Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Thảo luận tài chính tiền tệ về lãi suất tín dụng trên thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.67 KB, 23 trang )

Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Lời mở đầu
Lãi suất là một trong những biến số quan trọng trong nền kinh tế vĩ mô, được theo
dõi một cách chặt chẽ bởi các chủ thể trong nền kinh tế từ các hộ gia đình, các nhà
đầu tư, các doanh nghiệp, đến các ngân hàng vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời
sống hàng ngày của chúng ta và có những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của
nền kinh tế . Nó tác động đến những quyết định cá nhân như chi tiêu hay để
dành ,mua nhà hay mua trái phiếu hay giửi vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Lãi
suất cũng tác động đến những chỉ số của nền kinh tế vĩ mô như CPI , cán cân xuất
nhập khẩu, tỷ giá hối đoái và GDP…
Cùng với mục tiêu theo đuổi chính sách tự do lãi suất của chính phủ, lãi suất không
còn là 1 công cụ mang tính mệnh lệnh hành chính, cứng nhắc. Ngân hàng trung
ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ tác động đến nhóm các mục tiêu
trung gian, từ đó cho phép lãi suất biến động đáp ứng được những thay đổi của
tiêu dùng và đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu cuối cùng trong chính sách tiền tệ
như ổn định giá cả , tăng trưởng bền vững. Với nhũng lý do trên việc phân tích
những yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng , và những nguyên nhân làm thay đổi
lãi suất trong từng thời kỳ của nền kinh tế là hết sức quan trọng. đồng thời nắm
được những tác động của lãi suất đến các chủ thể kinh tế, đến nền kinh tế vĩ mô
cũng giúp chúng ta lựa chon cho mình những phương án đầu tư hay chi tiêu tốt
nhất.
Bài thảo luận tập trung phân tích những nhân tố ảnh ảnh hưởng đến lãi suất.
Đồng thời liên hệ tình hình lãi suất tín dụng tại việt nam hiện nay để đưa ra những
giải pháp ổn định tốt nhất .Nhóm liên hệ tình hình thực tế ở Việt nam từ năm 2010
đến tháng 10 năm 2013, thời kỳ lãi suất biến động, tăng và giảm nhanh chóng
trong 1 thời gian ngắn do sự biến động của nền kinh tế cũng như chính sách tiền tệ
của NHTW
Bài luận giúp người đọc có một cái nhìn tổng quát hệ thống một cách chân thực
những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất cũng như những nhân tố cụ thể ảnh hưởng
đến lãi suất trong 4 năm gần đây.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ


Page 1
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Mục lục
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ LẠI SUẤT TÍN DỤNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT TÍN DỤNG
1.1. Lãi suất tín dụng
1.2. Phân loại lãi suất tín dụng
1.2.1. Căn cứ nghiệp vụ tín dụng
1.2.2. Căn cứ ảnh hưởng loại trừ ảnh hưởng của giá trị tiền tệ
1.2.3. Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
1.2.4. Căn cứ loại tiền cho vay
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng
1.3.1. Quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường
1.3.2. Lạm phát
1.3.3. Chính sách vĩ mô về tài chính và tiền tệ của chính phủ
1.3.4. Rủi ro và kì hạn tín dụng
1.3.5. Tỷ giá
1.3.6. Một số các nhân tố khác
CHƯƠNG 2. ỨNG DỤNG THỰC TẾ VÀO TÌNH HÌNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tỷ suất tín dụng ở Việt Nam từ năm 2010 đến 2013
2.1.1. Thực trạng tỷ suất tín dụng năm 2010
2.1.2. Thực trạng tỷ suất tín dụng năm 2011
2.1.3. Thực trạng tỷ suất tín dụng năm 2012
2.1.4. Thực trạng tỷ suất tín dụng năm 2013
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng ở Việt nam từ năm 2010 đến 2013
2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng năm 2010
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng năm 2011
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng năm 2012
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng năm 2013

2.3. Giải pháp ổn định tỷ giá
2.3.1. Giảm lãi suất cho vay
2.3.2. Khai thác mọi nguồn vốn đầu tư.
2.3.3. Tăng cường tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước.
2.3.4. Xử lý nợ xấu – tái cơ cấu tổ chức tín dụng
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 2
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
2.3.5. Triển khai tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế.
Đề tài thảo luân: Trình bày các nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng trên thị
trường. Minh họa bằng thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ LẠI SUẤT TÍN DỤNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT TÍN DỤNG
1.1. Lãi suất tín dụng
Lãi suất tín dụng là tỉ lệ phần trăm giữa lợi tức thu được với tổng số tiền cho vay
trong một khoảng thời gian nhất định.
Lãi suất tín dụng = × 100%
Đơn vị tính của lãi suất tín dụng là %/năm (ngày, tháng)
1.2. Phân loại lãi suất tín dụng
1.2.1.Căn cứ nghiệp vụ tín dụng lãi suất
_ Lãi suất huy động vốn: là lãi suất phát sinh trong các hình thức huy động vốn của
NHTM, các trung gian tài chính khác…Hình thức huy động vốn chủ yếu của tổ chức
tài chính trung gian là nhận tiền gửi. Lãi suất gửi ngân hàng có nhiều mức khác
nhau, tùy thuộc vào: loại tiền gửi là nội tệ hay ngoại tệ; loại tài khoản là tiền thanh
toán hay tiền gửi tiết kiệm; loại thời hạn là không kỳ hạn, ngắn hạn hay dài hạn;
quy mô tiền gửi…
_ Lãi suất cho vay: là loại lãi suất phát sinh trong các hình thức cho vay của NHTM
và các trung gian tài chính khác.Lãi suất cho vay được hình thành trên cơ sở các
yếu tố: lãi suất huy động, tỷ suất chi phí kinh doanh tiền tệ, rủi ro, tỷ suất lợi nhuận,
…Lãi suất vay cũng có nhiều mức tùy theo loại tiền, thời hạn, phương thức, mục

