Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

báo cáo thực tập tổng hợp tại viện máy và dụng cụ công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.42 KB, 61 trang )

Phần một
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ QUẢN
LÝ TẠI VIỆN MÁY VÀ DỤNG CỤ CÔNG NGHIỆP
1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Viện
Viện máy và dụng cụ công nghiệp (IMI – Institute for Machinery and
Industrial Instruments) là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực khoa
học công nghệ, theo mô hình công ty mẹ - công ty con, thuộc tổng công ty Máy và
thiết bị công nghiệp, Bộ công nghiệp. Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển,
Viện đã khẳng định vị trí đầu nghành trong lĩnh vực máy công nghiệp của cả nước
và có uy tín lớn trong thị trường khu vực và quốc tế. Hiện nay Viện là doanh nghiệp
vừa với số vốn trên 60 tỷ đồng và trong những năm tới sẽ mở rộng quy mô sản xuất
để trở thành một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn.
Lịch sử hình thành và phát triển hơn 30 năm của Viện máy và dụng cụ công
nghiệp đã trải qua các giai đoạn sau:
1.1.1.Thời kỳ 1962 – 1973
Sau ngày hoà bình lập lại, nghành công nghiệp nặng được coi là nghành kinh
tế then chốt để phát triển nền kinh tế đất nước. Nhận thức được vai trò của ngành
máy công cụ trong đường lối ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ngày 20/08/1970
Bộ Cơ khí và Luyện kim đã quyết định chuyển Phòng thiết kế máy công cụ thuộc
Viện thiết kế chế tạo cơ khí ( sau đổi tên thành Viện Thiết kế máy công nghiệp –
nay là viện Nghiên cứu cơ khí) thành Phân viện Thiết kế máy công cụ trực thuộc
Viện thiết kế Máy công nghiệp.
Trong thời kỳ này, Bộ Cơ khí và Luyện kim chủ trương thành lập nhóm nhà
máy sản xuất máy công cụ mà nòng cốt là Nhà máy Cơ khí Hà Nội. Theo đề nghị
của Giám đốc Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Bộ đã quyết định chuyển Phân viện Thiết
kế máy công cụ sang trực thuộc Nhà máy cơ khí Hà Nội.
Do những thành tích lao động vuợt bậc, tự khẳng định vị trí của mình trong
nền công nghiệp, ngày 23 tháng 5 năm 1973, Bộ Cơ khí và Luyện kim đã thành lập
Phân viện Nghiên cứu thiết kế máy công cụ trực thuộc Bộ Công nghiệp. Đây là mốc
lịch sử quan trọng của Viện và trở thành ngày khai sinh của Viện máy và dụng cụ
công nghiệp ngày nay.


1.1.2.Thời kỳ 1973 – 1979
Những ngày đầu mới thành lập, Phân viện Thiết kế máy công cụ chỉ gồm 79
cán bộ công nhân viên, trong đó có 3 phó tiến sĩ, 38 kỹ sư, cơq sở vật chất còn
nghèo nàn, lạc hậu, máy móc thiết bị hầu như không có gì. Tuy đã thành lập nhưng
Phân viện chưa có con dấu và tài khoản riêng kể từ ngày 20/02/1974.
Trong giai đoạn này, Phân viện đã thiết kế và sản xuất mẫu máy cắt kim loại,
rèn ép, máy gia công gỗ,… cho hầu khắp các cơ sở gia công cơ khí và các nhà máy
cơ khí trong cả nước, đặc biệt là sau khi tiếp thu, nghiên cứu các máy công cụ của
một số nước Âu, Mỹ trên dịa bàn Sài Gòn, Nha Trang,… sau ngày đất nước thống
nhất.
Nhận thấy hoạt động với tính chất một “phòng thiết kế tổng hợp” không còn
phù hợp, ngày 27/01/1977, Phân viện đã thành lập các phòng, ban chuyên nghành
với 6 phòng, ban và bắt tay xây dựng xưởng chế thử. Ngày 15/08/1978, Xưởng chế
thử đã chính thức được thành lập phục vụ đắc lực cho công tác nghiên cứu, thiết kế
và chế tạo thử máy công cụ. Năm 1979, Phân viện đẩy mạnh công tác nghiên cứu
khoa học và xúc tiến mạnh mẽ các hoạt động hợp tác đối ngoại về khoa học kĩ
thuật, nhất là trong lĩnh vực chế tạo máy.
Sau gần 10 năm bền bỉ phấn đấu xây dựng Phân viện lớn mạnh, ngày
17/03/1979, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Viện máy công cụ và
dụng cụ trực thuộc Bộ Cơ khí và Luyện kim, tổ chức trên cơ sở Phân viện nghiên
cứu thiết kế máy công cụ. Đây là giai đoạn đánh dấu sự trưởng thành vuợt bậc của
Viện, vững vàng bước sang thời kỳ mới, đặt nền tảng cho sự phát triển lâu dài bền
vững.
1.1.3.Thời kỳ 1979 – 1985
Để chăm lo cho sự phát triển lâu dài,song song với việc xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, Viện đã có kế hoạch từng bước đào tạo đội ngũ, gửi cán bộ đi đào tạo
ở nước ngoài. Trình độ năng lực của cán bộ không ngừng được nâng cao.
Không chỉ bó hẹp hoạt động khoa học công nghệ kinh phí hành chính sự
nghiệp, lãnh đạo Viện quyết định hướng hoạt động của Viện theo mô hình Nghiên
cứu - Sản xuất – Kinh doanh. Viện đã mở hướng phục hồi sửa chữa máy công cụ và

dụng cụ hư hỏng trong chiến tranh để một mặt tự trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
cho mình, mặt khác kinh doanh dịch vụ, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân
viên và tạo thêm vốn để xây dựng cơ sở vật chất lâu dài, xây dựng cơ sở mới của
Viện.
Thời kỳ này, Viện đã thành lập nhiều phòng, ban chuyên nghành đáp ứng
yêu cầu chuyển hướng và mở rộng phạm vi hoạt động. Đến cuối năm 1985 toàn
Viện có 15 phòng, ban chuyên nghành, nghiên cứu và sản xuất gần 30 công trình và
sản phẩm máy và thiết bị công nghiệp, với 188 cán bộ công nhân viên. Cũng trong
thời kỳ này, Viện đã được nhận viện trợ trực tiếp của Tiệp Khắc để xây dựng
Phòng thí nghiệm trị giá 0,9 triệu USD và Dự án Trung tâm dịch vụ kỹ thuật máy
công cụ trị giá 1 triệu USD của Liên Xô (cũ). Đây là thời kỳ rất quan trọng đặt cơ
sở cho sự phát triển bền vững của Viện sau này.
1.1.4.Thời kỳ 1985 – 1991
Sau hơn 10 năm phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất, tháng 10 năm 1985, Viện
đã chuyển sang địa điểm mới là 34 (nay là 46) Láng Hạ. Thời kỳ này, từ chỗ sản
xuất mẫu đơn chiếc và phục hồi sửa chữa máy công cụ, Viện đã mở rộng sang tổ
chức sản xuất công nghiệp các sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường. Sản
xuất của Viện thời kỳ này có sự tăng trưởng bùng nổ, Viện có cả nguồn thu ngoại tệ
bằng sản phẩm xuất khầu tại chỗ cho UNICEF trong chương trình nước sạch nông
thôn, mở rộng thị trường của Viện cả trong và ngoài nước, tạo tiềm năng dồi dào để
phục vụ nghiên cứu khoa học, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Bên cạnh việc phát huy có hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước và tiềm lực tự
có của mình, Viện còn tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài, xây dựng và bảo vệ
thành công Dự án chuyển giao công nghệ thiết kế và chế tạo khuôn mẫu do UNDP
tài trợ trị giá 1,72 triệu USD. Đây là một sự cố gắng lớn của tập thể lãnh đạo Viện,
góp phần hoàn thiện tiêm lực vật chất của Viện và quan trọng hơn là đặt cơ sở vững
chắc cho việc tiếp cận và làm chủ các công nghệ cao trong chế tạo máy – công nghệ
CDA, CAM, CNC. Trong bối cảnh nghành cơ khí còn nhiều khó khăn, trình độ
công nghệ còn lạc hậu, Viện đã mạnh dạn đầu tư nghiên cứu ứng dụng máy vi tính
vào điều khiển máy công cụ, tạo tiền đề cho bước phát triển mới của Viện.

