Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước và sự điều chỉnh cúa pháp luật về thuế để nhằm điều hòa lợi ích của nhà nước và các chủ thể khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.38 KB, 25 trang )

Họ và tên: Đoàn Thảo Nguyên
Lớp: K55- LKD
MSV: 10066058
Nhóm: 06
BÀI TẬP TÀI CHÍNH CÔNG
Đề bài: Vai trò, ý nghĩa của Thuế với nguồn thu ngân sách nhà nước
và sự điều chỉnh cúa pháp luật về thuế để nhằm điều hòa lợi ích của nhà
nước và các chủ thể khác.
Bài làm:
A- ĐẶT VẤN ĐÊ
Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tài
chính. Hiện tượng ngân sách nhà nước- với tính cách là một hiện tượng tài
chính đã ra đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên nền của kinh tế hàng
hóa- tiền tệ và sự hình thành, phát triển của Nhà nước. Bởi vì, bất kỳ một
Nhà nước nào cũng cần phải có các nguồn tài chính đáp ứng cho nhu cầu chi
tiêu, nhằm duy trì sự tồn tại của Bộ máy nhà nước và thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nó. Ngân sách đã luôn luôn được sử dụng để huy động
nguồn tài chính đáp ứng cho những nhu cầu chi tiêu đó của Nhà nước.
Trong xã hôi có nhà nước, điều mang tính quy luật là Nhà
nước phải tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân được sáng tạo ra từ bản thân nền kinh tế. Mục đích của việc tham
gia phân phối của Nhà nước là nhằm thu về tay mình những nguồn của cải
để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, trước hết là để duy trì sự tồn tại
của bộ máy Nhà nước, sau nữa là để thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội
mà Nhà nước đảm nhiệm. Ngân sách Nhà nước là một hình thức, một công
cụ để Nhà nước tham gia (thực hiện) quá trình phân phối đó. Do đó, thu
ngân sách nhà nước là một loại hoạt động Nhà nước, hoạt động của một tổ
chức quyền lực công, luôn gắn với yếu tố quyền lực chính trị của Nhà nước.
Từ dó có thể hiểu “Thu ngân sách Nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền
lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành Quỹ
ngân sách Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nước”. Thu ngân


sách Nhà nước là một hoạt động rất quan trọng của Nhà nước, tạo ra thu
nhập tài chính của Nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thu ngân sách Nhà nước là hoạt động mang nội dung kinh tế, vì các mục
tiêu kinh tế trực tiếp, nhưng luôn hàm chứa yếu tố quyền lực chính trị và
không tách rời yếu tố Nhà nước, pháp quyền và các mục tiêu chính trị của
Nhà nước.
Các khoản thu Ngân sách Nhà nước là những hình thức cụ
thể của thu ngân sách Nhà nước. Thông qua các khoản thu này mà những bộ
phận thu nhập của dân cư, những giá trị sản phẩm xã hội được tập trung vào
tay Nhà nước dưới những nguyên tắc, nội dung và cách thức khác nhau,
nhưng đều nhằm hình thành Quỹ ngân sách Nhà nước để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước. Đồng thời cũng thông qua các khoản thu này, Nhà
nước thực hiện việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, hướng dẫn sản xuất,
tiêu dung và điều tiết thu nhập trong xã hội. Trong cơ cấu các khoản thu
ngân sách Nhà nước, thuế là khoản thu quan trọng nhất, chiếm khoảng 15%
so với GDP và khoảng gần 90% tổng số thu ngân sách nhà nước.
B- THUẾ VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ
I- THUẾ
1- Khái niệm
Thuế là một phạm trù kinh tế, thuế xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước, là công cụ để Nhà nước thể hiện quyền lực chính trị của mình trong
việc tham gia vào quá trình phân phối giá trị sản phẩm xã hội, nhằm hình
thành các nguồn của cải hay quỹ tiền tệ của Nhà nước, thỏa mãn những nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước. Thông qua thuế hay nói chính xác hơn là thông
qua pháp luật thuế, Nhà nước buộc các thành viên trong xã hội phải thực
hiện các nghĩa vụ đóng góp về mặt tài chính cho Nhà nước. Mọi kiểu Nhà
nước trong lịch sử từ cổ đại đến hiện đại đều đặc biệt quan trọng và nguồn
thu từ thuế trở thành nguồn thu chủ yếu của mọi Nhà nước.
Tuy nhiên, xét về bản chất, thuế là một phạm trù kinh tế, là hệ thống các
quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị giữa Nhà nước và các chủ thể khác