đích của tiền vay và theo mức độ quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
_ Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho KH vay dưới hình thức chiết khấu
thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của KH. Nó
được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ
ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho KH. Như vậy, tiền lãi từ cho vay chiết khấu
được trả trước cho ngân hàng.
_ Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHTM cho các ngân hàng trung gian vay dưới
hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến
hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được khấu trừ ngay khi NHTM cấp
tiền vay cho ngân hàng trung gian. Lãi suất tái chiết khấu do NHTM ấn định căn cứ
vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến
động lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 3
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
_ Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay
trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan
hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và bị chi phối bởi lãi suất cho
các ngân hàng trung gian vay của NHTM. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự
phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTM của các
ngân hàng trung gian.Một số lãi suất tín dụng quốc tế thông dụng: Ở các trung tâm
tài chính quốc tế lớn, các ngân hàng thường hình thành nên các chỉ số lãi suất
trong giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Chẳng hạn: Lãi suất LIBOR, lãi suất
LIBID, lãi suất LIMEAN.
_ Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định
mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau ở
mọi nước, nó có thể do NHTW ấn định (như ở Nhật – là mức lãi suất cho vay thấp
nhất) hoặc có thể do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt
động kinh doanh cụ thể của ngân hàng mình (ở Mỹ, Anh, Úc – đó là mức lãi suất áp
dụng cho KH có mức rủi ro thấp nhất); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của

một số ngân hàng đứng đầu rồi ± biên độ dao dộng theo tỷ lệ % nhất định để hình
thành lãi suất cơ bản của mình ( Malaysia); một số quốc gia khác lại sử dụng lãi
suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp),…Mặc dù khác nhau, lãi
suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và có một
lợi nhuận bình quân cho phép.
1.2.2Căn cứ việc loại trừ ảnh hưởng của giá trị tiền tệ
_Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định theo giá trị danh nghĩa của tiền
tệhay nói cách khác là loại lãi suất loại trừ ảnh hưởng bởi sự biến động giá trị của
tiền tệ . lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng
tín dụng và ghi rõ tên các công cụ nợ
_Lãi suất thực: Là loại lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ
như tỷ lệ lạm phát hoặc tỷ lệ thiếu phát tiền tệ
Quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được phản ánh bằng phương
trình Fisher
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực ± Tỷ lệ lạm phát( thiểu phát) dự đoán
1.2.3. Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất
_Lãi suất cố định: là loại lãi suất được ấn định bằng một tỷ lệ cố định trong suốt
thời gian huy động vốn hoặc cho vay.
_Lãi suất thả nổi: Là loại lãi suất có thể điều chỉnh theo lãi suất thị trường trong
thời gian tín dụng. Đây là loại lãi suất linh hoạt vì nó được điều chỉnh theo diễn
biến của thị trường. Tuy nhiên, khi lãi suất thị trường tăng lên người đi vay bị thiệt
trong khi người cho vay được lợi, ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 4
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Thông thường lãi suất được quy định cố định trong từng thời hạn tín dụng, khi
chuyển sang kỳ hạn khác thì lại theo lãi suất thị trường tại thời điểm bắt đầu kì hạn
mới.
1.2.4, Căn cứ loại tiền cho vay
_Lãi suất nội tệ: là lãi suất huy động hoặc cho vay đồng nội tệ.

_Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất huy động hoặc cho vay đồng ngoại tệ
Mối liên hệ giữa hai lãi suất này được thể hiện bằng phương trình: iD= if + Ee
Trong đó: iD là lãi suất nội tệ, nếu là lãi suất ngoại tệ, Ee là mức tăng giá dự tính
của đồng ngoại tệ so với nội tệ.
Phương trình này được hình thành trên cơ sở lập luận: Lợi tức dự tính của việc
nắm giữ các khoản tiền gửi bằng nội tệ phải bằng lợi tức dự tính của việc nắm giữ
các hoản tiền gửi bằng ngoại tệ. Nếu tồn tại chênh lệch về mức lợi tức dự tính, sẽ
xuất hiện sự di chuyển vốn từ loại tiền này sang loại tiền kia để được hưởng lợi tức
cao hơn. Kết quả của sự di chuyển này là lợi tức dự tính của các khoản tiền gửi
được điều chỉnh lại dưới ảnh hưởng của quan hệ cung cầu. Kết quả là sự cân bằng
sẽ được thiết lập lại. Vì mức lợi tức dự tính của việc nắm giữ các khoản tiền bằng
ngoại tệ là lãi suất ngoại tệ cộng với mức tăng giá dự tính của ngoại tệ nên chúng
ta có phương trình trên.
Tuy nhiên, phương trình này chỉ tồn tại trong điều kiện chế độ tự do ngoại hối, tức
là tự do chuyển đổi từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ và ngược lại. Nếu quản lý
ngoại hối chặt chẽ thì sẽ tồn tại chênh lệch vì vốn không được tự do chuyển đổi giữa
hai loại tiền được.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng
1.3.1. Quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường
Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến lãi suất tín dụng trên thị trường.
- Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để thanh toán trên thị trường:
quyền kiểm soát mức cung tiền tệ thuộc về Chính phủ vì khi hạn chế mức cung tiền
thì tiền sẽ có giá trị hơn
- Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của các đơn vị, cá nhân, tổ chức để làm phương
tiện giao dịch, trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ …
Giao điểm giữa cung – cầu là lãi suất cân bằng. Đây là mức lãi suất ở điểm số
lượng tiền do Ngân hàng TW đề ra làm mục tiêu phù hợp với số tiền mà công chúng
muốn nắm giữ. Khi lượng cung ứng vốn trên thị trường tăng lên và lớn hơn nhu
cầu về vốn sẽ khiến lãi suất giảm đi, ngược lại khi nhu cầu về vốn tăng lên lớn hơn
lượng cung thì lãi suất sẽ tăng. Nhà nước có thể tác động vào mức cung – cầu này