Thời kỳ 1985 – 1991 đánh dấu một bước phát triển mới của Viện. Viện đã
hoàn thành khối lượng xây dựng cơ bản lớn nhất và đạt mức tăng trưởng rất cao. Từ
năm 1985 đến năm 1989, bình quân mức tăng trưởng đạt từ 243%, nộp ngân sách
tăng 436%, lợi nhuận tăng 322%.Đến cuối năm 1990, Viện đã tạo dựng được những
điều kiện vật chất, kỹ thuật đáng kể như nhà làm việc 5 tầng, phòng thí nghiệm ,
trung tâm bảo hành máy công cụ, nhà tập thể cho cán bộ công nhân viên, xây dựng
được một đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có trình độ và tâm huyết với nghành
cơ khí. Đó là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lâu dài và bền vững của
Viện IMI sau này.
1.1.5.Thời kỳ 1991 – 1995
Đây là thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường. Từ năm 1991, Viện được về trực thuộc Tổng công ty Máy và
Thiết bị công nghiệp và phải chuyển hẳn sang cơ chế tự hạch toán, không được bao
cấp quỹ lương và các chi phí khác. Để tạo thế ổn định, đứng vững và phát triển phù
hợp với tình hình trong giai đoạn chuyển đổi, Viện đã từng bước thực hiện sắp xếp,
kiện toàn, đổi mới cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý, chuyên môn nghiệp vụ và thành
lập nhiều trung tâm, phòng ban chức năng quan trọng như trung tâm, phòng ban
chức năng quan trọng như trung tâm Chuyển giao công nghệ, phòng Marketing,
trung tâm Điều độ và hỗ trợ sản xuất, văn phòng đại diện tại Mascơva,… Với quyết
tâm tự đầu tư với phong cách làm ăn lớn, Viện đã mở rộng phạm vi hoạt động của
mình sang cả lĩnh vực thiết bị công nghiệp, hoá nhiệt, môi trường.
Để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong tình hình mới, nhằm mở
rộng phạm vi và quy mô hoạt động của Viện, ngày 26/06/1993. Bộ Công nghiệp
nặng đã ra quyết định số 380/QĐ/TCNSĐT, đổi tên Viện thành Viện nghiên cứu,
thiết kế, chế tạo máy và dụng cụ công nghiệp, gọi tắt là Viện máy và dụng cụ công
nghiệp (IMI). Với chức năng và nhiệm vụ mới, Viện đã tổ chức,chỉ đạo các đơn vị
triển khai mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu ứng dụng, thiết kế chế tạo thiết bị đồng
bộ, dây chuyền sản xuất công nghiệp và xử lý môi trường.
Với 19 phòng ban và xưởng chế thử, Viện đã trở thành một trong những cơ
sở mạnh với mô hình đầy đủ: Nghiên cứu, thiết kế - Sản xuất kimh doanh – Đào tạo

và thực hiện các hợp đồng kinh tế trên khắp các miền của đất nước.
Bên cạnh việc đẩy mạnh các hoạt động khoa học và kỹ thuật trên nhiều lĩnh vực
công nghiệp, Viện cũng chăm lo mở rộng quan hệ đối ngoại về khoa học công nghệ
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhằm vuơn tầm hoạt động xa hơn,
tạo tiền đề cho những sản phẩm của Viện có tính cạnh tranh lớn.
1.1.6. Thời kỳ 1996 – nay
Đây là thời kỳ đổi mới và phát triển, Viện IMI đã xác định một hướng đi
mới, đó là mục tiêu khoa học phục vụ thị trường, kết quả nghiên cứu được gắn kết
với thực tế sản xuất, chuyển mô hình nghiên cứu từ cấp trên giao sang mô hình
nghiên cứu phục vụ thị trường với những sản phẩm công nghệ cao, đông thời phát
triển các loại hình đào tạo nhằm phát triển năng lực cán bộ khoa học công nghệ và
theo kịp tiến trình phát triển khoa học công nghệ của thế giới. Mô hình: Nghiên cứu
thị trường - nhiệm vụ nghiên cứu - Hợp tác quốc tế ứng dụng công nghệ mới –
Thiêt kế các sản phẩm công nghệ cao - Sản xuất thử - Sản xuất công nghiệp – Thị
trường đã trở thành quan điểm chủ đạo trong hoạt động khoa học công nghệ của
Viện thời kỳ đổi mới.
Ngày 08/02/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 139/QĐ-TTg và
ngày 18/12/2002 Bộ trưởng Bộ Công nghiệp ra quyết định số 56/2002/QĐ-BCN,
cho phép Viện máy và dụng cụ công nghiệp chuyển đổi thành doanh nghiệp hoạt
động khoa học và công nghệ trực thuộc Bộ Công nghiệp và tổ chức lại thành Công
ty mẹ - Công ty con. Với những quyết định này, Viện máy và dụng cụ công nghiệp
là viện nghiên cứu đầu tiên của cả nước được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí
điểm mô hình kinh tế mới, nhằm đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo
điều kiện gắn kết nghiên cứu với đào tạo và sản xuất, chuyển giao nhanh những kết
quả nghiên cứu vào sản xuất, xúc tiến thi trường khoa học và công nghệ, phát triển
các công ty sản xuất các sản phẩm công nghệ cao trong cả nước. Viện đã tiến hành
chuyển giao công nghệ và sản phẩm mới để thành lập các công ty cổ phần, doanh
nghiệp Nhà nước trực thuộc Viện, thực hiện nhiệm vụ đưa kết quả nghiên cứu vào
sản xuất công nghiệp. Viện thành lập và tiếp nhận các công ty khác làm công ty
thành viên.

Sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện cơ chế của Viện máy
và dụng cụ công nghiệp thành doanh nghiệp hoạt động khoa học công nghệ thí
điểm mô hình Công ty mẹ - Công ty con theo Quyết định số 14/2004/QĐ-TTg ngày
29/01/2004 và Bộ trưởng Bộ Công nghiệp phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động
theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con tại Quyết định số 12/2004/QĐ-BCN ngày
24/02/2004, đến nay Viện IMI đã củng cố và phát triển được 12 đơn vị thành viên:
 03 đơn vị nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hạch toán phụ
thuộc.
 Phân viện Máy và dụng cụ công nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh, tại 275
hùng Vương quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.
 Trung tâm Chuyển giao công nghệ (CETEC), tại 46 Láng Hạ Đống Đa Hà
Nội.
 Trung tâm Tư vấn và Kỹ thuật môi trường (ECE), tại 46 Láng Hạ Đống Đa
Hà Nội.
 03 Công ty con do Viện IMI nắm giữ 100% vốn điều lệ.
 Công ty Phát triển kỹ thuật và Đầu tư (ITD), tại số 4 Vũ Ngọc Phan Đống Đa
Hà Nội.Công ty ITD là công ty được thành lập trên cơ sở quyết định
68/1998/QĐ-TTg ngày 27/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho
phép thành lập thí điểm Doanh nghiệp Nhà nướ c trong các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu.
 Công ty Điện tử công nghiệp (CDC) trụ sở đặt tại 444 Bạch Đằng Hoàn
Kiếm Hà Nội là đơn vị thành viên của Tổng công ty Điện tử và tin học Việt
Nam được chuyển về làm thành viên thuộc Viện IMI từ tháng 12/2003 theo
quyết định số 181/2003/QĐ-BCN ngày 12/11/2003 của Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp.
 Công ty Máy và Thiết bị Công nghiệp 1/5 (1/5 IMI) trụ sở đặt tại 326 Hai Bà
Trưng Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng là đơn vị trực thuộc UBND thành
phố Hải Phòng được chuyển về làm thành viên thuộc Viện IMI từ tháng
12/2004 theo quyết định số 3556 QĐ/UB ngày 27/12/2004 của UBND thành
phố Hải Phòng và quyết định số 64/2005/QĐ-BCN ngày 10/01/2005 của Bộ

trưởng Bộ Công nghiệp .
 02 công ty con đa sở hữu do Viện IMI nắm giữ cổ phần chi phối (51%)
 Công ty cổ phần Khuôn mẫu và máy CNC (PTM) : Công ty PTM trước đây
là Công ty CP Khuôn mẫu chính xác và nhựa kỹ thuật (PTP) được thành lập
từ tháng 9/2001, có trụ sở tại Kim Lũ, Đại Kim, Thanh Trì, Hà Nội. Vốn
điều lệ 13 tỷ đồng.
 Công ty TNHH Kim Hoa được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng
10/2003, có trụ sở tại số 4 Vũ Ngọc Phan, Hà Nội.Vốn điều lệ 1 tỷ đồng.
 04 công ty liên kết do Viện IMI góp vốn và chi phối bằng bản quyền công
nghệ.
 Công ty cổ phần Xây dựng và Thiết bị công nghiệp (CIE) trụ sở tại Nhân
Chính Thanh Xuân hà Nội. Công ty đượ tiếp nhậnchuyển giao công nghệ sản
xuất trạm trộn bê tông tự động và cân đóng bao điện tử của Viện IMI . Vốn
điều lệ 10,2 tỷ đồng.
 Công ty cổ phần Công nghệ cao (HITECHCO) trụ sở tại Khu Công nghiệp
Biên Hoà I Tỉnh Đồng Nai. Công ty được tiếp nhận chuyển giao công nghệ
sản xuất thiết bị chế biến nông sản xuất khẩu, công nghệ chế tạo máy công
cụ điều khiển CNC của Viện IMI. Vốn điều lệ 5 tỷ đồng.
 Công ty TNHH Phong Nam (FOLIN), tại Khu Công nghiệp Quang Minh
tỉnh Vĩnh Phúc. Công ty FOLIN gia nhập IMI HOLDING từ năm 2003 với
mức vốn đóng góp bằng 5% trong tổng số vốn điều lệ 6 tỷ đồng.
 Công ty cổ phần Thiết bị lạnh kỹ thuật số (DIREA), tại khu Công nghiệp
Quang Minh tỉnh Vĩnh Phúc. Vốn điều lệ 15 tỷ đồng.
1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.1.Lĩnh vực và chức năng chủ yếu của Viện máy và dụng cụ công nghiệp
Trải qua hơn 30 năm phấn đấu, Viện máy và dụng cụ công nghiệp đã dần
khẳng định vị trí của mình ở trong nước cũng như trong khu vực và trên thế giới.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá - hiện đài hoá đất nước, Viện ngày càng mở
rộng quy mô và phạm vi hoạt động: không chỉ bó hêpj trong nghiên cứu chế tạo
máy công cụ mà còn mở rộng ra sản xuất công nghiệp các sản phẩm công nghệ cao,

cung cấp các dịch vụ khoa học công nghệ, đào tạo các cán bộ khoa học công nghệ;
không chỉ bó hẹp trong phạm Viện IMI đề tài Nhà nước giao mà còn chủ đọng tìm
kiếm thị trường để sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường; không chỉ có thế
mạnh trong thị trường trong nước mà còn có uy tín lớn trong khu vực và trên thế
giới.
Nhiệm vụ và chức năng chủ yếu của Viện hiện nay là nghiên cứu, triển khai
dịch vụ khoa học công nghệ và chế tạo, bao gồm các lĩnh vực sau:
• Thực hiện các đề tài nghiên cứu, triển khai và thiết kế chế tạo máy và dụng
cụ công nghiệp, công nghệ tự động hoá thuộc cấp Nhà nước, cấp Bộ, cơ sở,

