu nào đã có từ trước.
6. Các nguồn tài liệu tham khảo
- Pháp Lệnh Lưu trữ quốc gia sè 34/2001/PL- UBTVQH của Uỷ Ban

Thường vụ Quốc hội ngày 04- 4-2001.
- Các Nghị định số110/2004/NĐ- CP, số111/2004/NĐ- CP về công tác
văn thư- lưu trữ, năm 2004.
- Thông tư số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP của Bộ Nội Vụ-Văn phòng
Chính phủ, Thông tư số 21/2005/TT-BNV hướng dẫn về văn bản, về chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của văn thư-lưu trữ.
- Đào Xuân Chúc-Nguyễn Văn Hàm- Vương Đình Quyền- Nguyễn
Văn Thâm “Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ”, Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp, Hà Nội 1990.
- Các Quyết định của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính phủ về chức
năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Kho lưu trữ Học viện.
- Các Quyết định, Quy chế của Học viện về công tác văn thư lưu trữ.
- Các báo cáo tổng kết năm học và phương hướng, nhiệm vụ của Học
viện các năm 2004, 2005, 2006.
- Các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn của cácViện trong Học viện:
+ Đề tài nghiên cứu cấp bộ về đổi mới tổ chức và hoạt động hành chính
Nhà nước của khoa Nhà nước Pháp luật, năm 1997.
+ Đề tài tiềm lực về chức năng nhiệm vụ tổ chức bộ máy và biên chế
của các đơn vị trong Học viện của Vụ Tổ chức cán bộ, năm 2004.
- Các luận văn cao học Khoa lưu trữ học- Quản trị văn phòng, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin về chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm rõ mối quan hệ giữa lý luận
và thực tiễn công tác lưu trữ ở Học viện;
- Phương pháp luận của lưu trữ:
Vận dụng nguyên tắc tính đảng, nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc toàn

diện tổng hợp khi xem xét thành phần, nội dung tài liệu; cơ sở lý luận vào
việc xác định giá trị, thu thập, bổ sung, phân loại và xây dựng công cụ tra cứu
và đề xuất những giải pháp đối với công tác lưu trữ ở Học viện.
- Phương pháp hệ thống:
Phương pháp hệ thống đã được vận dụng vào việc tìm hiểu quá trình
hình thành và phát triển của Học viện qua từng thời kỳ lịch sử. Các tài liệu
được phân tích theo hệ thống mà chúng đã xuất hiện và tồn tại. Chúng
được sắp xếp theo hệ thống trên cơ sở trình tự thời gian hình thành và phát
triển của Học viện từ năm 1949 đến năm 2006. Phương pháp hệ thống còn
thể hiện trong việc xác định, phân loại tài liệu về chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy của Học viện qua các giai đoạn phát triển của đất nước.
Phương pháp hệ thống còn được sử dụng để xác định giá trị tài liệu, để
nghiên cứu hệ thống văn bản quản lý chung về công tác lưu trữ, hệ thống
văn bản quản lý của Học viện.
- Phương pháp phân tích chức năng:
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Học viện qua các giai đoạn khác
nhau, ứng với một giai đoạn có chức năng nhiệm vụ để chia tài liệu qua các
gia đoạn, để chọn phương án phân loại phù hợp.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Luận văn đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu tư liệu, điều tra, khảo sát, phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu
với thực tế công tác lưu trữ ở Học viện.
8. Đóng góp của đề tài:
- Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn công tác lưu trữ ở Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, rót ra những kết quả và những hạn chế, từ đó
đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác lưu trữ ở Học
viện.
- Mặt khác kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cải tiến, nâng cao chất
lượng công tác lưu trữ ở Trung tâm Học viện và sẽ là tài liệu tham khảo cho
các Học viện khu vực trong việc tổ chức khoa học tài liệu lưu trữ.
9.Bè cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và thành phần, nội
dung, ý nghĩa tài liệu lưu trữ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Chương 2: Thực trạng của công tác lưu trữ ở Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
Chương 3: Mét số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
công tác lưu trữ ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.