trong xã hội. Và suy cho cùng thì thuế là sản phẩm thặng dư được sáng tạo
ra trong xã hội. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu
khách quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà
nước và sự tồn tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.
2- Các đặc trưng của thuế
2.1. Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành
qũy ngân sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh
tế - xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc
cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của
các nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy
định: cấm mọi sự thu thuế để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu
không được Quốc hội chấp thuận. Ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ
một khoản thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận thì không được áp
dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội
Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội
có nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy
vậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể
giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số
loại thuế thông qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
· 2.2. Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp
nhân và thể nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả
trực tiếp.
Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu
hiệu và điều kiện được quy định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện đối
với Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
· 2.3. Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất
dưới hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà

nước với các thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ
phân phối này là của cải vật chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Sự
tồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của
phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đến vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả
hệ thống pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ
sung, cải tiến và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ
của từng giai đoạn. Ðồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo
thực hiện các quy định pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban hành trong
từng thời kỳ.
Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không chỉ nhìn một
cách phiến diện vào số lượng các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn
thuần là động viên tài chính vào ngân sách Nhà nước mà phải được phân
tích một cách toàn diện, chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống
xã hội, không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân.
Ở nước ta trước cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước, Luật thuế
chỉ áp dụng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế
tập thể và cá thể. Ðể thực hiện chế độ thu ngân sách Nhà nước phù hợp với
cơ chế thị trường, phát huy vai trò của các hình thức thu ngân sách Nhà
nước, cuộc cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước được thực hiện trên cơ
sở Nghị quyết Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết qủa của
cuộc cải cách này đưa đến việc áp dụng thống nhất chế độ thu thuế đối với
tất cả các thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức
kinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách
Nhà nước và thuế chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà
nước.
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn
bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và
hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện

tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra
và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
3- Phân loại thuế
Trong hệ thống thuế mà Nhà nước sử dụng để tạo nguồn thu và
điều tiết thu nhập có nhiều loại thuế khác nhau. Mỗi loại thuế, ngoài mục
tiêu Mỗi loại thuế, ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
còn có những mục tiêu điều tiết khác nhau, cơ sở tính thuế và mức độ nộp
thuế cũng khác nhau. Việc phân loại thuế thường được thực hiện theo các
cách sau đây:
3.1. Phân loại theo phương thức đánh thuế: Người ta chia thành thuế
trực thu và thuế gián thu:
- Thuế trực thu: là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của người
nộp thuế (tức là người thực hiện hành vi nộp thuế).
Mục đích của Nhà nước áp dụng loại thuế này là điều tiết, động viên trực
tiếp vào thu nhập của những người (tổ chức, cá nhân) có thu nhập. Do vậy,
người nôp thuế cũng chính là người chịu thuế. Hay nói cách khác, người
thực hiện hành vi nộp thuế phải trích một phần từ chính thu nhập của mình
để nộp cho Nhà nước. Ở nước ta hiện nay, thuộc loại thuế trực thu có thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế đối với người có thu nhập cao, thuế sử dụng đất
nông nghiệp…
- Thuế gián thu: là loại thuế không đánh trực tiếp vào thu nhập của
người nộp thuế mà đánh gian tiếp thông qua giá cả hang hóa, dịch vụ.
Với phương thức đánh thuế gián tiếp, thuế trở thành một bộ phận cấu thành
trong giá cả hang hóa, dịch vụ. do vậy, người nộp thuế không đồng thời là
người chịu thuế. Người chịu thuế ở đây là người tiêu dùng hang hóa, dịch
vụ, còn người nộp thuế không phải lấy từ thu nhập của chính họ để nộp thuế
mà họ được cộng thuế vào giá cả hàng hóa, dịch vụ và sau đó được trích ra
để nộp cho Nhà nước. Như vậy, cũng có thể nói là người thực hiện hành vi
nộp thuế chỉ là người nộp thuế thay cho người tiêu dùng còn người chịu thuế
là người tiêu dùng nộp thuế gián tiếp thông qua người cung cấp hang hóa,