• Thiết kế chế tạo máy, lắp đặt vận hành các thiết bị dây chuyền toàn bộ, thiết
bị môi trường cho các cơ sở trong và ngoài nước.
• Thiết kế chế tạo các loại dụng cụ khuôn mẫu, các loại cân điện tử, thiết bị
định lượng tự động và bán tự động cho các nghành công nghiệp.
• Biên soạn các tiêu chuẩn Nhà nước và ngành trong lĩnh vực chế tạo máy
công cụ.
• Dịch vụ tư vấn trang thiết bị công nghiệp và chuyển giao công nghệ.
• Thực hiện hợp tác khoa học công nghệ, liên doanh liên kết trong sản xuất
kinh doanh với các tổ chức trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực máy và
thiết bị công nghiệp, bảo vệ môi trường.
• Đào tạo chuyên gia trong lĩnh vực tự động hóa và công nghệ cao.
• Triển khai ứng dụng kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất.
• Thử nghiệm những mô hình quản lý, tổ chức sản xuất mới theo định hướng
của Nhà nước.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất và quy trình công nghệ.
1.2.2.1. Đặc điểm sản phẩm và thị trường kinh doanh của Viện.
Hiện nay Viện IMI là tổ chức KHCN đầu tiên ở Việt Nam đã thành công
trong việc chuyển đổi nội dung nghiên cứu Cơ khí thuần tuý sang Mechatronics.
Viện đã nghiên cứu thiết kế và chế tạo thành công cụm sản phẩm Cơ điện tử với 51
sản phẩm công nghệ cao. Các sản phẩm này đã được ứng dụng rộng rãi trong sản

xuất khắp mọi miền đất nước.60% sản phẩm này đã được chuyển giao cho sản xuất
để thành lập các công ty sản xuất công nghệ cao (các công ty con của Viện IMI). Từ
đó xây dựng mô hình mới: Doanh nghiệp KHCN có vai trò công ty mẹ nhằm gắn
nghiên cứu với sản xuất. Các sản phẩm này đã tạo ra cho Viện IMI và các công ty
thành viên trên 600 tỷ đồng hợp đồng kinh tế mỗi năm, động thời tiết kiệm được
gần chục triệu USD/năm cho đất nước do thay thế nhập khẩu.
Cụm công trình nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ điện tử cho công
nghiệp của Viện IMI là một trong 12 công trình đã được Nhà nước trao tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về KHCN.
Các sản phẩm Mechatronics do Viện IMI nghiên cứu, thiết kế và chế tạo:
i. Nhóm sản phẩm cơ điện tử trong lĩnh vực máy công cụ.
Viện IMI đã xây dựng giải pháp tổng thể trong thiết kế chế tạo máy công cụ
CNC: Thiết kế chế tạo cơ khí kết hợp với tích hợp CDA/CAM/CNC để tạo ra các
sản phẩm máy CNC như máy phay F4025-CNC, tiện CNC (T20-CNC, tiện băng
nghiêng), máy cắt kim loại tấm CNC, máy hàn lồng thép CNC, máy cắt laser C02
CNC. Các sản phẩm này đã trở thành thương phẩm của Viện IMI, có giá trị nội sinh
cao (chiếm từ 50% - 70%), Có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đóng góp thúc
đẩy phát triển các ngành công nghiệp liên quan như cơ khí chế tạo, công nghiệp
đóng tàu, công nghiệp xây dựng…
Đặc biệt trong năm 2005, Viện IMI đã xuất khẩu, cung cấp thiết bị (máy cắt
thép tấm CNC) cho các đơn vị nước ngoài tại Băngladesh, Thái Lan,…mở ra khả
năng xuất khẩu máy CNC mang thương hiệu Việt Nam ra Nước ngoài.
ii. Nhóm sản phẩm cơ điện tử phục vụ ngành chế biến nông sản:
Xuất phát từ nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ xuất khẩu thông
qua khâu chế biến, Viện IMI đã chủ động xây dựng và nghiên cứu thành công máy
phân loại quang-cơ điện tử cho dây chuyền chế biến cà phê và gạo xuất khẩu. Việc
tích hợp kỹ thuật quang-số-điện tử-xử lý ảnh tự động đã tạo ra các loại máy quang-
cơ điện tử mang thương hiệu IMI (đạt chất lượng tương đương sản phẩm nhập
ngoại) có giá trị nội sinh đến 80% giá trị sản phẩm.
iii. Nhóm sản phẩm Cơ điện tử phục vụ nghành Xây dựng và Giao thông vận tải:

Viện đã xây dựng các đề tài nghiên cứu KHCN để thiết và chế tạo các thiết
bị Cơ điện tử trong ngành máy Xây dựng. Việc sử dụng kỹ thuật định lượng điều
khiển lập trình đa thành phần + tự động hoá thuỷ khí đã tạo ra những thiết bị tự
động để trộn beton, xi măng 30-150m3/h, trộn beton nhựa nóng và bơm beton. Đây
là nhóm sản phẩm đem lại sản lượng cao nhất cho Viện IMI, có giá trị nội sinh
chiếm hơn 90% giá trị sản phẩm, có chất lượng tương đương nhưng giá thành nhỏ
hơn 30% giá nhập ngoại.
iv. Nhóm sản phẩm Cơ điện tử trong lĩnh vực đo lường công nghiệp:
Gồm các sản phẩm phục vụ công tác đo lường, định lượng cho tất cả các
ngành kinh tế quốc dân. Viện IMI đã đầu tư nghiên cứu các phương pháp tích hợp
hệ thống cảm biến điện tử-cơ khí + công nghệ phần mềm để thiết kế chế tạo thành
công các sản phẩm cân tàu hoả tự động, cân đóng bao tự động, cân ôtô….Các sản
phẩm này mang thương hiệu của IMI với giá trị nội sinh hơn 50% giá trị sản phẩm,
có đọ chính xác cao, độ tin cậy tương đương với sản phẩm cùng loại của nước ngoài
nhưng giá thành rẻ hơn 50% sản phẩm nhập ngoại.
v. Nhóm sản phẩm Cơ điện tử phục vụ ngành xử lý và bảo vệ môi trường:
Viện IMI nhận thức được rằng mọi vấn đề phát triển công nghiệp đều phải
gắn liền với giải pháp xử lý môi trường, do vậy Viện đã đầu tư nghiên cứu các giải
pháp thân thiện với môi trường đặc biệt trong lĩnh vực xử lý khí thải. Những hệ
thống lọc bụi túi, lọc bụi tĩnh điện có khả năng giám sát và điều khiển tự động quá
trình được thiết kế và chế tạo bởi Viện IMI đang hoạt động có hiệu quả tại các nhà
máy (cán thép, Gia sàng, Nhà Bè, Đà Nẵng, Tổng công ty xi măng…), đó là những
sản phẩm mang bí quyết công nghệ của IMI với giá trị nội sinh gần 90% giá trị sản
phẩm.
Những sản phẩm này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho Viện IMI với số
liệu tăng trưởng về tổng giá trị hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất hàng năm: năm 1998: 44,5 tỷ; 1999: 52,5 tỷ ; năm 2000 Viện IMI và công ty
CIE đạt 98,7 tỷ đồng; năm 2001 Viện IMI, công ty CIE và công ty PTM đạt 198 tỷ
đồng; năm 2002 Viện IMI, công ty CIE, công ty PTM đạt 240 tỷ đồng; năm 2003
Viện IMI với các công ty thành viên đạt 612 tỷ đồng; năm 2004 Viện IMI với các