Chương 1
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, TỔ CHỨC BỘ MÁY
VÀ THÀNH PHẦN, NỘI DUNG, Ý NGHĨ TÀI LIỆU LƯU TRỮ
Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Trường Đảng Trung ương, tiền thân của Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh ngày nay là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng được
thành lập từ năm 1949. Nhưng trên thực tế, sự nghiệp đào tạo cán bộ phục vụ
cách mạng đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở đầu và đặt nền móng ngay
khi Người mới từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) vào tháng 12 năm
1924. Trong những điều kiện cực kỳ khó khăn gian khổ của thời kỳ hoạt động
bí mật, mặc dù chưa có điều kiện mở trường, líp tập trung, Đảng ta vẫn luôn
luôn chú trọng việc giáo dục, huấn luyện đào tạo cán bộ phục vụ cho sự
nghiệp giải phóng dân téc. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc chủ trì, họp tháng 5-1941 đã chỉ rõ: Việc đào tạo cán bộ nay
đã trở thành một công tác gấp rút, không thể bỏ qua. Tất cả các cấp bộ chỉ huy
của Đảng phải đặc biệt chú ý công tác này. Quán triệt chủ trương đó, chỉ
trong thời gian ngắn, Đảng đã tổ chức hàng chục líp huấn luyện, thu hót trên
300 thanh niên ưu tó vào học. Toàn bộ sự nghiệp của Đảng và của Dân téc bắt
đầu từ đây. Những líp huấn luyện này có thể coi là trường Đảng đầu tiên và

học viên các líp này chính là những hạt giống đỏ, với công phu chăm sóc, vun
trồng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng đã nảy nở thành khu rừng đại
ngàn của cách mạng, đem lại thắng lợi vĩ đại cho cách mạng qua các cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân téc ta.
Sau khi đất nước được thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, đặt ra cho sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ của
Đảng những nhiệm vụ mới rất khẩn trương, nặng nề và với quy mô lớn. Theo
Quyết định của Trung ương Đảng từ tháng 7-1977 trường đào tạo cán bộ
được mang tên trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc và mở thêm cơ sở hai
tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 02-10-1978, Ban Bí thư ra chỉ thị số 54-
CT/TW về nhiệm vụ của trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc trong giai
đoạn mới nêu rõ trường “là công cụ quan trọng của Đảng trên mặt trận tư
tưởng và lý luận” và có hai nhiệm vụ cơ bản, một là đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ cao cấp và trung cấp về lý luận chính trị, hai là nghiên cứu lý luận nhằm
làm tốt việc giảng dạy đồng thời góp phần vào công tác lý luận chung của
Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) đề ra đường lối đổi mới
đất nước, đồng thời cũng mở ra thời kỳ mới về giáo dục, đào tạo và nghiên cứ
khoa học trong hệ thống trường Đảng. Tháng 7-1987 Bộ Chính trị Quyết định
chuyển trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc thành “Học viện khoa học xã
hội mang tên Nguyễn Ái Quốc”. Với tinh thần đổi mới tư duy lý luận, các
khoa và bộ môn giảng dạy đã rà soát những vấn đề lý luận và thực tiễn thuộc
phạm vi các môn học, trước hết nhằm đổi mới một bước nội dung giáo trình
và bài giảng phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo hệ cơ bản dài hạn và hệ cán
bộ lý luận.
Cuối tháng 5 năm 1987 hợp nhất Trường Chính trị đặc biệt vào Học
viện Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 10 năm 1990, hợp nhất trường Nguyễn Ái Quốc 10 vào Học viện
Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 10/3/1993, Bé Chính trị ra Quyết định số 61/ QĐ-TW về việc

sắp xếp lại các trường Đảng Trung ương và chuyển thành Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh trực thuộc Trung ương Đảng và Chính phủ. Việc thay
đổi này không đơn thuần chỉ là việc đổi tên gọi của Học viện mà là bước
chuyển quan trọng trên quy mô lớn về cơ cấu tổ chức hệ thống trường Đảng
và là sự xác định trọng trách to lớn của Học viện trước Đảng và Nhà nước với
tư cách là một Học viện Quốc gia bao gồm cơ sở Trung tâm và các Học viện
khu vực thống nhất chung vào Học viện. Mấy năm qua, các Học viện đã có
bước phát triển mới trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng phân
viện. Hàng năm, các Học viện đã chiêu sinh đào tạo và bồi dưỡng khoảng 6000
học viên cả tập trung và tại chức theo đối tượng, địa bàn và chuyên ngành được
phân công.
Theo Quyết định số 07 QĐ/TW ngày 25 -10 -1996 của Bộ Chính trị,
Viện Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh được sáp nhập vào
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lấy tên là Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh. Sự sáp nhập này lại đánh dấu một mốc quan trọng mới
trong tiến trình phát triển của Học viện, bổ sung thêm một lực lượng cán bộ
giảng dạy và nghiên cứu, tạo thêm những điều kiện thuận lợi để mở rộng số
lượng và tăng thêm chất lượng đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ lý
luận ở trình độ sau đại học.
Theo Quyết định 149/QĐ-TW ngày 08- 02-2005 của Bộ Chính trị Ban
chấp hành trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Nghị định 48/2006/NĐ- CP ngày 17-
5-2006 của Chính phủ về Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, mét lần
nữa quy định lại chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Học
viện Chính trị quốc gia là đơn vị sự nghiệp thuộc Chính phủ: là đơn vị tài
chính cấp I và 5 Học viện Chính trị trực thuộc: Học viện Chính trị khu vực I,
Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Chính trị khu vực III, Học viện khu
vực IV, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Thực hiện Nghị quyết sè 10-
NQ/TW ngày 9-2-2007 Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá X về đổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng

về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính
trị -xã hội “ Hợp nhất Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Học viện
Hành chính Quốc gia thành Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị” [33;30].
Trong công tác đào tạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có
một nhiệm vụ rất quan trọng. Đó là việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý cho Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.
1.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
1.2.1. Chức năng của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Tại Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ VI năm 1949 đồng chí Tổng bí thư
Trường Chinh đọc báo cáo về tình hình nhiệm vụ của Đảng, nêu ra chủ
trương về công tác huấn luyện cán bộ. Hội nghị ra Nghị quyết “ các trường
Đảng mở luôn, liên tiếp, phân công rành mạch giữa trường của Trung ương,
Khu, Tỉnh”Trường Đảng trung ương từ đây trở thành trường huấn luyện cán
bộ hoạt động thường xuyên mang tên Nguyễn Ái Quốc. Tháng 10-1954 đến
1955 trường chuyển xuống Đan Phượng, tỉnh Hà Đông tiếp tục mở các líp
học trong đó có các líp cán bộ miền Nam. Khi trình độ đội ngò cán bộ giảng
dạy của trường đã được nâng cao, mặt khác thực tiễn đòi hỏi Đảng phải dần
dần hình thành đội ngò cán bộ nghiên cứu và giảng dạy có trình độ cao về các
môn lý luận Mác-Lênin. Tháng 3-1964 mở 2 líp nghiên cứu sinh đầu tiên, từ
đây Trường lại thêm chức năng đào tạo hệ nghiên cứu sinh. Năm 1975 miền
Nam hoàn toàn giải phóng, quy mô đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngày càng
rộng trên cả nước.
Ngày 02-10-1978, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 54- CT/TW Trường Đảng
cao cấp Nguyễn Ái quốc có hai chức năng: " Giáo dục huấn luyện cán bộ cao
cấp của Đảng và nghiên cứu giáo dục của Đảng".
Đến năm 1987, thêm chức năng: hướng dẫn 3 trường Đảng khu vực và
giúp các Đảng ban đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ

trung cao cấp về mặt lý luận và chính trị. Sau đó các Quyết định số 61-
QĐ/TWNgày 10-3-1993 của Bộ Chính trị về việc sắp xếp lại các trường
Đảng Trung ương và chuyển thành Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
trực thuộc Trung ương Đảng và Chính phủ; Quyết định số 67- QĐ/TWngày
22-10-1999 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì chức năng của học viện không
thay đổi, được mở rộng về qui mô và nặng nề hơn.
Ngày 02 tháng 8 năm 2005, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương
khoá IX đã ra Quyết định số 149- QĐ/TW và sau đó Chính phủ ra Nghị định
48/2006/NĐ- CP ngày 17-5-2006 về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Theo Quyết định này, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trực
thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Bộ Chính trị, là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý trung cao cấp, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng,
Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội; là trung tâm quốc gia nghiên cứu
khoa học lý luận Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường
lối chính sách của Đảng, Nhà nước, nghiên cứu về khoa học chính trị, nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, đồng thời góp phần vào phát triển lý
luận, tổng kết thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.2.2. Nhiệm vụ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh
Thực hiện những chức năng trên, về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, Học viện có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung cao cấp
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội về chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước, về khoa học chính trị và lãnh đạo chính trị.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học lý luận chính trị có trình độ đại
học, sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ), nhằm cung cấp đội ngò cán bộ nghiên cứu