và khống chế lãi suất để thực hiện các mục tiêu kinh tế của mình.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 5
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Trong trường hợp Chính phủ và Ngân hàng TW lo sợ nền kinh tế có nguy cơ bị
suy thoái thì NHTW sẽ tăng mức cung tiền bằng cách thêm tiền vào lưu thông theo
đó lãi suất sẽ có xu hướng giảm. Khi nền kinh tế phát triển quá nóng, có thể xảy ra
lạm phát thì Nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp làm giảm lượng cung tiền và lãi
suất sẽ tăng lên.
Nghiên cứu nhân tố cung – cầu tiền tệ tác động qua lại đến lãi suất có một ý
nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Khi nào thì NHTW
sẽ tăng thêm tiền vào lưu thông và khi nào thu tiền từ lưu thông về để điều chỉnh
lãi suất thị trường một cách hợp lí, trên cơ sở đó nhằm ổn định thị trường, thúc đẩy
sự tăng trưởng của nền kinh tế, giảm lạm phát.
1.3.2, Lạm phát
Là thuật ngữ được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó. Như vậy
tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại hàng hóa
vào hai thời điểm khác nhau ( với giả thiết chất lượng không thay đổi ). Khi giá trị
của hàng hóa tăng lên đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi, và với cùng
một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng hàng hóa ít hơn so
với năm trước.
Lạm phát là chỉ số kinh tế quan trọng nhất mà NHTW xem xét khi đưa ra quyết
định về lãi suất, lạm phát vừa phải được xem như kết quả tự nhiên của sự phát
triển kinh tế tuy nhiên khi quá cao nó có thể làm tổn hại nền kinh tế. Khi lạm phát
tăng, NHTW sẽ tăng lãi suất, vì điều này gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh và
cá nhân trong việc vay mượn tiền, do đó sẽ làm chậm lại sự phát triển của nền kinh
tế, kiềm chế lạm phát.
Lạm phát tăng không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc tăng thêm
quy mô về cầu quỹ cho vay vì khi làm phát tăng , với lãi suất danh nghĩa cho trước,

chi phí cho việc vay tiền giảm xuống kích thích người ta đi vay hơn là cho vay =>
cầu quỹ cho vay tăng dẫn đến lãi suất tăng.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu
hướng lạm phát tăng, chính bởi vậy một khi lạm phát được kiềm chế thì NHTW sẽ
giảm lãi suất tín dụng nhằm giúp các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nền
kinh tế dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn, mở rộng sản xuất, đầu tư giúp nền kinh tế
phục hồi. Trong nền kinh tế thị trường thì lạm phát và lãi suất có mối quan hệ chặt
chẽ và tác động qua lại mật thiết với nhau
1.3.3, Chính sách vĩ mô về tài chính và tiền tệ của chính phủ
Chính sách vĩ mô là các chính sách kinh tế nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô và
đạt trạng thái toàn dụng lao động. hai chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng là chính
sách tài chính và chính sách tiền tệ, hai chính sách này là các chính sách quan trọng
trong nền kinh tế, có mục tiêu cơ bản là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 6
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
việc làm đầy đủ và ổn định lạm phát ở mức hợp lí. Bên cạnh đó cũng có một số
chính sách kinh tế khác cũng có tác động tới kinh tế vĩ mô như chính sách thương
mại ( thuế quan ) song mục đích của nó không phải để ổn định kinh tế nên không
được coi là chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính sách kinh tế vĩ mô còn được gọi là chính sách quản lí tổng cầu vì nó tác động
đến phía cầu của nền kinh tế.
1.3. 3.1. Chính sách tài chính
Là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư công cộng để tác động tới nền kinh
tế, mặc dù trong dài hạn chính sách này có thể ảnh hưởng tới tiết kiệm, đầu tư,
tăng trưởng kinh tế nhưng trong ngắn hạn nó lại ảnh hưởng chủ yếu tới tổng cầu
về hàng hóa và dịch vụ tù đó ảnh hưởng đến lãi suất, gồm chính sách tài khóa thắt
chặt và chính sách tài khóa nới lỏng.
- Chính sách tài khóa nới lỏng: khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái, nhà
nước có thể giảm thuế, tăng chi tiêu ( đầu tư công cộng ) để chống lại, nhằm kích