công ty thành viên đạt 632 tỷ đồng; năm 2006 Viện IMI và các công ty thành viên
đạt 780 tỷ đồng; dự kiến năm 2007 sản lượng của IMI Holding đạt trên 800 tỷ đồng.
Viện IMI đang đẩy mạnh triển khai hoạt động khoa học công nghệ và sản xuất kinh
doanh theo định hướng phát triển Viện IMI đến năm 2010 nhằm tạo ra nhiều sản
phẩm đột phá đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và tiến tới xuất khẩu.
1.2.2.2. Đặc điểm sản xuất và quy trình công nghệ
Viện máy và dụng cụ công nghiệp sản xuất theo các đơn đặt hàng, mỗi đơn
đăt hàng có thể là một loại sản phẩm hay thiết bị, một công trình, hạng mục công
trình,…khác nhau, gọi chung là sản phẩm.Các sản phẩm thường có giá trị lớn kich
thước lớn, việc nghiên cứu chế tạo, sản xuất thường diễn ra trong một thời gian dài
và được đặt mua trước khi sản xuất thông qua đấu thầu. Quá trình từ khi đấu thầu
đến bàn giao sản phẩm và kết thúc bảo hành diễn ra như sau:
Đấu thầu sản phẩm: Khi một đơn vị, tổ chức có nhu cầu về một sản phẩm
công nghệ cao, đơn vị hay tổ chức đó sẽ tiến hành mời thầu. Căn cứ vào lĩnh vực,
điều kiện và khả năng của mình, các trung tâm phụ trách ngành tương ứng sẽ trực
tiếp hoặc được lãnh đạo Viện giới thiệu tham dự mời thầu. Sau khi đăng kí dự thầu,
trung tâm tiến hành lập dự toán chi phí đấu thầu.
Dự toán chi phí đấu thầu được lập trên cơ sở tổng hợp thông tin về chi phí
sản xuất, vận chuyển, lắp đặt, bàn giao,…và cả chi phí rủi ro, chi phí cơ hội. Đối
với các sản phẩm mới chưa từng được sản xuất tại Viện, trước khi lập dự toán,
chúng sẽ được thiết kế sơ bộ. Căn cứ vào giá dự toán này và trên cơ sở xem xét các
đối thủ cạnh tranh cùng tham gia dự thầu, trung tâm sẽ đưa ra giá thầu. Giá này phải
đưa ra đủ nhỏ để thắng thầu nhưng cũng phải đảm bảo việc sản xuất chế tạo bù đắp
được chi phí và có lãi. Việc chọn thầu của đơn vị mời thầu không chỉ căn cứ vào giá
thầu của các nhà thầu đưa ra mà còn căn cứ vào năng lực của nhà thầu (cả năng lực
tài chính, kỹ thuật, phương tiện, con người,…), vào uy tín, kinh nghiệm, chế độ bảo
hành và thời hạn cấp hang cho đơn vị mời thầu. Vì vậy, giá thầu đưa ra còn phải cân
nhắc trong mối quan hệ với các yếu tố còn lại để đạt được giá thầu cao nhất có thể,
nhằm đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Do vậy có uy tín và năng lực lớn trong lĩnh
vực máy công cụ và thiết bị công nghiệp nên thường nhận được các gói thầu trong

lĩnh vực này.
Sau khi thắng thầu, đơn vị mời thầu và Viện sẽ tiến hành kí kết hợp đồng và
Viện phải bảo lãnh thầu thông qua ngân hàng với giá trị từ 5% đến 10% giá trị gói
thầu. Việc bảo lãnh thầu nhằm đảm bảo đơn vị trúng thầu không bỏ thầu đồng thời
tạo điều kiện hỗ trợ đơn vị đặt hành trong trường hợp hợp đồng cung cấp sản phẩm
không được thực hiện.
Thiết kế sản phẩm: Đối với các sản phẩm mới chưa từng được sản xuất, chế
tạo, trung tâm sẽ tiến hành thiết kế chi tiết sản phẩm. Công việc này được hội đồng
khoa học của Viện tư vấn. Hội đồng khoa học kỹ thuật của Viện hiện nay bao gồm
23 chuyên gia trong các lĩnh vực thuộc các trung tâm khác nhau, do Viện trưởng
làm chủ nhiệm hội đồng. Đó là những người có trình độ chuyên môn cao và am
hiểu sâu sắc chuyên ngành của mình. Trong trường hợp loại sản phẩm đã từng được
thiết kế chế tạo, chúng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu đặc thù của bên
đặt hàng và xem xét trong mối quan hệ với chi phí để sản xuất.
Lập kế hoạch chi phí chế tạo, sản xuất: Việc lập kế hoạch chi phí cụ thể cho
từng giai đoạn và bộ phận này được đặc biệt quan tâm nhằm giúp chủ nhiệm đề tài
và lãnh đạo Viện theo dõi, kiểm tra được chi phí đồng thời có sự chỉ đạo kịp thời để
đảm bảo việc thiết kế, chế tạo và sản xuất đúng tiến độ, đạt tiêu chuẩn chất lượng
với chi phí không ngừng tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Chế tạo và sản xuất sản phẩm: Căn cứ vào thiết kế và kế hoạch sản xuất,
trung tâm tiến hành chế tạo và sản xuất sản phẩm. Do mỗi sản phẩm có một đặc thù
riêng nên quy trình sản xuất của các sản phẩm cũng có sự khác biệt.
Trong báo cáo tỏng hợp này, em chỉ xin đề cập đến quy trình sản xuất của
trạm trộn bê tông - một sản phẩm nổi tiếng của trung tâm Chuyển giao công nghệ -
làm ví dụ.
Do trạm có cáu tạo phức tạp, gồm nhiều bộ phận cấu thành và việc sản xuất các bộ
phận không phụ thuộc nhiều vào nhau nên quy trình chế tạo tram trộn là quy trình
song song và được khái quát qua sơ đồ 1.
Sơ đồ 1- Sơ đồ quy trình sản xuất trạm trộn bê tông.
Bàn giao và bảo hành: Viện chỉ tiến hành bảo hành trong trường hợp có lỗi

kỹ thuật do mình gây ra. Do đặc tính của sản phẩm là sản phẩm công nghệ cao và
đặc thù, chủ yếu là sản phẩm đơn chiếc nên sau khi bàn giao, Viện con cung cấp các
phụ tùng thay thế,…
1.3. Đặc điểm bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh
1.3.1.Cơ cấu quản lý theo chức năng
Để phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh, với đường lối mới và sự
phát triển đất nước cũng như thích ứng với cơ chế thị trường, Viện đã có nhiều sự
thay đổi, sắp xếp, cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý theo hướng tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, gắn với nhu cầu thi trường. Hiện nay, toàn Viện có 10 trung tâm chức
năng với các xưởng chế tạo và sản xuất trực thuộc trung tâm, 3 phòng ban, 1 phân
viện trong thành phố Hồ Chí Minh và 7 công ty con.
Các trung tâm của Viện có chức năng và nhiệm vụ đặc trưng, có tính độc lập
nhất định trong việc tìm kiếm thị trường nhưng hạch toán phụ thuộc Viện, trong đó
có 8 trung tâm nghiên cứu, sản xuất và 2 trung tâm khác. Các trung tâm chịu trách
nhiệm về kỹ thuật, chất lượng, tiến độ hợp đồng được giao hoặc do trung tâm tự tìm
kiếm. Các trung tâm của Viện bao gồm 10 trung tâm như sơ đồ 2.
Chế tạo
hệ thống
cấp liệu

chuyển
liệu
Chế tạo
các hệ
thống
cân và
các đầu
đo
Chế tạo
Cối

trộn và
cửa xả
Chế tạo
bộ khung
của trạm
Chế tạo
hệ thống
điều
khiển
Lắp đặt, nghiệm thu
Hướng dẫn vận hành
Các phòng ban bao gồm: Phòng tài chính kế toán, phòng kế hoạch tổng hợp
và phòng quản trị. Các phòng ban này là nền tảng duy trì hoạt động chung của toàn
Viện.
Phân viện máy và dụng cụ công nghiệp đặt tại thành phố Hồ Chí Minh, có
chức năng và nhiệm vụ tương tự Viện, hạch toán kết quả kinh doanh riêng, chịu sự
quản lý của Viện, định kỳ gửi báo cáo ra trụ sở chính để tính kết quả kinh doanh
của toàn Viện. Phân viện có quy mô nhỏ, tương đương một trung tâm của Viện.
Các công ty con của Viện được hình thành trên cơ sở Viện là thành viên hội
đồng quản trị, Viện góp vốn, chuyển giao kỹ thuật công nghệ. Việc chuyển giao
công nghệ để thành lập các công ty mới được thực hiện theo 4 nội dung sau:
 Chuyển giao Lixăng, bao gồm chuyển giao bản quyền sở hữu công
nghiệp,chuyển giao bản vẽ kỹ thuật và chuyển giao bí quyết công nghệ.
 Đào tạo và cung cấp cán bộ khoa học công nghệ, nhằm đảm bảo tính liên tục,
đáp ứng tính động của sản phẩm. Các cán bộ kỹ thuật chủ chốt có hiểu biết
sâu sắc về sản phẩm sẽ được tiếp tục đào tạo và cung cấp cho đơn vị sản xuất
kinh doanh theo quy định của hợp đồng chuyển giao.
 Chuyển giao thị trường khoa học công nghệ, nhằm đảm bảo các đơn vị tiếp
nhận chuyển giao công nghệ của Viện có điều kiện phát triển vững mạnh
ngay từ đầu. Viện chuyển giao luôn cho các đơn vị này hợp đồng kinh tế và

thi trường với giá trị ban đầu khoảng 20 tỷ đồng/năm.
 Chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật trong tương lai: đây là một nội dung rất
quan trọng nhằm đảm bảo sức cạnh tranh của sản phảm trong tương lai, liên
tục cung cấp những tiến bộ kỹ thuật mới nhất cho sản phẩm để tạo khả năng
cải tiến, nâng cấp, cạnh tranh liên tục; tạo điều kiện trao đổi cán bộ khoa học
giữa đơn vị tiếp nhận với Viện, với môi trườngKHCN, kỹ thuật cao nước
ngoài, để thực hiện quá trình đổi mới, tái đào tạo và gắn liền giữa nghiên cứu
với sản xuất.
Các công ty này hạch toán độc lập, tự chủ trong kinh doanh, Viện chỉ đóng vào
trò là thành viên góp vốn và chuyển giao công nghệ. Hiện nay, các công ty con của
Viện bao gồm:
 ITD – Công ty phát triển kỹ thuật và đầu tư
 CIE – Công ty cổ phần xây dựng và thiết bị công nghiệp
 PTM – Công ty cổ phần Khuôn mẫu và máy CNC
 CDC – Công ty điện tử công nghiệp
 HITECHCO – Công ty cổ phần công nghệ cao
 Công ty TNHH Thương mại Kim Hoa
 Công ty TNHH Phong Nam
Để đảm bảo tính độc lập tương đối của các trung tâm, đơn vị phụ thuộc đồng
thời đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất đối với các bộ phận chức năng và toàn bộ hoạt
động của Viện, bộ máy quản lý của Viện được tổ chức tập trung, thống nhất theo cơ
cấu trực tuyến. Bộ máy quản lý của Viện được khái quát qua sơ đồ 2.
Đứng đầu Viện là Viện trưởng: Viện trưởng có vị trí, thẩm quyền cao nhất
Viện, chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Bộ Công nghiệp về hoạt động của
Viện, trực tiếp lãnh đạo Viện trong mọi hoạt động: nghiên cứu, sản xuất, tài chính,
nhân sự,…
Phó Viện trưởng: giúp Viện trưởng điều hành một số lĩnh vực, chịu trách
nhiệm trước pháp luật và Viên trưởng về nhiệm vụ được phân công, uỷ quyền. Hiện
nay, Viện có 3 Phó Viện trưởng, bao gồm: Phó Viện trưởng phụ trách trung tâm
chuyển giao công nghệ, Phó Viện trưởng phụ trách trung tâm tư vấn và kỹ thuật