chủ chốt cho các cơ quan lãnh đạo và các viện nghiên cứu khoa học xã hội;
đội ngò giảng viên lý luận cho các trường đại học, cao đẳng, các trường chính
trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các trường bồi dưỡng cán bộ quản
lý của các bộ, ngành và đoàn thể.
- Đào tạo và bồi dưỡng ở bậc đại học, bậc sau đại học những cán bộ
chủ chốt trên lĩnh vực báo chí, xuất bản, tuyên truyền.
- Bồi dưỡng chuyên ngành cho cán bộ chủ chốt làm công tác tư tưởng,
tổ chức, kiểm tra, dân vận, văn phòng, đối ngoại của Đảng.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ lý luận cho
một số nước bạn, đảng bạn.
1.2.3. Tổ chức bộ máy của Học viện
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà Trung ương Đảng quy định, Ban
Giám đốc Học viện đã tổ chức bộ máy làm việc phù hợp để hoạt động. Hiện
nay, Học viện có 34 đơn vị trực thuộc, có đơn vị biên chế cán bộ lên tới 60 -
70 người. Như vậy tổng số cán bộ công nhân viên của Học viện khoảng gần
1.000 người, trong đó có hơn 550 cán bộ có trình độ từ thạc sỹ, chuyên viên
chính, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư. Như vậy trung tâm Học viện có quy mô cả
về mặt tổ chức nhân sự đều lớn hơn các Ban của Đảng. Ngoài khu trung tâm
ra còn có 5 Học viện với tổng số cán bộ cũng trên dưới 1.000 người đảm nhận
công tác nghiên cứu và đào tạo cán bộ cho Đảng và Nhà nước ở các khu vực
trong cả nước.
Dùa theo chức năng và nhiệm vụ Trung ương giao, qua các thời kỳ,
Học viện đã thành lập hai loại hình đơn vị:
- Các đơn vị chức năng.
- Các đơn vị tư vấn.
Tổ chức bộ máy của Học viện được chia theo các đơn vị như sau:
a. Ban Giám đốc Học viện: Gồm Giám đốc và các phó giám đốc chịu
trách nhiệm trước Trung ương Đảng về kết quả công việc mà Bộ Chính trị và
Ban Bí thư giao.
b. Các đơn vị chức năng:

- ViệnTriết học
- Viện Kinh tế chính trị học
- Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học
- Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
- Viện Xây dựng Đảng
- Viện Lịch sử Đảng
- Viện Chính trị học.
- Viện Quản lý kinh tế
- Viện Quan hệ quốc tế
- Viện Kinh tế phát triển
- Viện Nhà nước pháp luật.
- ViệnVăn hoá và phát triển.
- Viện Xã hội học và tâm lý lãnh đạo, quản lý.
- Viện Thông tin khoa học.
- Viện nghiên cứu quyền con người.
-Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng.
- Tạp chí nghiên cứu lý luận
- Tạp chí lịch sử Đảng
- Vô Tổ chức cán bộ
- Vô Quản lý đào tạo
- Vô Quản lý khoa học
- Vô Hợp tác Quốc tế
- Văn phòng Học viện
- Thanh tra
Ngoài Trung tâm Học viện ra còn có 5 Học viện Chính trị trực thuộc
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
- Học viện Chính trị khu vực I
- Học viện Chính trị khu vực II
- Học viện Chính trị khu vực III
- Học viện Chính trị khu vực IV

- Học viện Báo chí và Tuyên truyền
05 Học viện Chính trị khu vực này đều có chức năng và nhiệm vụ là
đào tạo cán bộ cho Đảng và Nhà nước và nghiên cứu khoa học[phụ lục:02]
Chức năng nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Đối với các Viện:
+ Chức năng: Giảng dạy và nghiên cứu
+ Nhiệm vụ: Nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề có tính chất lý luận cơ
bản, quy luật và các nguyên tắc chung của các bộ môn chuyên ngành, hướng
dẫn các trường Đảng khu vực về nội dung, phương pháp giảng dạy, nghiên cứu
khoa học theo bộ môn mình phụ trách. Trực tiếp chỉ đạo các khoa ở các Phân
viện miền nam, mở rộng quan hệ hợp tác, phối hợp nghiên cứu khoa học trao đổi
kinh nghiệm với trong nước và các trường Đảng các nước XHCN anh em.
- Viện Thông tin khoa học: Có nhiệm vụ nghiên cứu và thống nhất quản
lý công tác thông tin, tư liệu, thư viện nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy,
học tập và nghiên cứu khoa học, tổng hợp thông tin tư liệu về lý luận Mác-
Lênin và khoa học xã hội.
- Các Tạp chí: Có nhiệm vụ hướng dẫn, phản ánh công tác giáo dục và
nghiên cứu lý luận của Học viện. Tổ chức quản lý về nội dung, đảm bảo tính
chính xác về mặt lý luận, quán triệt một cách nghiêm túc quan điểm đường lối
của Đảng, phát hành các loại tạp chí: Lịch sử Đảng, tạp chí lý luận chính trị
- Vụ Quản lý đào tạo: Là đơn vị trực thuộc Ban Giám đốc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, có chức năng tham mưu về đào tạo bồi
dưỡng và có những nhiệm vụ sau đây:
+ Xây dựng chương trình, kế hoạch mở các hệ đào tạo cơ bản dài
hạn, Bồi dưỡng ngắn hạn và hệ nâng cao trình độ cả tập trung và tại chức
trong toàn bộ hệ thống Học viện, triển khai và điều hành quá trình thực hiện
các kế hoạch sau khi Giám đốc phê duyệt.
+ Từng bước tiến hành việc nghiên cứu khoa học giáo dục ở Học viện
và các Học viện, nghiên cứu kiến nghị với Giám đốc và các khoa cải tiến
chương trình kế hoạch, phương pháp giảng dạy và học, tổng kết kinh nghiệm