thích tổng cầu tăng lên, tăng lượng cầu tiền tệ làm lãi suất tăng.
- Chính sách tài khóa thắt chặt: nền kinh tế trong tình trạng lạm phát, có hiện
tượng nóng, nhà nước sẽ tăng thuế và giảm chi tiêu để ngăn nền kinh tế quá nóng
dẫn tới đổ vỡ, làm giảm lượng cầu tiền, lãi suất giảm.
Một khi ngân sách nhà nước rơi vào tình trạng bội chi hay nhà nước thực hiện
chính sách tài khóa thắt chặt thì sẽ cần phải thu hút, huy động vốn lớn. Để làm
được như vậy thì nhà nước có thể tăng lãi suất lên. Ngược lại, khi nhà nước thực
hiện chính sách tài khóa nới lỏng thì lãi suất sẽ được giảm xuống.
Ngoài ra, thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng, như việc giảm
thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư làm cho các ngành tăng đầu tư vào máy móc,
nhà máy, tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên, tăng lượng cầu tiền tệ, lãi suất
tăng lên.
1.3. 3.2. Chính sách tiền tệ
Là quá trình quản lí cung tiền của cơ quan quản lí tiền tệ ( thường là NHTW )
thường hướng tới mức lãi suất mong muốn để đạt mục đích ổn định và tăng
trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái. Chính sách
lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định có thể trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, quy định mức dự trữ bắt
buộc hay trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Như chúng ta đã biết một khi lãi suất tín dụng tăng quá cao hay giảm thấp thì đều
có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế . Chính bởi vậy mà nhà nước đã thực hiện
các chính sách tiền tệ của mình thông qua Ngân hàng TW với vai trò chỉ huy toàn
bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia (với các công cụ như lãi suất tái chiết
khấu , tỉ lệ dự trữ bắt buộc ) để điều chỉnh lãi suất , bình ổn nền kinh tế .
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 7
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
NHTW có thể quy định lãi suất cho thị trường, chủ động điều chỉnh lãi suất thực
hiện mục tiêu giảm phát và tăng trưởng kinh tế theo thời kì
- Khi lãi suất tăng làm nhu cầu tiêu dùng và đẩu tư giảm, NHTW sẽ áp dụng chính

sách giảm lãi suất tái chiết khấu ( là lãi suất ngắn hạn mà NHTW cho các NHTM
vay) cho các NHTM thì họ cũng sẽ hạ lãi suất cho vay đối với các cá nhân, tổ chức,
và doanh nghiệp trong nên kinh tế làm cho toàn bộ hệ thống lãi suất giảm, các
khoản cho vay tăng lên.
- Khi lãi suất giảm thừa tiền trong thị trường thì NHTW sẽ tăng lãi suất tái chiết
khấu để giảm bớt khối lượng tín dụng của các NHTM nhằm buộc các NH này tăng
lãi suất tín dụng đối với các thành phần trong nền kinh tế, do đó các khoản cho vay
sẽ giảm, lượng tiển trong lưu thông cũng giảm.
Thông qua lãi suất tái chiết khấu mà NHTW điều chỉnh được lãi suất tín dụng .
Ngoài ra, NHTW còn có một biện pháp để kiểm soát lãi suất tín dụng là tỉ lệ dự trữ
bắt buộc. khi NHTW tăng hay giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng tức là tác động đến
lượng vốn khả dụng của các NHTM, gây ra những khó khăn ngân quỹ, hạn chế tín
dụng . Giả sử tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho lượng vốn và tín dụng của các
NHTM bị thu hẹp khiến họ phải tăng lãi suất tín dụng và ngược lại. Từ đó có thể
thấy được tỉ lệ dữ trữ bắt buộc ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thị trường.
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền, thông
thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kì kinh
tế ở trạng thái bình thường thì mục tiêu lãi suất được chọn. còn khi kinh tế quá
nóng hay quá lạnh nó sẽ nhắm vào mục tiêu trực tiếp hơn là lượng cung tiền.
Chính sách tiền tệ cũng bao gồm chính sách mở rộng và chính sách thắt chặt. Chính
phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ khi NHTW muốn kiềm chế lạm phát
thông qua công cụ của nó ( tăng mức dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chiết khấu,
giảm mức tín dụng ) mức cung tiền sẽ giảm đi và lãi suất tăng. Ngược lại khi sắp có
suy thoái NHTW sẽ tăng mức cung tiền lên và lãi suất có xu hướng giảm xuống.
1.3.4. Rủi ro và kì hạn tín dụng
Có thể nói khi đầu tư vào bất cứ ngành nghề hay lĩnh vực nào đều có những rủi ro
nhất định, trrong tín dụng cũng vậy. Lãi suất tín dụng phụ thuộc nhiều vào tiềm lực
tài chính, uy tín cuả người vay. Nếu người vay có tiềm lực tài chính vững vàng, có vị
thế, có uy tín trên thị trường có nghĩa là xác suất xảy ra rủi ro đối với người cho vay
thấp hơn thì lãi suất huy động vốn sẽ thấp hơn và ngược lại. Chính vì thế, lãi suất