môi trường, và Phó Viện trưởng phụ trách các trung tâm còn lại.
Đứng đầu các trung tâm là Giám đốc trung tâm, chịu trách nhiệm trước Phó
Viện trưởng quản lý lĩnh vực về hoạt động của trung tâm, báo cáo với Phó Viện
trưởng về các mặt hoạt động của trung tâm.
Đứng đầu phân viện máy và dụng cụ công nghiệp là phân viện trưởng, chịu
trách nhiệm trướ pháp luật và Viện trưởng về mọi hoạt động của phân viện và chịu
trách nhiệm báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về Viện trưởng.
1.3.2. Hoạt động và chức năng của các phòng ban và trung tâm của Viện
Phòng Tài chính kế toán: Theo dõi kinh doanh lãi lỗ và tình hình sản xuất
của Viện thông qua các số liệu từ các trung tâm đưa lên. Từ đó phân tích tình hình
tài chính để cung cấp thông tin kinh tế tài chính chính xác và kịp thời cho ban lãnh
đạo Viện và các đối tượng sử dụng thông tin khác.
Phòng kế hoạch tổng hợp: bao gồm các bộ phận kế hoạch, tổ chức, hành
chính, văn phòng, có nhiệm vụ giúp Viện trong công tác sắp xếp, tổ chức, cải tiến
sản xuất và quản lý; đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng; điều phối, sử dụng lao động
hợp lý; tổ chức thực hiện đúng đắn các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với cán
bộ công nhân viên và các nghĩa vụ có liên quan đến công tác tổ chức, văn phòng.
Phòng quản trị: có nhiệm vụ đảm bảo môi trường hoạt động chung của toàn viện
như đảm bảo an toàn trật tự, an toàn lao động, vệ sinh, y tế.
Trung tâm thiết bị công nghiệp được thành lập tháng 7 năm 1994 từ 2 đơn
vị lớn của Viện Là phòng thiết kế máy gia công có phoi (P1) và trung tâm dịch vụ
kỹ thuật máy công cụ (P14). Lịch sử xây dựng, phát triển của trung tâm và các tiền
thân gắn bó một cách mật thiết cùng lịch sử xây dụng và trưởng thành của Viện.
Trong những năm 1973 – 1990, với chức năng chủ yếu là nghiên cứu, thiết
kế, phục hồi sửa chữa máy công cụ, phòng thiết kế gí công có phoi đã nghiên cứu,
thiết kế và đưa vào chế tạo hàng loạt sản phẩm máy công cụ, tiêu biểu là: máy
khoan cần, máy mài tròn, máy tiện vạn năng,… đồng thời phục hồi, sửa chữa được
hàng chục máy công cụ dã bị hư hỏng trong chiến tranh và nhiều máy móc khác cho
các nhà máy trong vầ ngoài nghành.
Trong thời kỳ 1991 – 1995, P1 là một trong những đơn vị đầu tiên thực hiện

các đề tài lớn, mở rộng lĩnh vực hoạt động ra ngoài phạm vi thiết kế, chế tạo các
dây chuyền thiết bị đồng bộ cho nhiều ngành công nghiệp khác như dây chuyền cán
tráng cao su, dây chuyền mặt lốp phục vụ sản xuất lốp cao su; máy vê viên, máy
trộn 2 trục, máy nghiền bi phục vụ công nghiệp sản xuất xi măng,…
Giai đoạn từ 1996 đến nay, nhiệm vụ chính của trung tâm là thiết kế, chế tạo
các sản phẩm công nghệ cao hướng mechatronics, các dây chuyền thiết bị đồng bộ
điều khiển bằng PLC và máy tính. Việc ứng dụng kỹ thuật điều khiển PLC vào dây
chuyền sản xuất công nghiệp đã tạo cho các sản phẩm của trung tâm có chỗ đứng
trên thị trường, cạnh tranh được với các sản phẩm ngoại nhập. Đặc biệt, với việc
nghiên cứu máy phân loại cà phê hạt theo mầu sắc trên cơ sở ứng dụng kỹ thuật
quang số và xử lý hình ảnh bằng máy tính đã mở ra một triển vọng to lớn trong lĩnh
vực đưa công nghiệp vào phục vụ ngành chế biến nông lâm sản - một thị trường mở
rộng và đầy tiềm năng.
Trung tâm chuyển giao công nghệ: được thành lập từ năm 1991 trên cơ sở
phòng Nghiên cứu thiết kế dụng cụ gia công kim loại và phòng Đo lường điều khiển
của Viện máy công cụ và dụng cụ, với chức năng chính sau:
• Nghiên cứu ứng dụng công nghệ tự động hóa, đo lường hiện đại trong việc
thiết kế, chế tạo các sản phẩm cơ khí phục vụ cho ngành kinh tế;
• Nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ các giải pháp kỹ thuật, công
nghệ mới;
• Tổ chức, triển khai nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước,
cấp bộ và cấp cơ sở cũng như các đề tài nghiên cứu sinh đào tạo tiến sĩ của
Viện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
• Tổ chức sản xuất, cung cấp cho thị trường các sản phẩm ứng dụng kết quả
nghiên cứu;
• Giúp Viện tìm kiếm và xây dựng thị trường, mở rộng hợp tác và triển khai
hợp tác khoa học kỹ thuật với các đơn vị trong và ngoài nước, đặc biệt với
các nước phát triển và các nước khu vực.
Trải qua 13 năm hoạt động, trung tâm đã nghiên cứu, thiết kế và chế tạo
được những sản phẩm đột phá, có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao hướng

mechatronics, đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, góp phần xây dựng những ngành
kinh tế mới trong Viện vốn là cơ khí truyền thống như điện tử, tự động hóa, đo
lường điều khiển, công nghệ thông tin, điều khiển hệ thống,… Trung tâm Chuyển
giao công nghệ đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của toàn Viện,
được nhận Huân chương lao động hạng Ba, nhiều lần được nhận bằng khen và luôn
là đơn vị xuất sắc nhất của Viện trong nhiều năm qua.
Các sản phẩm của trung tâm đã đáp ứng được nhu cầu cung cấp các thiết bị
hiện đại cho các ngành kinh tế trong cả nước, giảm nhập khẩu, tiết kiệm hàng chục
triệu USD cho cả nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước. Các sản phẩm tiêu biểu gồm: Cân ô tô điện tử từ 30 đến 100 tấn, hệ thống cân
silô điện tử liên hợp tự động năng suất 200 tấn/giờ, trạm trộn bê tông từ 30 đến 120
m
3
/giờ, hệ thống cân đóng bao điện tử, cân tàu hỏa điện tử,…
Định hướng tương lai của trung tâm là tập trung vào sản xuất các sản phẩm
mechatronics, các sản phẩm công nghệ cao có hàm lượng chất xám cao, mở rộng
sang lĩnh vực thông tin phục vụ cho các ngành công nghiệp; đồng thời đầu tư vào
các nghiên cứu có chiều sâu, sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu cao hơn của các ngành
công nghiệp trong tương lai không xa.
Trung tâm Khuôn mẫu và máy CNC thành lập tháng 11 năm 1997 với
nhiệm vụ và chức năng là nghiên cứu, ứng dụng khai thác các máy công cụ CNC và
các phần mềm CAD/CAM để thiết kế và chế tạo khuôn mẫu chính xác, cụ thể thành
2 nhiệm cụ cơ bản là:
 Thiết kế và chế tạo:
 Khuôn cho các sản phẩm nhựa, khuôn đúc áp lực, khuôn đột dập;
 Máy công cụ CNC, đặc biệt là các loại máy cắt kim loại tấm điều khiển
CNC và máy phay, máy tiện CNC;
 Các chi tiết, cum chi tiết có độ chính xác cao.
 Tư vấn lập dự án, đào tạo, hướng dẫn sử dụng và chuyển giao công nghệ
trong lĩnh vực khuôn mẫu và máy CNC;