công tác giáo dục, đặc biệt là nghiệp vụ sư phạm.
+ Tổ chức công tác học viên gồm từ khâu chiêu sinh, quản lý quá trình
học tập rèn luyện cho đến khi kết thúc líp học, lưu giữ hồ sơ học viên, cấp
phát văn bằng chứng chỉ, giấy chứng nhận, các giấy tờ thi, kiểm tra.
+ Giúp Giám đốc quản lý chỉ đạo tập hợp tình hình đào tạo ở các Học viện
(cả về quy chế, chương trình giảng dạy và phương pháp giảng dạy học tập).
- Vụ Tổ chức cán bộ: Nghiên cứu tổ chức thực hiện và quản lý thống
nhất về công tác tổ chức cán bộ, về các chế độ chính sách của Đảng và Nhà
nước, vận dụng sát hợp với thực tế của học viện
- Các đơn vị khối hậu cần:
Có nhiệm vụ tổng hợp tình hình chung, xây dựng kế hoạch chung của
Học viện, theo dõi đôn đốc thực hiện các kế hoạch công tác, theo dõi công tác
thi đua; Tổ chức quản lý thu chi tài chính, đời sống của cán bộ công nhân viên
và học viên.
- Các đơn vị tư vấn:
- Hội đồng nhà trường
- Hội đồng khoa học Học viện
- Hội đồng khoa học Khoa.
Nhiệm vụ của các Hội đồng trên như sau:
- Hội đồng Nhà trường: Có nhiệm vụ đánh giá, đề xuất ý kiến về tình
hình, chủ trương, kế hoạch công tác, phổ biến chủ trương, kế hoạch của Giám
đốc đã kết luận trong Hội đồng cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong đơn vị
mình. Báo cáo kết quả công việc được phân công với Ban Giám đốc Học viện.
- Hội đồng khoa học Học viện: Là cơ quan khoa học cao nhất của Học
viện có nhiệm vụ giúp Giám đốc đề xuất và kết luận những vấn đề lớn trong
công tác nghiên cứu khoa học và những kết quả của việc nghiên cứu.
Thành phần gồm: Giám đốc và các phó Giám đốc, các Viện trưởng,
một số trưởng ban, một số phó Viện trưởng và cán bộ nghiên cứu giảng dạy
có khả năng và kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học.
- Hội đồng khoa học Khoa: Xác định phương hướng, nội dung, kế

hoạch, tổ chức nghiên cứu khoa học của Khoa (gồm cả việc nghiên cứu khoa
học của Học viện phân công). Xét duyệt bài giảng, sách giáo khoa và các
công trình nghiên cứu khoa học của cán bộ trong khoa. Kiến nghị với Giám
đốc về việc công nhận các chức vụ khoa học của cán bộ trong Khoa.
Thành phần gồm: Chủ tịch hội đồng khoa học có trưởng khoa phụ
trách, một phó chủ tịch, một thư ký và một số uỷ viên là cán bộ giảng dạy có
năng lực và có uy tín khoa học trong khoa. Số lượng tuỳ theo tình hình cụ thể
của từng khoa.
1.3. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA HỒ CHÍ MINH
1.3.1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho các cán bộ
lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của Đảng
1.3.1.1. Đào tạo đại học, cao cấp lý luận chính trị
Học viện đã xây dựng đội ngò cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa
học ngày càng lớn mạnh. Những ngày đầu, giảng viên của Trường là các đồng
chí lãnh đạo cao cấp của Đảng như các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Văn Lương …. được 15 đồng chí làm công tác giáo vụ
kiêm giảng dạy. Đến nay Học viện đã đào tạo và bồi dưỡng được 200 giảng
viên. Học viện hoàn toàn đảm nhiệm được công việc giảng dạy, nghiên cứu
khoa học mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao.
Học viện đã đào tạo và bồi dưỡng “hàng chục vạn” cán bộ lãnh đạo và
quản lý trung, cao cấp cho Đảng. Học viện đã xây dựng chương trình đào tạo
sát với từng đối tượng và không ngừng hoàn thiện phương pháp đào tạo coi
đó là điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng và hiệu quả đào tạo
bồi dưỡng cán bộ. Với quy trình và phương pháp học tập là: Giảng bài tại líp,
nghiên cứu cá nhân, tập thể thảo luận, giải đáp, phụ đạo, nghiên cứu thực tiễn,
ôn tập kiểm tra, viết luận văn cuối khoá. Chính vì thế mà hiệu quả đào tạo
ngày được nâng lên, học viên tốt nghiệp loại khá, giỏi chiếm tỷ lệ cao. Hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh trong những năm gần đây đã đạt một số kết quả đáng ghi