trái phiếu Chính phủ thường thấp hơn so với trái phiếu công ty vì rủi ro về khả
năng thanh toán nợ của chính phủ thấp hơn. Trong khi đó, các khoản vay của công
ty dành cho đầu tư có khả năng rủi ro lớn hơn, do kinh doanh kém hiệu quả dẫn
đến không thể thanh toán các khoản theo đúng thời hạn hoặc mất khả năng thanh
toán.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 8
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Mức đọ rủi ro cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan
như là: môi trường kinh tế, sự phát triển liên ngành, môi trường pháp lý… Các yếu
tố chủ quan như là: hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức vay tín dụng,
tính tin cậy và khả năng trả nợ cảu các doanh nghiệp khi đến hạn. Rủi ro tín dụng
xuất phát từ hoạt động tín dụng khi mà bên vay tín dụng vi phạm các điều khoản
trong hợp đồng tín dụng. Để giảm bớt các rủi ro cho bên cho vay mà ở đây chủ yếu
là các ngân hàng thì lãi suất tín dụng là một biện pháp tốt nhất, những khoản vay
tín dụng có rủi ro càng lớn thì lãi suất càng cao và ngược lại. Thông thường, thời
hạn cho vay càng dài, rủi ro tiềm ẩn đối với người cho vay (rủi ro thanh khoản, rủi
ro lạm phát,…) càng lớn, vì vậy lãi suất cho vay cũng cao hơn.
1.3.5. Tỷ giá
Tỷ giá tác động đến sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa của một
nước. Khi ngoại tệ tăng giá sẽ làm giá hàng nhập khẩu tăng lên, dẫn đến tăng chi
phí đầu vào, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, nhu cầu đầu tư giảm và lãi suất
giảm. Ngược lại, khi ngoại tệ giảm giá làm hạn chế xuất khẩu, kích thích nhập
khẩu, cầu tiền tệ tăng dẫn đến lãi suất tăng
1.3.6, Một số các nhân tố khác
* Sự ổn định về chính trị:
Nền kinh tế ổn định và phát triển là một yếu tố kiên quyết để lãi suất tín dụng được
ổn định. Khi nền kinh tế phát triển quá nóng hay là rơi vào suy thoái thì nhà nước
đều có những chính sách, biện pháp điều chỉnh lãi suất để kìm hãm hay kích thích
nền kinh tế, phù hợp với thực trạng nền kinh tế. Sự ổn định của nền chính trị cũng

rất quan trọng, nếu nền chính trị bất ổn, mỗi khi chính trị biến động, chính quyền
thay đổi thì chính sách kinh tế mới khiến cho lãi suất biến động.
* Các thể chế tài chính trung gian:
Các thể chế, định chế tài chính trung gian này có ảnh hưởng lớn đến lãi suất thị
trường như là quỹ tín dụng, bảo hiểm, thị trường cổ phiếu, bất động sản… Một khi
các thể chế tài chính trung gian này phát triển thì cần đến một lượng vốn vô cùng
lớn, khi đo cầu về vốn (tiền tệ) trên thị trường sẽ tăng và kéo theo đó là làm cho lãi
suất tín dụng tăng theo và ngược lại.
* Tình hình tài chính quốc tế:
Trong thời kì hiện nay hầu hết các quốc gia đều thực hiện chính sách mở cửa,
không ngừng tăng cường các mối quan hệ kinh tế quốc tế nói chung mà các mối
quan hệ tài chính, tín dụng nói riêng. Các mối quan hệ này phát triển nhanh chóng,
tình hình tài chính, tín dụng bây giờ không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố trong mỗi
quốc gia mà nó còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình tài chính trên thế giới. Khi
mà tình hình tài chính quốc tế ổn định thì tình hình tài chính của mỗi quốc gia cũng
không có nhiều biến động. Nhưng một khi tình hình tài chính quốc tế bất ổn, rơi vào
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 9
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
khủng hoảng thì nó có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính và tín dụng của
mỗi quốc gia. Khiến cho sản xuất kinh doanh, đầu tư, nền kinh tế có nhiều thay đổi.
CHƯƠNG 2. ỨNG DỤNG THỰC TẾ VÀO TÌNH HÌNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tỷ suất tín dụng ở Việt Nam từ năm 2010 đến 2013
2.1.1. Thực trạng tỷ suất tín dụng năm 2010
Cơ chế điều chỉnh lãi suất một lần nữa trở thành tâm điểm chú ý của người làm
chính sách, cộng đồng kinh doanh và giới nghiên cứu - phân tích vào đầu năm 2010.
NHNN, ngày 26-2-2010, đã ra quyết định cho phép các ngân hàng thỏa thuận lãi
suất cho vay trung và dài hạn (có kỳ hạn trên 365 ngày) với doanh nghiệp. Chủ tịch
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG) Lê Đức Thúy có ý kiến tại cuộc họp