Mạnh dạn đi đầu trong nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến của
thế giới: kỹ thuật CNC, công nghệ CAD/CAM, trung tâm đã dần dần khẳng định ưu
thế tuyệt đối của mình trong thiết kế và chế tạo khuôn mẫu và các sản phẩm cơ khí
chính xác. Đặc biệt, với sản phẩm máy cắt kim loại tấm CNC gá-plasma, trung tâm
Khuôn mẫu và máy CNC đã góp một phần xây dựng ngành đóng tàu và kết cấu
thép Việt Nam. Con số hơn 20 thiết bị được thị trường chấp nhận đến năm 2003 là
nền tảng tạo bước phát triển tiếp theo của trung tâm Khuôn mẫu và máy CNC.
Trung tâm Đào tạo ra đời năm 1994 từ ý thức về tầm quan trọng của đào
tạo trong việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ của cán bộ nói riêng và sự
phát triển của một đơn vị nghiên cứu, sản xuất kinh doanh nói chung. Nhiệm vụ
chính của trung tâm là bồi dưỡng sau đại học theo hướng tiếp cận với kỹ thuật và
công nghệ hiện đại cho cán bộ quản lý khoa học kỹ thuật, kỹ sư dang công tác tại
các cơ sở trong và ngoài nước.
Trung tâm đã liên tục mở các khóa đào tạo về AutoCAD, về kỹ thuật gia
công điều khiển số CNC, về gia công tia lửa điện CNC, về thiết kế khuôn cho sản
phẩm nhựa,… nhờ đó đã đưa đến phổ cập thiết kế trên máy tính trong toàn Viện từ
rất sớm và nâng cao trình độ, tay nghề của kỹ sư và công nhân, tạo điều kiện khai
thác tốt các máy công cụ công nghệ cao tại Viện.
Đặc biệt, năm 1999, Viện được Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ, do
đó trung tâm được giao nhiệm vụ tổ chức công tác này. Viện đã kết hợp với các
Giáo sư, Tiến sĩ của trường Đại học Bách Khoa Hà Nội liên tục đào tạo các Tiến sĩ
trẻ, những cán bộ nòng cốt trong đội ngũ lãnh đạo trẻ của Viện. Năng lực khoa học
kỹ thuật của cán bộ kỹ sư và công nhân của Viện ngày nay là một thành quả rất
đáng tự hào của trung tâm Đào tạo IMI.
Trung tâm Thể thao: Có nhiệm vụ quản lý và tổ chức các môn thể thao cho
cán bộ công nhân viên của Viện sau giờ làm việc như quần vợt, bơi lội, bóng bàn,
bóng đá, cầu lông,… Sự ra đời của trung tâm đã tạo nơi vui chơi giải trí, tăng cường
thể lực và tinh thần cho các thành viên. Thực tế hoạt động 7 năm qua đã chứng
minh trung tâm Thể thao là một phần không thể thiếu trong sự phát triển liên tục và
bền vững của Viện.

Trung tâm gia công áp lực là một trong những đơn vị đầu tiên từ ngày
thành lập Viện. Tồn tại cho đến ngày nay, trung tâm đã có những đóng góp nhất
định cho sự phát triển và trưởng thành của Viện. Với định hướng nghiên cứu, thiết
kế, chế tạo các thiết bị gia công không phoi, như các loại máy ép thủy lực, máy ép
trục khuỷu, máy dập, các tủ điện điều khiển,… trung tâm đang có những bước tiến
vững chắc cùng sự phát triển chung của toàn Viện.
Trung tâm Tư vấn và kỹ thuật môi trường ra đời tháng 8 năm 1994 với
tên gọi ban đầu là Trung tâm chuyển giao công nghệ và thiết bị hóa nhiệt - bảo vệ
môi trường trên cơ sở xưởng sản xuất bia của Viện. Ban đầu, trung tâm gặp nhiều
khó khăn do đa số anh chị em cán bộ kỹ thuật được biên chế cho trung tâm đều
thuộc hàng ngũ khó bố trí việc làm và toàn bộ cơ sở vật chất của trung tâm đều dựa
vào xưởng bia đã có và nó được giải thể sau 3 năm khi đã thu hồi hết vốn cho Viện.
Mặc dù vậy, với định hướng đúng đắn của lãnh đạo Viện khi thấy được tương lai và
xu thế phát triển tất yếu của lĩnh vực xử lý môi trường và với sự đồng lòng nhất trí
của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong trung tâm, trong một thời gian ngắn, trung
tâm đã thâm nhập được vào thị trường với các hợp đồng kinh tế ngày càng có giá
trị.
Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trung tâm là nghiên cứu, chế tạo các thiết bị
bảo vệ môi trường phục vụ các ngành cơ khí, thiết bị điện, thiết bị điện tử và chế
biến nông lâm sản như các thiết bị lọc bụi tĩnh điện và lọc bụi túi vải điều khiển
bằng PLC; các lò sấy chân không, lò nhiệt luyện,… Đặc biệt, để đáp ứng sự phát
triển của đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa song song với sự
phát triển bền vững của môi trường sinh thái, trung tâm đã phát triển thêm bộ phận
công nghệ xử lý nước thải cho các trung tâm y tế, bệnh viện, trường học, các nhà
máy chế biến nông sản và công nghiệp, hầm mỏ,…
Trung tâm công nghệ cao chuuyên nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao để
thực hiện tự động hóa các thiết bị cơ khí, chính thức được thành lập tháng 3 năm
2000 với nhiệm vụ và chức năng chính là:
 Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ cao trong ngành chế tạo máy công cụ,
 Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo các thiét bị mới được điều khiển CNC, tạo ra

các dây chuyền công nghệ có tính tự động hóa cao.
Với đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi về chuyên môn thuộc các ngành công nghệ
cao: công nghệ chế tạo máy, điều khiển tự động, đo lường điều khiển, cơ tin kỹ
thuật, lập trình PLC, lập trình CAD/CAM, trung tâm đã cung cấp cho thị trường
các sản phẩm tương đương với sản phẩm ngoại nhập về chất lượng, độ chính xác
cao, hiện đạii nhưng với giá thành chế tạo chỉ bằng 1/2 đến 1/3 giá ngoại nhập. Lĩnh
vực hoạt động của trung tâm là sản xuất các sản phẩm cơ khí có độ phức tạp và
chính xác cao phục vụ ngành sản xuất động cơ điện, động cơ nổ, máy nông nghiệp,
dầm cầu thép, thép kết cấu và các thiết bị làm sạch bề mặt trên cơ sở nghiên cứu
ứng dụng công nghệ cao trong tự động hóa các thiết bị, dây chuyền.
Trung tâm Dự án và đầu tư: Khác với các trung tâm sản xuất khác, trung
tâm Dự án và đầu tư không dựa vào các đơn đặt hàng sẵn có để thiết kế chế tạo và
cung cấp cho khách hàng mà chủ động lập dự án mới trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu
thị trường. Nắm bắt được nhu cầu của các đơn vị về một loại sản phẩm, dây chuyền
công nghệ có những tính năng nhất định, trung tâm nghiên cứu và lập dự án đầu tư,
từ đó tư vấn và mời gọi các đơn vị đầu tư thực hiện dự án. Đây là một trung tâm rất
mới và có hướng đi hết sức mới mẻ. Sự ra đời của trung tâm là một minh chứng cụ
thể cho sự chủ động, sáng tạo trong kinh doanh của Viện.
Trung tâm Nghiên cứu công nghệ đặc biệt: Đây là trung tâm chuyên
nghiên cứu để ứng dụng, triển khai các công nghệ đặc biệt vào sản xuất như công
nghệ tia nước áp suất cao, công nghệ cắt plasma, công nghệ laser,… Công nghệ cắt
plasma hiện nay đã được trung tâm Thiết bị công nghiệp ứng dụng thành công và
rộng rãi trong chế tạo máy cắt kim loại tấm, nâng cao độ chính xác và tiết liệm thời
gian lớn trong cắt kim loại. Công nghệ tia nước áp suất cao đang được nghiên cứu
hiện nay tại trung tâm cũng đang mở ra một hướng mới trong việc cắt gọt và làm
sạch bề mặt kim loại.
Mỗi phòng ban, trung tâm đều có chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động
riêng, song mục đích chung và cuối cùng là phục vụ lợi ích chung của toàn Viện.
Do đó, nhiệm vụ của các phòng ban, trung tâm tựu chung là:
 Kiểm tra việc chấp hành các chỉ tiêu, kế hoạch; nội quy và quy định của Viện

và các chỉ thị, mệnh lệnh của ban lãnh đạo Viện.
 Phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh của Viện.
 Đề xuất đối với ban lãnh đạo Viện những chủ trương, biện pháp giải quyết
khó khăn trong sản xuất kinh doanh và trong quản lý của Viện.
Như vậy, giữa ban lãnh đạo Viện và các phòng ban, trung tâm luôn luôn tồn
tại mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ này được ban lãnh đạo Viện không
ngừng củng cố và phát huy để một mặt tạo môi trường tự chủ và độc lập nhất định
cho các trung tâm trong quá trình hoạt động, mặt khác tăng cường sự quản lý thống
nhất trong Viện. Sự đoàn kết, nhất trí, đồng lòng đồng sứccủa toàn bộ tập thể ban
lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong Viện chính là một nhân tố quan trọng
mang lại thành công của Viện hôm nay và cũng là nhân tố quan trọng đảm bảo
những bước tiến vững chắc của Viện trong tương lai.
1.4. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của Viện
1.4.1. Đặc điểm bộ máy tổ chức kế toán.
Để quản lý hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp
không phân biệt thành phần kinh tế, loại hình kinh doanh, lĩnh vực hoạt động hay
hình thức sở hữu để phải sử dụng hàng loạt các công cụ quản lý khác nhau, trong đó
kế toán được coi là một công cụ hữu hiệu. Bộ máy kế toán sẽ cung cấp thông tin
đầy đủ, chính xác và kịp thời tình hình tài sản và sự biến động của tài sản cũng như
tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, tại Viện máy và dụng cụ
công nghiệp, việc tổ chức công tác kế toán được đặc biệt quan tâm.
Tổ chức công tác kế toán thực chất là cách thức tổ chức thực hiện ghi chép,
phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo nội dung bằng phương
pháp khoa học riêng của kế toán, phù hợp với quy mô, đặc điểm và tình hình cụ thể
của mỗi doanh nghiệp, nhằm phát huy chức năng, vai trò quan trọng của kế toán
trong công tác quản lý vĩ mô và vi mô nền kinh tế.
Trước yêu cầu quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nói
chung và phù hợp với đặc điểm kinh doanh của Viện, bộ máy kế toán của Viện
được tổ chức theo hình thức tập trung. Toàn bộ công tác kế toán được thực hiện tập
trung tại phòng kế toán tập trung của Viện. Các trung tâm chức năng của Viện