nhận.
Trường đã tổ chức hai hệ cơ bản: dài hạn đại học chính trị; ngắn hạn cao
cấp lý luận chính trị và hệ bồi dưỡng theo các chuyên ngành. Trong 5 năm (từ
năm 2000- 2005) hệ thống Học viện đã đáp ứng về cơ bản yêu cầu từng bước
thực hiện quy hoạch cán bộ chủ chốt của các ban, ngành Trung ương và địa
phương. Kết quả về số lượng cán bộ đã được đào tạo, bồi dưỡng cụ thể như sau:
Hệ đào tạo Đại học Cao cấp Bồidưỡng Cộng
STT
Cơ sở đào tạo
chính trị ( kể
cả hoàn
chỉnh)
lý luận
chính trị
chuyên
ngành và
đường lối
chính sách
các
hệ
1 Trung tâmHọc viện 4.470 9.161 1.630 15.261
2 Các Học viện 5.848 32.647 5.171 43.666
3 Toàn hệ thống Học viện 10.318 41.808 6.801 58.927
Ngoài ra, trong 5 năm qua, Học viện còn đào tạo được hai líp về tư
tưởng Hồ Chí Minh để cung cấp giáo viên cho các trường đại học và cao đẳng
của cả nước với 231 học viên.
Đào tạo cho Đảng Nhân dân cách mạng Lào 289 học viên thuộc cả hai
hệ đại học chính trị và cao cấp lý luận chính trị.
Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các hình thức đào tạo, bồi dưỡng đáp
ứng yêu cầu do các Đại hội của Đảng đề ra đối với đội ngò cán bộ đương

chức và tạo nguồn cho các chức danh lãnh đạo của nhiệm kỳ Đại hội IX của
Đảng. Quy mô đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Học viện mở rộng đáng
kể, nhất là sau khi ban hành Quy định 54- QĐ/TW ngày 12-5-1999 của Bộ
Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 3 khoá VIII và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về chiến lược
các bộ, các qui định của Chính phủ về tiêu chuẩn các ngạch bậc công chức
Nhà và điều kiện thi nâng ngạch. Hàng năm, qua hệ thống đào tạo của Học
viện, bằng cả hai hình thức tập trung và tại chức, hàng chục ngàn cán bộ được
nghiên cứu một cách cơ bản và tương có hệ thống những tri thức lý luận chủ
nghĩa Mác -Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các khoa học chính trị; được rèn
luyện về lập trường, quan điểm và đạo đức, phong cách; được cung cấp
những kinh nghiệm thực tiễn về nghiệp vụ công tác, từ đó hình thành và nâng
cao bản bản lĩnh chính trị, năng lực quản lý lãnh đạo.
1.3.1.2. Đào tạo sau đại học (bao gồm thạc sĩ, tiến sĩ)
Thực hiện Chỉ thị 06- CT ngày 05-8-1982 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về công tác đào tạo đội ngò cán bộ lý luận, ngày 13-7-1988, Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng(nay là Thủ tướng Chính phủ) đã có Quyết định số 208
QĐ/CT về việc giao nhiệm vụ đào tạo cán bộ có trình độ trên đại học cho Học
viện Nguyễn ái Quốc(nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Ngày
9-3-1991 Hội đồng Bộ trưởng( nay là Chính phủ) đã có Quyết định sè 55-
QĐ/HĐBT về việc mở hệ đào tạo cao học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Theo đề nghị của Học viện Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xem xét các điều kiện
và giao nhiệm vụ đào tạo cao học cho Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Tính từ năm 1991 cho đến nay Học viện đã lần lượt được giao nhiệm
vụ đào tạo cao học về 17 chuyên ngành khoa học( Triết, Kinh tế chính trị,
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Lịch sử phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, Xây dựng Đảng, Quản lý kinh tế, Khoa học về Tôn giáo
và tín ngưỡng, Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận và lịch sử
văn hoá, Kinh tế phát triển, Báo chí, Công tác tư tưởng, Xuất bản, Xã hội học,
Hồ Chí Minh học).