dịch vụ. Thuộc loại thuế gián thu có thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu…
3.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế: Theo cách phân loại này, hệ
thống thuế được chia làm ba loại:
- Thuế thu nhập: Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là thu
nhập có được của các tổ chức và cá nhân. Thu nhập nay được tạo ra từ nhiều
hình thức như từ kinh doanh, từ đầu tư, từ tiền lương và tiền công… Thuộc
loại này có thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao (thuế thu nhập cá nhân), thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
- Thuế tiêu dùng: Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là hàng
hóa, dịch vụ được đưa ra tiêu dùng. Do vậy, khi có loại thuế này còn được
gọi là thuế hang hóa hay thuế bán hàng. Thực chất của thuế tiêu dùng là thu
vào phần thu nhập được đem ra tiêu dùng thông qua việc mua hàng hóa hay
dịch vụ. Thuộc loại thuế này có thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu.
- Thuế tài sản: Là loại thuế có đối tượng đánh thuế là tài sản
(hay giá trị tài sản) do sử dụng hay mua bán, chuyển nhượng, đăng ký quyền
sở hữu tài sản…
II- PHÁP LUẬT VỀ THUẾ
1- Khái niệm
Thuế là một chính sách lớn của Nhà nước, có liên quan trực
tiếp đến sự tồn vong của Nhà nước, nhưng chính sách thuế bản than nó
không thể tự đi vào cuộc sống mà phải thông qua một công cụ mang sức
mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Mặt khác, việc nộp thuế cũng ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, do vậy,
không dễ gì họ tự nguyện thực hiện hành vi này nếu Nhà nước không chế
định nó như một nghĩa vụ pháp lý bắt buộc. Do đó, một yêu cầu được đặt ra
là thuế phải được luật hóa. Các sắc thuế của Nhà nước cần phải được ban
hành dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, và phải là văn bản có
giá trị pháp lý cao nhất, đó là các luật thuế. Việc ban hành các đạo luật thuế

có ý nghĩa là xác định việc nộp thuế là một nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của
các tổ chức kinh tế và mọi người dân. Như vậy, khái niệm pháp luật thuế
được hiểu như sau:
Pháp luật thuế là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế, bao gồm các quy phạm
quy định về nội dung của các sắc thuế và các quy phạm điều chỉnh các
quan hệ trong việc thu thuế, nộp thuế vào ngân sách Nhà nước.
2- Nội dung của pháp luật thuế
2.1. Thuế giá trị gia tăng
2.1.1- Khái niệm thuế giá trị gia tăng
Tại điều 1 Luật thuế giá trị gia tăng đã định nghĩa: “ Thuế giá trị
gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát
sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.
2.1.2. Phạm vi áp dụng của luật thuế giá trị gia tăng
Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng
Theo điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng quy định đối tượng chịu
thuế giá trị gia tăng là “hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng ở Việt Nam”.
Như vậy toàn bộ hàng hóa, dịch vụ được mua bán, tiêu dùng
trên thị trường, bao gồm: hàng hóa, dịch vụ được sản xuát và tiêu dùng trong
nước; hàng hóa, dịch vụ được nhập khẩu để tiêu dùng trong nước, trừ 26 loại
hàng hóa và dịch vụ được quy định tại điều 5, Luật thuế giá trị gia tăng ngày
3/66/2008, có thể xếp thành 5 nhóm sau:
- Các sản phẩm, dịch vụ của một số ngành, lĩnh vực mà hoạt động
sản xuất kinh doanh của các ngành này còn gặp nhiều khó khăn,
cần có sự nâng đỡ của Nhà nước để khuyến khích phát triển như:
Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt
chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế
thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra
và ở khâu nhập khẩu; thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải

chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây
dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để
tạo tài sản cố định của doanh nghiệp; dịch vụ tín dụng và quỹ
đầu tư như hoạt động cho vay, cho thuê tài chính, chuyển
nhượng vốn, kinh doanh chứng khoán…
- Nhóm các sản phẩm và dịch vụ không mang tính kinh doanh,
hoặc các dịch vụ công cộng bảo đảm cung cấp các dịch vụ tối
thiểu cho việc tiêu dùng như: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm
người học, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng và tái bảo
hiểm; dịch vụ khám chữa bệnh, phòng dịch bệnh điều dưỡng,
dịch vụ thú; . Dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-
net phổ cập theo chương trình của Chính phủ; Dịch vụ phục vụ
công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư; duy trì
vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng
công cộng; dịch vụ tang lễ; . Duy tu, sửa chữa, xây dựng bằng
nguồn vốn đóng góp của nhân dân, vốn viện trợ nhân đạo đối
với các công trình văn hóa, nghệ thuật, công trình phục vụ công
cộng, cơ sở hạ tầng và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội;
Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên
ngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản
pháp luật, sách khoa học - kỹ thuật, sách in bằng chữ dân tộc
thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, kể cả dưới
dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử; in tiền….
- Hàng hóa nhập khẩu trong các trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợ
không hoàn lại; quà tặng cho các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính
trị- xã hội; quà biếu, quà tặng cho cá nhân trong tiêu chuẩn quy định;
hàng mang theo người theo tiêu chuẩn hành lý miễn thuế.
- Các hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh mượn đường qua Việt Nam;
hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên liệu nhập khẩu để sản
xuất, gia công hàng hoá xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia

công xuất khẩu ký kết với bên nước ngoài; hàng hoá, dịch vụ
được mua bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và
giữa các khu phi thuế quan với nhau.
- Hàng hóa, dịch vụ của những cá nhân kinh doanh có mức thu
nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước
quy định.
Đối tượng nộp thuế: là các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, không
phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh và các tổ chức, cá
nhân khác có nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng.
2.1.3. Đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế.
Việc đăng ký, kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng là nghĩa vụ pháp lý bắt
buộc đối với các tổ chức, cá nhân có đối tượng chịu thuế là hàng hóa,
dịch vụ theo những điều kiện luật định. Pháp luật thuế giá trị gia tăng
quy định cụ thể về các thủ tục kê khai và nộp thuế, thể hiện kỷ luật thu
nộp rất nghiêm ngặt, kèm theo các chế tài hành chính, phạt vật chất và
nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
a) Về việc đăng ký nộp thuế
- Cơ sở kinh doanh phải đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng với cơ quan
thuế trực tiếp quản lý theo hướng dẫn của cơ quan thuế. Đối với cơ sở
kinh doanh mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng
chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
b) Về việc kê khai
Cơ sở kinh doanh phải kê khai thuế giá trị gia tăng từng tháng và nộp tờ
khai thuế cho cơ quan thuế trong 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Đối
với cơ sở nhập khẩu hàng hóa phải kê khai và nộp tờ khai thuế giá trị
gia tăng theo từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai thuế nhập khẩu.
c) Về việc nộp thuế
Thuế giá trị gia tăng được nộp vào ngân sách nhà nước. Thời hạn nộp

thuế của tháng được ghi trong thông báo chậm nhất không quá ngày 25
của tháng tiếp theo.
d) Về việc quyết toán thuế
Việc quyết toán thuế được thực hiện hàng năm, tính theo năm dương
lịch. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở kinh doanh
phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế.
2.1.4- Vai trò, ý nghĩa của thuế giá trị gia tăng với ngân sách nhà
nước
Qua quy định của Luật về đối tượng chịu thuế và đối tượng
nộp thuế trên đây cho thấy, Luật thuế giá trị gia tăng là sắc thuế có
phạm vi điều chỉnh rộng nhất trong tất cả các Luật thuế hiện hành của
Nhà nước ta. Thuế giá trị gia tăng động viên sự đóng góp của tất cả mọi
người dân thông qua hành vi tiêu dùng của họ; người thực hiện hành vi
nộp thuế là tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh; còn đối
tượng chịu thuế là mọi loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được mua bán,
tiêu thụ trên thị trường được sản xuất trong nước hay nhập khẩu, trừ
một số hàng hóa, dịch vụ nhất định. Với phạm vi điều chỉnh rộng như
vậy, thuê giá trị gia tăng hiện nay là một trong những sắc thuế quan
trọng trong hệ thống thuế của Nhà nước ta và cũng như thuế doanh thu
trước đây, thuế giá trị gia tăng luôn có tỷ trọng cao trong cơ cấu thu của
ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT là nguồn thu lớn và quan trọng
của Ngân sách nhà nước. ỞViệt Nam, thuế GTGT hiện nay chiếm tỷ
trọng ổn định khoảng 20-25% trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí.
2.2. Thuế tiêu thụ đặc biệt
2.2.1- Khái niệm
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu hay nói cách khác là
một loại thuế tiêu dùng đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ đặc biệt theo
danh mục quy định của Luật. Do vậy, thuế tiêu thụ đặc biệt là một bộ phận
cấu thành giá cả hàng hóa và do người tiêu dùng chịu.
2.2.2- Phạm vi áp dụng của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt

Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
Theo luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành có 8 nhóm hàng hóa và
4 nhóm dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, gồm:
1. Hàng hóa:
a) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút,
hít, nhai, ngửi, ngậm;
b) Rượu;
c) Bia;
d) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng
loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang
chở người và khoang chở hàng;
đ) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên
125cm
3
;
e) Tàu bay, du thuyền;
g) Xăng các loại, nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformade
component) và các chế phẩm khác để pha chế xăng;
h) Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;
i) Bài lá;
k) Vàng mã, hàng mã.
2. Dịch vụ:
a) Kinh doanh vũ trường;
b) Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);
c) Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm
trò chơi bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy
tương tự;
d) Kinh doanh đặt cược;
đ) Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;
e) Kinh doanh xổ số.

Để khuyến khích xuất khẩu và thực hiện một số chính sách miễn trừ trong
nhập khẩu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt quy định các hàng hóa thuộc danh
mục chịu thuế trên đây, không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trong
các trường hợp sau:
1. Hàng hóa do cơ sở sản xuất, gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán,
ủy thác cho cơ sở kinh doanh khác để xuất khẩu;
2. Hàng hóa nhập khẩu bao gồm:
a) Hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà tặng cho cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ
trang nhân dân, quà biếu, quà tặng cho cá nhân tại Việt Nam theo mức quy
định của Chính phủ;
b) Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu,
biên giới Việt Nam, hàng hóa chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ;
c) Hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu và tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu
không phải nộp thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu trong thời hạn theo quy định
của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
d) Đồ dùng của tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ
ngoại giao; hàng mang theo người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế; hàng
nhập khẩu để bán miễn thuế theo quy định của pháp luật;
3. Tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển
hàng hoá, hành khách, khách du lịch;
4. Xe ô tô cứu thương; xe ô tô chở phạm nhân; xe ô tô tang lễ; xe ô tô
thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên; xe ô
tô chạy trong khu vui chơi, giải trí, thể thao không đăng ký lưu hành và
không tham gia giao thông;
5. Hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan, hàng hoá
từ nội địa bán vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan,
hàng hoá được mua bán giữa các khu phi thuế quan với nhau, trừ xe ô tô chở
người dưới 24 chỗ.

Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt
Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là tổ chức, cá nhân có hoạt
động sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt. Hàng hóa thuộc diện thuế tiêu thụ đặc biệt được sản xuất
trong nước hay nhập khẩu, chỉ phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt một lần ở khâu
sản xuất hoặc nhập khẩu. Cơ sở sản xuất nộp thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản
xuất, cơ sở nhập khẩu nộp thuế ở khâu nhập khẩu.
Cơ sở kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng.
2.2.3. Vai trò, ý nghĩa của thuế tiêu thụ đặc biệt với ngân sách Nhà
nước
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt thường quy định thuế suất cao,
thậm chí rất cao. Điều đó thể hiện mức động viên cao từ việc sản xuất hay tiêu
dùng đối với những hàng hóa, dịch vụ trong diện chịu thuế. Có nghĩa là Nhà
nước muốn điều tiết sản xuất, tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ nhất định
thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc đưa hàng hóa, dịch vụ nào vào diện
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là tùy thuộc vào từng nước và từng thời kỳ dựa trên
các yếu tố kinh tế- xã hội khac nhau. Ở Việt Nam có những thời kỳ, danh mục
chịu loại thuế này lên tới hàng chục mặt hàng hay dịch vụ nào là tùy thuộc vào
định hướng sản xuất, tiêu dùng của Nhà nước, ví dụ như để khuyến khích hàng
nội địa, hạn chế nhập khẩu, hay hạn chế việc sản xuất, nhập khẩu hàng hóa
không có lợi cho nền kinh tế; hay cần hạn chế tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhất
định không có lợi cho tiêu dùng hoặc hàng hóa, dịch vụ xa xỉ.
Cùng với thuế GTGT, TNDN, thuế TTĐB đóng góp số thu quan
trọng cho NSNN. Những năm gần đây, số thu từ thuế TTĐB luôn
tăng qua các năm và thường chiếm tỷ trọng nhất định trong tổng số
thu từ thuế và phí
(tỷ đồng)
Nội Năm