không tổ chức hệ thống kế toán riêng mà bố trí các nhân viên thống kê làm nhiệm
vụ hướng dẫn, thực hiện hạch toán ban đầu, thu thập, kiểm tra chứng từ và lập kế
hoạch định kỳ gửi về phòng kế toán.
Phòng kế toán của Viện gồm 8 nhân viên, được phân công bố trí nhiệm vụ
như sau:
Kế toán trưởng: Đứng đầu phòng Kế toán là Kế toán trưởng, chịu trách
nhiệm điều hành, hướng dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm tra công tác hạch toán kế
toán kế toán, thống kê của Viện; đồng thời hướng dẫn, cụ thể hóa kịp thời các chế
độ, chính sách, quy định tài chính của Nhà nước và của Bộ. Kế toán trưởng chịu sự
chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng và có trách nhiệm, quyền hạn theo quy định của
pháp luật.
Kế toán tổng hợp kiêm kế toán vốn đầu tư dự án và nghiên cứu khoa học: có
nhiệm vụ tổng hợp số liệu từ các chứng từ ghi sổ đã được duyệt để ghi vào các sổ
tổng hợp; giám sát và kiểm tra công tác hạch toán của các nhân viên kế toán khác;
tổng hợp giá thành toàn Viện xác định kết quả kinh doanh, phân phối lợi nhuận và
trích lập các quỹ theo chế độ kế toán hiện hành. Đồng thời, theo dõi các chương
trình nghiên cứu khoa học của Viện trên giác độ kế toán.
Kế toán tiền lương và bảo hiểm xã hội kiêm Kế toán giá thành B3, B7 và kế
toán doanh thu: Định kỳ, căn cứ vào các bảng chấm công, kế toán sẽ tính ra lương
phải trả cho từng trung tâm, lập bảng tổng hợp thanh toán tiền lương; theo dõi
doanh thu của các hợp đồng kinh tế; đồng thời tập hợp, theo dõi chi tiết chi phí phát
sinh của các hợp đồng kinh tế do trung tâm B3, B7 làm chủ nhiệm đề tài, tính giá
thành và xác định kết quả theo từng hợp đồng của B3, B7.
Kế toán chi tiết công nợ kiêm kế toán TSCĐ, kế toán vật tư và thủ quỹ có
nhiệm vụ theo dõi tình hình công nợ của toàn Viện; tình hình biến động vật tư hàng
ngày tại kho; theo dõi biến động tài sản cố định qua sổ tài sản cố định, tính và phân
bổ khấu hao TSCĐ; đồng thời có trách nhiệm giữ tiền mặt cho Viện, thu chi tiền
mặt căn cứ vào các Phiếu thu, Phiếu chi hợp lệ.
Kế toán thanh toán kiêm kế toán giá thành B2, B6: Ngoài nhiệm vụ theo dõi
chi tiết các khoản thanh toán của Viện, nhân viên kế toán này còn có nhiệm vụ tập

hợp và theo dõi chi phí phát sinh chi tiết cho từng hợp đồng kinh tế của trung tâm
B2, B6; tính giá thành và xác định kết quả của từng hợp đồng kinh tế đó.
Kế toán tiền mặt và tiền gửi ngân hàng: chịu trách nhiệm về các nghiệp vụ
liên quan đến tình hình biến động tiền mặt, tiền gửi; thực hiện các giao dịch với
ngân hàng và theo dõi các khoản vay, trả ngân hàng.
Kế toán giá thành B1, B4, B5, B8: có nhiệm vụ tập hợp chi phí phát sinh chi
tiết chi từng hợp đồng của các trung tâm B1, B4, B5, B8 đồng thời tính giá thành và
xác đinhj kết quả từng hợp đồng kinh tế đó.
Kế toán chi phí giá thành của trung tâm nào đồng thời là kế toán phụ trách
trung tâm đó. Bên cạnh việc theo dõi chi tiết chi phí gia thành của trung tâm, kế
toán phụ trách trung tâm còn kiểm tra, phân loại mọi chứng từ liên quan đến trung
tâm, trình kế toán trưởng và Viện trưởng ký duyệt rồi chuyển chứng từ sang kế toán
các phần hành liên quan.
Nhân viên thống kê trung tâm: Là các nhân viên có trình độ nghiệp vụ kế
toán có nhiệm vụ hướng dẫn thực hiện hạch toán ban đầu; thu thập, kiểm tra chứng
từ định kỳ gửi lên phòng kế toán tập trung của Viện. Mỗi trung tâm có một nhân
viên thống kê, giúp cho bộ phận kế toán kế toán của Viện hạch toán chính xác chi
phí liên quan đến từng trung tâm và từng hợp đồng kinh tế trên cơ sở theo dõi và
cung cấp các số liệu liên quan đến số giờ công, số lượng vật tư sử dụng thực tế, số
điện tiêu hao cho từng máy, cách phân bổ chi phí sản xuất chung cho các hợp đồng
kinih tế một cách chính xác và hợp lý.
Bộ máy kế toán của Viện được khái quát qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 3 – Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán
Mỗi kế toán có chức năng và nhiệm vụ riêng song đều thực hiện nhiệm vụ
chung của bộ máy kế toán. Đó là:
- Phản ánh các chứng từ, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong
qua trình sản xuất kinh doanh một cách đầy đủ, trung thực, kịp thời
theo đúng nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ quy định;
- Thu thập, phân loại, xử lý, tổng hợp thông tin về hoạt động nghiên
cứu cũng như hoạt động sản xuất kinh donah của Viện;

- Tổng hợp số liệu, lập hệ thống báo cao tài chính, cung cấp cho các đối
tượng sử dụng liên quan;
- Thực hiện kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chế độ quản lý kinh
tế nói chung, chế độ kế toán nói riêng;
- Tham gia phân tích thông tin kế toán tài chính, đề xuất kiến nghị hoàn
thiện hệ thống kế toán tài chính;
- Ngoài ra, bộ máy kế toán của Viện còn tham gia công tác kiểm kê tài
sản, tổ chức bảo quản lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán theo quy định.
1.4.2.Mối quan hệ giữa bộ máy kế toán và bộ máy quản lý chung.
Kế toán trưởng
Kế toán tổng hợp
Bộ phận
kế toán
tiền và các
khoản
trích theo
lương
Bộ phận
kế toán
TSCĐ,
vật tư, và
công nợ
Bộ phận
kế toán
thanh
toán
Bộ phận
kế toán
chi phí
và tính

giá thành
Bộ phận
kế toán
vốn đầu
tư &
nghiên
cứu KH
Thủ
quỹ
Nhân viên thông kê trung tâm
Bộ máy kế toán của Viện được tổ chức tập trung, thống nhất đã hỗ trợ tốt
cho việc kiểm tra đôn đốc các đơn vị, bộ phận trong Viện, góp phần quan trọng
nâng cao hiệu quả công tác quản lý chung của Viện. Viện có quy mô tương đối lớn
với có cấu phức tạp, nhiều trung tâm và phòng ban, song lãnh đạo Viện luôn bao
quát và giám sát được hoạt động của từng trung tâm cũng như các phòng ban. Điều
đó có thể thực hiện được chính là nhờ có bộ máy kế toán luôn cung cấp thông tin
tổng hợp và chi tiết, đáp ứng được yêu cầu quản trị của ban lãnh đạo Viện.
Việc phân công kế toán phụ trách một số trung tâm đã nâng cao hiệu quả của
công tác hạch toán kế toán, đảm bảo các chứng từ được kiểm tra chặt chẽ, tính hợp
pháp, hợp lý, hợp lệ và được phân loại trước khi trình kế toán trưởng và Viện
trưởng duyệt. Do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho lãnh đạo Viện trong việc kiểm
soát chứng từ nói riêng và các mặt hoạt động của Viện nói chung. Hơn nữa, các kế
toán phụ trách trung tâm này đồng thời là kế toán chi phí giá thành cho trung tâm
đó, nên thông tin chi phí giá thành nhờ đó cũng được cung cấp nhanh chóng, kịp
thời và chính xác.
Cùng với phòng kế hoạch tổng hợp và phòng quản trị, hiệu quả hoạt động
của phòng tài chính kế toán đã đóng vai trò quan trọng trong việc không ngừng tiết
kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả quản lý nói chung.
1.4.3.Vận dụng chế độ kế toán hiện hành tại Viện.
 Chế độ kế toán