Qui mô đào tạo tập trung cũng được mở rộng, cuối những năm 1990
chỉ tiêu đào tạo cao học từ 50-60 học viên/năm, đào tạo nghiên cứu sinh từ
25-30 học viên/ năm. Nhưng từ năm 2000 lại đây, chỉ tiêu đào tạo cao học
tăng lên lần lượt qua các năm từ 100 lên 120,150,200 và 250 chỉ tiêu/năm,
nghiên cứu sinh từ 30 lên 40 chỉ tiêu /năm.
Ngoài hình thức đào tạo tập trung, bắt đầu từ năm học 2002-2003 đã
chiêu sinh 2 khoá cao học không tập trung cho 2 thành phố lớn: Thủ đô Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh; một khoá cho các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn
thể Trung ương ở Hà Nội; một khoá cho các tỉnh miền Trung -Tây nguyên.
Tính từ năm học 1999-2005 có 942 học sinh cao học tập trung, 415 học
viên cao học không tập trung và 62 học viên Lào; 207 nghiên cứu sinh Việt
Nam và 14 nghiên cứu sinh Lào đã và đang học tập tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
Đối tượng được tuyển chọn vào đào tạo đều được các cơ quan tổ chức
của các Ban, Bộ, Ngành và địa phương lùa chọn, cử đi dự thi và đào tạo. Vụ
Quản lý đào tạo sau đại học đã xét duyệt hồ tỉ mỉ chính xác và tham mưu cho
Hội đồng tuyển sinh tổ chức thi, chấm thi, xét tuyển nghiêm túc, khách quan,
công bằng.
1.3.1.4. Hoạt động nghiên cứu khoa học
Trong triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học, mấy năm gần đây, ở Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có khoảng 30-40 đề tài các cấp được thực
hiện mỗi năm. Tiến độ thực hiện và chất lượng các đề tài đã có tiến bộ.
Trong Quyết định số 149/QĐ-TW ngày 02-8-2005 của Bộ Chính trị về
chức năng, nhiệm vụ của Học viện trong đó khẳng định nhiệm vụ hoạt động
khoa học của Học viện trong thời gian sắp tới theo hướng quan trọng và nặng
nề hơn” Học viện là đơn vị sự nghiêp: là đơn vị tài chính cấp “I [4;1]. Đây là
thuận lợi lớn cho hoạt động chung của Học viện, đặc biệt là đối với nghiên
cứu khoa học.
Học viện đã nghiên cứu khoa học - góp phần nghiên cứu tổng kết
đường lối chủ trương của Đảng trong các giai đoạn cách mạng là một trong

những chức năng chính của Học viện.
Học viện đã tham gia cùng các cơ quan nghiên cứu lý luận khác của
Đảng làm rõ những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam, về quá trình hình
thành đường lối chính sách của Đảng, những vấn đề mới của thời đại.
Học viện đã nghiên cứu đóng góp vào các văn kiện dự thảo của Đảng
như: Cương lĩnh chính trị, chiến lược kinh tế - xã hội, các dự thảo văn kiện
trình Đại hội Đảng hội Đảng toàn quốc …
Học viện đã tổ chức Hội thảo luận, nghiệm thu và sử dụng các công
trình nghiên cứu trong giảng dạy và học tập.
Nhưng trên thực tế thì hoạt động khoa học nói chung, trong đó có
nghiên cứu khoa học nói riêng vẫn chưa được các đơn vị, các cấp quản lý
nhận thức đúng và đầy đủ về tầm quan trọng của nó vì một số nguyên nhân
sau:
- Chậm ra quyết định về các nhiệm vụ và phân bổ kinh phí nghiên cứu
khoa học hằng năm.
- Việc tổ chức tuyển chọn, tư vấn để Giám đốc ra Quyết định cũng như Vô
Quản lý khoa học ký hợp đồng với chủ nhiệm và cơ quan chủ trì đề tài chậm.
- Chậm nép sản phẩm cho cơ quan quản lý.
- Chậm tổ chức nghiệm thu.
- Chậm hoàn thiện sản phẩm sau khi đã nghiệm thu để nép cho các cơ
quan quản lý Nhà nước.
1.3.1.5. Hoạt động đối ngoại của Học viện 1.3.1.5. Ho¹t ®éng ®èi
ngo¹i cña Häc viÖn
- Học viện hàng năm có ký kết các văn bản hợp tác với các trường
Đảng các nước XHCN trước đây như: Liên Xô, Cộng hoà dân chủ Đức, Ban
Lan, Tiệp Khắc, Mông Cổ …để gửi cán bộ đi học hỏi kinh nghiệm, bồi dưỡng
lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin như ở Đồng thời kết hợp với các Đảng
Cộng sản các nước xã hội chủ nghĩa nghiên cứu những vấn đề của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Đảng cộng
sản.