báo thường kỳ Chính phủ ngày 3-3-2010 rằng, Chính phủ có thể cân nhắc dỡ bỏ
trần lãi suất huy động 10,5% và nới rộng áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận cả với
những khoản vay ngắn hạn (có kỳ hạn dưới 365 ngày). Tại thời điểm đó, hai câu hỏi
được đặt ra nhiều nhất: Thứ nhất, NHNN có tiếp tục sử dụng lãi suất cơ bản làm
công cụ chủ đạo điều tiết thị trường tiền tệ? Thứ hai, mặt bằng lãi suất mới sẽ như
thế nào trong thời gian tới?
Với câu hỏi thứ hai, thị trường đã chuyển động gần đúng với những dự báo lý
thuyết. Lãi suất thương mại được nâng lên. Vào thời điểm giữa tháng 3-2010, lãi
suất cho vay dao động từ 17%-20%/năm. Những điều chỉnh của Ngân hàng Nhà
nước, cùng với động thái tích cực của lãi suất huy động vốn mới nhất cận kề trung
tuần tháng 4-2010, những thay đổi rõ nét đang diễn ra. Khảo sát nhanh ngày 16-4-
2010 tại các ngân hàng thương mại ghi nhận mức lãi suất huy động phổ biến dao
động từ 11,5%/năm đến 11,9%/năm(4). Kết quả thống kê cho thấy:
a) Việc tăng lãi suất đồng loạt chứng tỏ các ngân hàng thực chất đang chuẩn hóa
lại mức lãi suất công bố minh bạch, mặc dù trước đó có thể đã phải thực hành
nhiều cách thức không chính thức để thỏa mãn mức bù rủi ro khách gửi tiền muốn
(như khuyến mãi);
b) Áp lực cạnh tranh để thu hút nguồn thanh khoản gia tăng, có thể do dự báo rằng
khả năng NHNN can thiệp sâu để bù thanh khoản cho hệ thống sẽ giảm đi đáng kể
theo những động thái chính sách tiền tệ cuối quý I/2010;
c) Mức giảm chênh lệch do xu hướng đồng thuận giảm lãi suất cho vay xuống mức
15% (từ mức cao 17-18%) và xu hướng tăng lãi suất mới chớm xuất hiện này cho
thấy NHTM còn phải giải quyết bài toán tương phản giữa tăng thanh khoản và suy
giảm lợi nhuận từ hoạt động tín dụng.
Đối chiếu khảo sát ý kiến người dân về lựa chọn kênh đầu tư trong năm 2009 và
2010 cũng phản ánh sự thay đổi có thể giải thích hiện tượng thu hút vốn ngân hàng
khó thời gian vừa qua, và dẫn tới tình trạng sức ép tăng lãi suất tiền gửi cao hơn, ít
nhất là về xu hướng giảm tiền gửi ngân hàng. Sự sẵn sàng cho đầu tư chứng khoán
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 10

Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
cũng cao hơn, cùng xu hướng với đầu tư (đầu cơ) bất động sản. Riêng nhóm sản
xuất - kinh doanh không có nhiều cải thiện về xu hướng, nếu điều chuyển đầu tư
khác và bảo hiểm (thường có liên quan tới sản xuất - kinh doanh) vào nhóm này
của điều tra.
Để đảm bảo hấp dẫn, mức huy động lãi suất các ngân hàng phải rơi vào khoảng
trên 11,5%/năm trở lên với lãi suất kỳ hạn 3 tháng. Để có thêm chi tiết, có thể xét
lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng theo công bố của Vietcombank ngày 13-3 là
10,49% (VND) và 3,2% (USD). Ở mức kỳ vọng lạm phát thấp nhất, lãi suất VND 3
tháng phải đạt 11,79% và ở mức cao nhất (của phép tính giả định tại đây): 12,78%.
Rõ ràng không thấy sức hấp dẫn với lãi suất tiền đồng của ngân hàng, vì ở dưới các
cận này, tình trạng đô-la hóa sẽ gia tăng vì lợi ích của người gửi tiền. Từ quan sát
chuyển động vi mô này, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu chứng khoán và bất động
sản được hưởng lợi từ sự dịch chuyển ý thức đầu tư vừa xét .
2.1.1 Thực trạng tỷ suất tín dụng năm 2011
Quý I năm 2011 vào khoảng hơn một tháng cuối năm 2010, lãi suất đồng Việt
Nam liên tục biến động theo chiều hướng tăng. Lãi suất huy động VND đã tăng vọt
từ 11-11.5% lên đến trên 17%/ năm ở một số ngân hàng thương mại với những kỳ
hạn ngắn. Đồng thời lãi suất cho vay VND cũng leo thang từ 13-14% lên 19-21%/
năm tùy từng loại khoản vay. Sang đến quý I năm 2011, lãi suất huy động vốn VND
đã trở nên ít biến động hơn so với cuối năm 2010 và phổ biến ở mức 13.5-
14%/năm, lãi suất cho vay tăng khoảng 1-1.5%/ năm và duy trỳ ở mức bình quân
là 16.23%/ năm: lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở
mức 14-16%/ năm, lĩnh vực phi sản xuất là 18-22%/ năm. Ngày 3/3, Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định lãi suất huy động
vốn tối đã bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài. Như vậy, cam kết thực hiện trần lãi suất tháng 12/2010 của các ngân
hàng thương mại qua giám sát thực hiện của Ngân hàng Nhà nước đã chính thức
được thực hiện cụ thể bằng một văn bản quy phạm pháp luật. Theo thông tư này, tổ
chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND của các tổ chức (trừ các tổ