Tại Viện áp dụng chế độ kế toán theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC
của Bộ Tài chính ngày 20/3/2006.
Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, vào yêu cầu quản lý, trình
độ nghiệp vụ của các nhân viên kế toán và các trang thiết bị phòng kế toán; đồng
thời trên cơ sở nhận biết nội dung, đặc điểm, trình tự và phương pháp ghi chép của
mỗi hình thức sổ kế toán, Viện máy và dụng cụ công nghiệp áp dụng hình thức sổ
kế toán Chứng từ ghi sổ. Đây là hình thức kế toán được xây dựng trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, đảm bảo các mặt kinh tế được
tiến hành song song, việc kiểm tra, sử dụng số liệu được nhanh chóng, dễ dàng. Do
vậy, công việc kế toán được tiến hành kịp thời phục vụ phục vụ cho yêu cầu quản
lý, đảm bảo số liệu chính xác và đảm bảo tiến độ công việc ở các khâu.
 Chế độ chứng từ
Do Viện máy và dụng cụ công nghiệp là một doanh nghiệp có quy mô tương
đối lớn, các nghiệp vụ diễn ra rất đa dạng, vì vậy, các loại chứng từ kế toán được tổ
chức tại Viện cũng rất đa dạng và phong phú, bao gồm cả hệ thống chứng từ kế toán
thống nhất bắt buộc và hệ thống chứng từ kế toán hướng dẫn.
Các chứng từ được lập tại Viện theo đúng quy định trong chế độ và được ghi
chép đầy đủ, kịp thời, đúng với sự thực nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh, đảm
bảo tính hợp pháp, hợp lý và hợp lệ của chứng từ làm căn cứ ghi sổ kế toán và
thông tin cho quản lý. Bên cạnh hệ thống chứng từ thống nhất, bắt buộc, Viện còn
sử dụng nhiều chứng từ hướng dẫn, đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác
hạch toán kế toán tại Viện. Các chứng từ sau khi đượcghi sổ và luân chuyển sẽ được
lưu và bảo quản theo quy định hiện hành.
Viện không có quy định cụ thể về thời gian lập mỗi loại chứng từ ghi sổ mà
tiến hành lập chứng từ ghi sổ căn cứ vào số lượng chứng từ gốc liên quan. Kế toán
sẽ tập hợp các chứng từ liên quan đến từng phần hành thành các tệp chứng từ. Mỗi
tệp chứng từ gồm khoảng 15 – 20 chứng từ. Khi tập hợp được thành một tệp chứng
từ, kế toán sẽ lập chứng từ ghi sổ và phản ánh vào sổ kế toán tổng hợp. Các chứng
từ tại Viện được kiểm tra chặt chẽ trong suốt quá trình luân chuyển.
Quy trình luân chuyển chứng từ chung của Viện được khái quát qua sơ đồ

sau:

Sơ đồ 4 – Quy trình luân chuyển chứng từ chung tại Viện
 Chế độ tài khoản
Viện máy và dụng cụ công nghiệp sử dụng hệ tống tài khoản như hệ thống
tài khoản của doanh nghiệp sản xuất. Một số tài khoản được mở chi tiết theo yêu
Nhân viên thống kê Tập hợp, kiểm tra các chứng từ
hạch toán ban đầu
Giám đốc đơn vị Ký duyệt các chứng từ
Kế toán phụ trách đơn vị Kiểm tra, phân loại chứng từ
Kế toán trưởng
Viện trưởng
Ký duyệt các chứng từ
Kế toán phần hành Lập chứng từ đặc trưng của phần hành
Kế toán trưởng
Viện trưởng
Ký duyệt các chứng từ
Kế toán phần hành Lập chứng từ ghi sổ
Kế toán tổng hợp Tập hợp thành tập chứng từ
Ghi sổ kế toán tổng hợp
Kế toán phần hành Ghi sổ kế toán chi tiết
Bảo quản, lưu trữ
cầu quản lý cụ thể. Nhìn chung, hệ thống tài khoản của Viện đã đáp ứng được yêu
cầu ghi chép và phản ánh vào sơ đồ tài khoản của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
 Chế độ sổ sách
Để đảm bảo tuân thủ đúng quy định của Nhà nước và phù hợp với yêu cầu
quản lý, kinh doanh, Viện áp dụng hình thức sổ kế toán Chứng từ ghi sổ. Mặt khác,
với tình hình phát triển hiện nay của công ty, để phản ánh kịp thời các nghiệp vị
phát sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghi chép và dáp ứng yêu cầu quản lý,
Viện đã áp dụng phền mềm kế toán máy từ năm 2006. Phần mềm được cài đặt tại

Viện là phần mềm kế toán FAST ACCOUTING.Quy trình ghi sổ được khái quát
theo sơ đồ 5 (được trình bày ở trang sau)
Để thực hiên công tác kế toán tại Viện, phòng kế toán được trang bị 6 máy
tính. Các thao tác ghi sổ từ các chứng từ lên sổ chi tiết đều do kế toán phị trách các
phần hành trực tiếp thực hiện. Sau đó thông qua kế toán máy các số liệu được tổng
hợp theo từng phần hành, cuối cùng máy tính sẽ cung cấp các báo cáo mà kế toán
viên cần. Do áp dụng kế toán máy nên khâu quan trọng nhất là nhập dữ liệu vào
máy tính thông qua phần mềm kế toán. Ngay sau khi nhập số liệu, kế toán viên có
thể có được các sổ tổng hợp, sổ chi tiết hoặc các báo cáo tài chính mình cần.
Theo hình thức ghi sổ là Chứng từ ghi sổ, tại Viện sử dụng mẫu riêng nhằm
phù hợp và tiện lợi trong quá trình ghi chép và phản ánh vào sơ đồ tài khoản. Mẫu
Chứng từ ghi sổ được lập như sau:
CHỨNG TỪ GHI SỔ
Ngày … tháng … năm …
Ghi Nợ TK…./Có TK….
STT
Chứng
từ Diễn giải
Ghi…
Tổng TK… TK… …….
Tổng cộng
.
Ghi hàng ngày

Ghi cuối tháng

Đối chiếu, kiểm tra
Sơ đồ 5 – Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức Chứng từ ghi sổ
Chứng từ gốc
Sổ quỹ

Bảng tổng
hợp chứng từ
gốc
Sổ, thẻ
kế toán
chi tiêt
Chứng từ ghi sổ
Sổ đăng ký
chứng từ ghi sổ
Sổ Cái
Bản
tổng
hợp
chi tiết
Bảng cân đối số phát sinh
Báo cáo tài chính
Nhập dữ liệu vào máy
Máy xử lý các thao tác trên máy
Phần hai
ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP, QUY TRÌNH HẠCH TOÁN MỘT SỐ
PHẦN HÀNH CHỦ YẾU TẠI VIỆN
2.1.Kế toán phần hành vật tư
2.1.1. Đặc điểm vật tư tại Viện.
Để sản xuất, chế tạo ra các sản phẩm, các loại vật tư được sử dụng rất đa
dạng tùy theo đặc trưng riêng của từng loại sản phẩm. Một số loại vật tư được quản
lý tại kho, một số khác được xuất thẳng cho sản xuất.
Khi nhận thực hiện một hợp đồng kinh tế, trung tâm tự dự tính số lượng các
loại vật tư cần thiết dùng cho hợp đồng kinh tế đó làm cơ sở đề nghị Viện tạm ứng
mua vật tư. Các vật tư được mua về này sẽ xuất thẳng vào xưởng sản xuất mà
không cần qua kho. Do các loại vật tư Viện sử dụng đều có sẵn trên thị trường và

giá cả hầu như không biến động trong thời gian dài, nên Viện không dự trữ nhiều
vật tư. Nhờ vậy, Viện tránh được ứ đọng vốn trong khâu nguyên vật liệu mà vẫn
chủ động trong khâu sản xuất.
Tại các kho, vật tư chủ yếu được quản lý là các vật liệu điện, vật liệu thuộc
phụ tùng thay thế, vật liệu phổ biến dùng được cho nhiều hợp đồng khác nhau. Hiện
nay, toàn Viện có 6 kho, mỗi trung tâm sản xuất có một kho riêng với các loại vật tư
mang tính đặc trưng cho các sản phẩm chuyên chế tạo tại trung tâm. Ví dụ, tại kho
trung tâm Khuôn mẫu và máy CNC có các loại vật tư: thép làm khuôn, tôn tấm,
vòng bi SKF, hộp số bánh răng, thép ray, nhựa PP,…;trong khi đó kho trung tâm
Chuyển giao công nghệ lại quản lý các loại vật tư khác hẳn như: cảm biến đo lực,
đầu đo lực, bộ khuyếch đại đo lường, xilanh SMC,… Bên cạnh nguyên vật liệu,
hàng tồn kho của Viện còn có công cụ dụng cụ và các vật tư khác tham gia gián tiếp
vào quá trình sản xuất kinh doanh tại từng trung tâm. Các loại công cụ, dụng cụ bao
gồm quần áo bảo hộ lao động, mũ an toàn, khẩu trang, găng tay,…Hầu hết các loại
công cụ dụng cụ mua về hoặc xuất dùng được sử dụng hết cho một hợp đồng nhất
định và được tính hết vào chi phí sản xuất chung. Tuy nhiên, có một số tài sản sử
dụng nhiều cho hợp đồng và cho nhiều kỳ kinh doanh nhưng không đủ điều kiện
ghi nhận TSCĐ nên cũng hạch toán vào giá trị công cụ dụng cụ và được phân bổ
chi phí cho các hợp đồng sử dụng. Tỷ lệ phân bổ do giám đốc trung tâm đề nghị với
kế toán trưởng. Kế toán vật tư căn cứ vào tỷ lệ này để phân bổ chi phí có các hợp
đồng liên quan.
Viện áp dụng tính giá xuất hàng tồn kho theo phương pháp “Nhập trước
xuất trước” và việc lập chứng từ ghi sổ cũng không có quy định cụ thể về thời gian
lập mà tùy thuộc vào mức độ phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến vạt tư tại kho.

×