- Đào tạo bồi dưỡng lý luận cho các cán bộ trung cao cấp của Đảng
nhân dân cách mạng Campuchia và Đảng nhân dân cách mạng Lào.
1.3.1.6. Giúp các Học viện Chính trị khu vực, các trường Đảng tỉnh,
thành, đặc khu về phương pháp, nội dung giảng dạy, giáo trình, giảng viên.
Với chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh đã được nêu ở chương I. Trong suốt quá trình lịch sử xây
dựng và phát triển Học viện đã sản sinh ra nhiều loại tài liệu đa dạng, phong
phú phản ánh chức năng, nhiệm vụ của Học viện.
1.4. THÀNH PHẦN, NỘI DUNG, Ý NGHĨA TÀI LIỆU LƯU TRỮ CỦA
PHÔNG LƯU TRỮ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
1.4.1. Thành phần, nội dung tài liệu lưu trữ của Phông lưu trữ Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được thành lập từ tháng 9
năm 1949 đến nay hoạt động trên 57 năm liên tục, với chức năng nhiệm vụ là
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận và cán bộ quản lý cho Đảng và Nhà nước
và các đoàn thể chính trị xã hội; nghiên cứu khoa học, hướng dẫn nghiên cứu
và biên soạn lịch sử Đảng cho các Ban, ngành Trung ương và địa phương; chỉ
đạo và hướng dẫn nội dung giảng dạy, nghiên cứu cho các Trường chính trị
Tỉnh. Học viện đã sản sinh ra các loại văn bản phản ánh chức năng, nhiệm vụ
được Đảng và Nhà nước giao, phản ánh quá trình hoạt động quản lý hành
chính của Học viện qua các thời kỳ từ năm 1949 đến năm 2006.
1.4.1.1. Thành phần tài liệu lưu trữ trong Phông Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh
- Tài liệu hành chính: là tài liệu chủ yếu, các văn bản quy phạm pháp
luật như: Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư (do cơ quan cấp
trên gửi), Quyết định, Quy chế và các văn bản thông thường như: báo cáo, tờ
trình, kế hoạch, công văn, giấy đi đường, giấy mời (do Học viện sản sinh ra).
- Tài liệu nghiên cứu khoa học:
+ Thông báo các cuộc họp của Hội đồng khoa học về các hoạt động
khoa học và báo cáo tổng kết công tác của Hội đồng khoa học.

+ Nghị quyết, quy chế, thông báo của Trường Đảng cao cấp, Học viện
Nguyễn Ái Quốc về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, lề lối làm việc của Hội
đồng khoa học Học viện, Hội đồng khoa học các Vụ, Viện; Hội đồng đánh giá
nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học.
+Tài liệu về hồ sơ các hội thảo khoa học và các đề tài nghiên cứu bao
gồm: Hồ sơ về việc xuất bản các tác phẩm kinh điển, văn kiện Đảng và sách
Hồ Chí Minh Học viện Nguyễn ái Quốc tham gia Hội đồng, hồ sơ Hội nghị
khoa học: Gợi ý nội dung đề tài nghiên cứu, chương trình, các bài tham luận
tại Hội nghị; các bài tham luận, ý kiến kết luận hội nghị; hướng dẫn nghiên
cứu chuẩn bị hội nghị, lời khai mạc, bế mạc.
+ Chương trình, báo cáo, công văn về các cuộc hội thảo, đề tài nghiên
+ Luận án tiến sỹ, luận văn cao học của học viên.
+ Khoá luận tốt nghiệp đại học, cao cấp lý luận chính trị của học viên.
- Tài liệu phim, ảnh, ghi âm.
1.4.1.2. Nội dung tài liệu lưu trữ trong Phông Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh
- Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo chung gồm các tài liệu của Học viện,
các đơn vị của Trung tâm Học viện, tài liệu từ các cơ quan trung ương gửi
đến.
- Công tác đào tạo gồm tài liệu về công tác đào tạo của Trung tâm Học
viện , các Học viện Chính trị khu vực về công tác giảng dạy, học tập và quản
lý học viện. Hồ sơ các líp học.
- Công tác nghiên cứu khoa học của Học viện.
- Công tác đối ngoại gồm các tài liệu về ký kết hợp tác và quan hệ với
các nước trên thế giới.
- Công tác chỉ đạo hệ thống các trường chính trị tỉnh, thành phố bao
gồm tài liệu về hướng dẫn chỉ đạo các mặt hoạt động của các trường.
- Công tác tổ chức cán bộ gồm các tài liệu về công tác tổ chức bộ máy,
biên chế, tài liệu về công tác cán bộ, tài liệu về phong học hàm, học vị.

×