Dung
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Thuế
TTĐB
6,230 7,377 8,954 12,609 12,705 17,478
Tỷ trọng
(%)
6,29 6,41 6,39 7,31 7,71 7,17
(Nguồn: Tổng cục thuế)
Mặt khác, đối tượng tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt thường là đối tượng có thu nhập cao, do vậy, việc đánh
thuế với mức cao cũng nhằm mục đích điều tiết thu nhập trong xã hội.
2.3- Thuế thu nhập doanh nghiệp
2.3.1. Khái niệm
Trong lịch sử thuế khóa, từ lâu đã hình thành và tồn tại một
loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của tổ chức và cá nhân. Khi một tổ
chức, hay một cá nhân nào đó có thu nhập thì họ phải nộp một phần thu nhập
đó cho Nhà nước dưới hình thức thuế thu nhập.
Ngày 10/5/1997 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã ra đời
và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1999. Việc ban hành Luật thuế thu nhập
cũng chính là nhằm thống nhất các quy định thuế lợi tức trong các luật về đầu
tư vào trong Luật thuế thu nhập Doanh nghiệp, áp dụng chung cho mọi loại
hình doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh tế.
2.3.2. Phạm vi áp dụng của Luật thuế thu nhập Doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là các loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu
nhập của các tổ chức và cá nhân có thu nhập.
- Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp Nhà
nước; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp
danh; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hợp tác xã; tổ hợp

tác; tổ chức kinh tế có sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ bao gồm: hộ cá thể
và nhóm kinh doanh; hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp có
mức thu nhập cao; cá nhân hành nghề độc lập; cá nhân cho thuê tài
sản như nhà, đất, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị và các loại
tài sản khác.
- Đối tượng không thuộc diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bao
gồm: hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp có thu nhập từ sản phầm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản có mức thu nhập thấp.
Đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập chịu thuế có được
từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong năm tính thuế, bao gồm
cả thu nhập chịu thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nước ngoài và
thu nhập chịu thuế khác.
2.4. Thuế thu nhập cá nhân.
2.4.1. Khái niệm
Thuế TNCN đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát
triển. Lần đầu tiên ở Vương quốc Anh, vào năm 1797, khi đó thuế
TNCN (Income-tax) được đưa vào thực hiện dưới hình thức khoản thu
tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến chống Napoleon
(Pháp) và được hoàn chỉnh, chính thức áp dụng từ năm 1942. Sau đó,
nhiều nước tư bản phát triển khác cũng chính thức áp dụng loại thuế
này như: Nhật (1887), Mỹ (1913), Pháp (1914)… Thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao ở nước ta ra đời vào năm 1990 qua hơn mười
năm thực hiện, pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
năm 1990 đến nay đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1994,
1997, 1999 và 2001. Để phù hợp với tình hình xã hội cũng như hạn chế
tình trạng phân hóa giàu nghèo, luật thuế thu nhập cá nhân 2007 đã ra
đời thay thế cho luật thuế thu nhập với người có thu nhập cao. Để hạn
chế những bất cập, hạn chế của luật thuế thu nhập cá nhân 2007, ngày

11/11//2011 Bộ Tài Chính đã ra Thông tư hướng dẫn Nghị định số
101/2011/NĐ-CP ngày 4/11/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Nghị quyết số 08/2011/QH13 của Quốc hội về ban hành bổ sung
một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và
cá nhân.
2.4.2. Đặc điểm
Thuế TNCN có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập
của mỗi cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối
tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người
chịu thuế thu nhập cá nhân không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế
khoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
một là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá
nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát
sinh trong nước hay ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế
TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của
nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không
thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ
quy định của pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế Thu
nhập doanh nghiệp ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của
mỗi quốc gia cho dù quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế,
xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu
khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước
khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần
thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tính
nhân đạo xã hội…
- Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh
thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoành cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ

thể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng
xã hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn
một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp
thuế.
2.4.3. Vai trò, ý nghĩa của thuế thu nhậ cá nhân với ngân sách Nhà nước
Thuế TNCN ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng của
ngân sách nhà nước. Dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực hiện phát
triển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là là
việc tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước.
Cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát
triển, thu nhập quốc dân đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động
nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua thuế TNCN sẽ ngày càng tăng
và sẽ ngày một dồi dào. Thực tế tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân
sách của nhiều quốc gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khối
ASEAN: 5-10%, các nước phát triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷ
trọng 30- 40% như Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, mới tiếp cận chính sách thu và
còn phân tán ở nhiều sắc thuế nhưng cũng đã có kết quả tăng trưởng thu khá
lớn trong những năm gần đây: năm 1991 thu theo chính sách thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao là 62 tỷ, thì đến năm 2000 thu được 1.832 tỷ
và đến năm 2005 số thu đã đạt 8.300 tỷ. Tuy vậy tỷ trọng thu cũng mới chỉ
đạt khoảng 5% tổng thu ngân sách.
3- Chức năng, vai trò và ý nghĩa của thuế với Ngân sách Nhà nước.
3.1 Chức năng của thuế.
Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện
công dụng vốn có của nó. Ðối với một phạm trù kinh tế - xã hội thì chức
năng phản ánh sự tác động của nó - là một phương thức đặc biệt biểu hiện
những thuộc tính vốn có của phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng
có tính ổn định tương đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay
đối tượng.
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung

vốn có của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng,
hình thức vận động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối
quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát
triển của thuế, chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:
3.1.1. Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc
thù của thuế.
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn
tài chính vào ngân sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước).Về mặt
lịch sử, chức năng huy động nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh
nguyên nhân nảy sinh ra thuế.Thông qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập
trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt
động thường xuyên và tồn tại của Nhà nước. Bằng chính chức năng này, Nhà
nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân phối và phân phối lại thu
nhập của thuế là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc dân dưới hình thức
tiền tệ vào ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng hóa và thu
nhập. Người có thu nhập cao và sử dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ là người
nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó laiỷ được Nhà nước chi nhằm thực
hiện chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra tính công bằng tương đối cho xã
hội.Trong một chừng mực nhất định, chức năng phân phối và phân phối lại
đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết của
thuế.
Chức năng phân phối và phân phối lại có vị trí ngày càng
quan trọng. Ðiều này được giải thích bởi sự phát triển, mở rộng các chức
năng của Nhà nước và việc thực hiện nhiều chính sách khác nhau, trong đó
có việc can thiệp của Nhà nước vào các qúa trình kinh tế.
3.1.2 Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.
Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng
rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh

của Nhà nước đối với nền kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế - xã hội
của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và
hậu qủa tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải mở rộng qũy tài chính Nhà nước,
hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về nguồn tài chính càng lớn thì
Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế để tác động một cách
có hiệu qủa đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong qúa trình đó chức năng
phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của thuế đã được sử
dụng một cách hiện thực Học Kế toán Thuế
Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó
đã được dự liệu trước vào trong qúa trình huy động tập trung nguồn tài
chính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng,
tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích lũy tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu
cầu có khả năng thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ
khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế -
xã hội trong phạm vi quốc gia.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và
đối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có
tính đến khả năng của người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích
các hoạt động kinh tế đi vào qũy đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù
hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị
trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngay càng được nâng cao.
Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi
ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước
không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay
không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh
doanh.
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật
thiết với nhau. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên
nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điểu tiết.

Nhưng chức năng điều tiết của thuế cũng có tác động ngược lại đến chức
năng phân phối và phân phối lại thu nhập. Nguồn tài chính mà Nhà nước tập
trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can thiệp của Nhà nước trên
diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà nước nhằm vào
việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để tăng thu
nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng
phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại
trừ các mâu thuẩn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự
tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của
Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước
trong việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Mặc khác, việc tăng
cường chức năng phân phối và phân phối lại một cách qúa mức làm tăng
gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát triển kinh tế, trong
nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Ðó là tính hai
mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích
cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự
tác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình
hoạch định, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà
nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định.
3.2.Vai trò của thuế đối với Ngân sách Nhà nước.
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với
ngân sách Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt
động thu thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ
đó hình thành nên qũy ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh
tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra
thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp
luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền,

nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế.
Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà
nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã
hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong
những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động
kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh
tế - xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
+ Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập
trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với
các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính
quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan
hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu
hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu
ngân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ
yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải
ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính
vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng
tăng. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển
thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần
ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu
dài.

Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế
mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều
chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập,
mọi tiêu dùng xã hội. Ðây là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.

×