chức tín dụng) và cá nhân bao gồm các khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức
không vượt quá 14%/ năm; riêng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất
huy động vốn bằng VND không vượt quá 14.5%/ năm. Đầu năm 2011, thị trường
lãi suất USD bắt đầu nóng lên. Từ khoảng giữa tháng 1, các ngân hàng đều nâng lãi
suất huy động USD lên mức 5.3- 6.24%/ năm, tăng khoảng 0.4- 1% so với cuối năm
2010. Cụ thể là: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Tây (Western Bank)
5,5%/ năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
(Eximbank), 5,3%/ năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thương Tín
(VietBank) 6%/ năm, cao nhất là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt
(Navibank) với 6,24%/ năm. Việc tăng lãi suất huy động USD có nguyên nhân chủ
yếu xuất phát từ nhu cầu vay vốn bằng USD ở mức cao. Việc chênh lệch lăi suất cho
vay bằng VND và USD có thể được xem là nguyên nhân chủ yếu của nhu cầu này.
Các doanh nghiệp vay USD chỉ phải trả lãi 6-7%/ năm, nhưng khi vay bằng VND, họ
phải trả lãi lên đến 20-22%/ năm. Thêm vào đó, các ngân hàng thương mại cũng
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 11
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
thu được lợi nhuận từ tỷ giá và lãi suất, nên càng muốn thu hút USD. Ngày
8/3/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện
tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của
Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng. Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà
nước quy định các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong
thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng là 12,0%/ năm,
lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một số loại lãi suất điều hành.
Lần trước, ngày 17/2, mức tăng lãi suất tái cấp vốn là từ 9%/năm lên
11%/năm.Trong lần điều chỉnh này, lãi suất tái chiết khấu được tăng mạnh, từ
7%/năm lên 12%/năm. Như vậy. ngay từ đầu năm, NHNN đã tăng các lãi suất cơ
bản, thể hiện rõ quyết tâm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Trong những

ngày cuối Quý I/2011, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng và giao dịch ở mức
khoảng 16-18%/năm, chủ yếu kỳ hạn dưới 1 tháng; lãi suất 1 tuần ở mức 18-
20%/năm. Nguyên nhân là tính đến cuối tháng 3/2011, nợ xấu toàn hệ thống tăng
cao so với cuối năm 2010. Đặc biệt, nợ nhóm 3 tăng khoảng 38%, nợ nhóm 4 tăng
gần 30%, nợ nhóm 5 tăng 12%. Tính thanh khoản của hệ thống giảm do không thu
hồi được nợ.
Quý II năm 2011, : Lãi suất huy động vốn không kỳ hạn bị đẩy lên những mức
rất cao (9-10%) thay cho mức 2-3% như trước đây. Quyết định này vô tình đẩy thị
trường huy động vào một cuộc đua mới, gây rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống
ngân hàng. Bởi nguồn vốn không kỳ hạn vốn chiếm một tỉ trọng khá lớn trong cơ
cấu huy động của một số ngân hàng, thậm chí có thể lên tới 10-40% tổng nguồn
vốn huy động vì thường là khoản tiền gửi thanh toán với giá trị lớn của các doanh
nghiệp. Diễn biến này vào thời điểm ấy đã đưa đến quan ngại rằng cuộc đua lãi
suất không kỳ hạn có thể mang đến những bất ổn cho thị trường tiền tệ. Trong khi
đó, động thái tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng lên đến 13% kể từ đầu tháng 4, từ mức 12% trước đó cũng
đã tạo nên những tác động khác. Chưa kể đây là lần thứ ba NHNN tăng lãi suất tái
cấp vốn với tổng mức điều chỉnh là 4%, từ 9% lên 13%. Việc tăng lãi suất này đã có
tác động tiêu cực tới mặt bằng lãi suất trong ngắn hạn, là yêu tố gây mất ổn định
thị trường tiền tệ, dù rằng về trung và dài hạn sẽ góp phần nâng cao việc quản trị
thanh khoản trong toàn hệ thống ngân hàng. Đến ngày 29/4, NHNN đã công bố
quyết định điều chỉnh các lãi suất điều hành quan trọng là lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất chiết khấu. Kể từ ngày 1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm
thay cho mức 13%/năm áp dụng từ ngày 1/4. Đây được coi là một thông điệp khác
về thắt chặt chính sách tiền tệ nhằm góp phần kiềm chế lạm phát.
2.1.2.Thực trạng lãi suất tín dụng năm 2012
Năm 2012,mặt bằng lãi suất huy động VND giảm 3-6%/năm; Lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng giảm 10-11%/năm.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 12

Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Bên cạnh đó, lãi suất mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh về mức
định hướng của ngân hàng nhà nước đề ra ngay từ đầu năm nhưng với lộ trình
giảm nhanh hơn dự kiến, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đặc biệt là
diễn biến của lạm phát. Lãi suất huy động giảm từ 3-6%/năm, lãi suất cho vay
giảm 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và đã trở về với mức lãi suất cuối năm 2007.
Tính đến ngày 20/12/2012 dư nợ cho vay bằng VND có mức lãi suất trên 15%/năm
chiếm tỷ trọng 18,7%, giảm so với mức 65% trước ngày 15/7/2012; đến cuối tháng
9 các TCTD đã xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho khách
hàng vay với tổng số tiền là 252.159 tỷ đồng.
Thống đốc Bình nhận xét, trước đây, tăng trưởng cho vay các năm đều đạt 30-50%,
song tăng trưởng kinh tế cũng chỉ 7-8% là cao nhất, có nghĩa 4-5 đồng vốn bỏ ra
mới tạo được 1 đồng tăng trưởng. Do đó, năm 2012, với mức tăng tín dụng 7% tính
đến thời điểm này và tăng trưởng kinh tế cũng quanh 7%, rõ ràng có hiệu quả.
Mặt khác, theo lời ông Nguyễn Văn Bình, trước đây, cơ cấu tín dụng chủ yếu tập
trung vào phi sản xuất trong đó có nhiều cho bất động sản, song đến 2012 tỷ trọng
này thấp, chủ yếu vốn được dành cho các lĩnh vực ưu tiên, sản xuất kinh doanh,
xuất khẩu, nông nghiệp… đã cho thấy dòng vốn chuyển dịch dần.
Thanh khoản của hệ thống các tổ chức tín dụng được cải thiện, số dư tiền gửi của
TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tín dụng/huy
động vốn bằng VND giảm xuống mức khoảng 95%; lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng giảm mạnh từ 10-11%/năm so với cuối năm 2011
Thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định, đến ngày 21/12/2012tỷ giá mua trung bình
của các NHTM giảm 0,96% so với cuối năm 2011, tình trạng đô la hóa.
Trong khi đó, nợ xấu của các TCTD sau khi tăng mạnh vào những tháng đầu năm
đã được khống chế và từng bước xử lý. Sau một năm khai cơ cấu lại hệ thống các
TCTD, rủi ro hệ thống từng bước được kiểm soát, nguy cơ đổ vỡ hệ thống từng
bước đẩy lùi.
Tuy nhiên, NHNN cũng thừa nhận hoạt động điều hành chính sách tiền tệ và hoạt
động ngân hàng năm 2012 cũng còn những hạn chế như: Tăng trưởng tín dụng

thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là do các nhân tố bên ngoài cầu tín dụng ngoài
lãi suất; nợ xấu gia.
Năm 2012, lãi suất đã có bước giảm mạnh, từ mốc 14% xuống còn 9% thì nhanh
nhưng từ 9% xuống 8%/năm thì phải cân nhắc. Bởi lạm phát tháng 9 biến động
lớn 2,2%, gây nguy cơ bùng nổ bất kỳ thời điểm nào. Trong hai tháng cuối năm, khi
NHNN đánh giá chắc chắn lạm phát kiểm soát được, mới quyết định giảm lãi suất
thêm 1 điểm phần trăm. Năm 2013 có giảm được lãi suất hay không phụ thuộc vào
tình hình kiểm soát lạm phát
2.1.3. Thực trạng lãi suất tín dụng 2013
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 13
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Căn cứ vào diễn biến kinh tế vĩ mô để giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa và
giảm tồn kho, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay giảm khoảng 2-3%/năm so
với đầu năm. Ngày 10/5/1013, NHNN đã điều chỉnh giảm 1 % các mức lãi suất chủ
chốt, làm cơ sở để các ngân hàng thương mại hạ lãi suất cho vay. Từ 13/5/2013,
bốn ngân hàng thương mại nhà nước đã cùng điều chỉnh lãi suất cho vay về mức
dưới 13%/năm.
Bên cạnh việc khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) đẩy mạnh cho vay các
lĩnh vực ưu tiên, NHNN tiếp tục đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, như quy định “trần”
lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là 10%/năm, giảm dự trữ bắt buộc cho
các TCTD có tỷ trọng đầu tư lớn vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nhờ đó, tăng
trưởng tín dụng ở các lĩnh vực ưu tiên đã cao hơn mức tăng trung bình của toàn bộ
nền kinh tế.
Hiện lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 7 - 9%/năm; lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh ở mức 9 - 11%/năm, trong đó, đối với khách hàng tốt lãi suất cho
vay chỉ từ 6,5 - 7%/năm.
Theo nhận định của NHNN chi nhánh TPHCM lãi suất trên địa bàn đã ổn định và có
xu hướng giảm

Lãi suất giảm mạnh: Mặt bằng lãi suất VND trong tháng 8 đã giảm khoảng 2 đến
5%/ năm so với đầu năm trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm , lãi suất cho
vay giảm khoảng 3-5%/năm. Cùng với đó lãi suất các khoản vay cũ cũng được các
tổ chức tín dụng tích cực giảm
Đối với lãi suất huy động: Trần lãi suất huy động VND chỉ còn ở mức 7%/năm và
chỉ áp dụng đối với kỳ hạn dưới 6 tháng. Hiện tại , lãi suất tín dụng được các tổ
chức tín dụng(TCTD) áp dụng phổ biến ở mức 4.6%-7%/ năm đối với kì hạn 3
tháng , ở mức 5-7%/năm đối với kì hạn 6 tháng, 5.4-8.5%/ năm đối với lãi suất 12
tháng
Đối với lãi suất cho vay :So với thời điểm cuối năm 2012, lãi suất cho vay của các
ngân hàng thương mại(NHTM) trên địa bàn giảm mạn từ 12.5%-17% xuống còn
10-14%/năm . Riêng lãi suất cho vay 5 nhóm lĩnh vực ưu tiên giảm từ 12% xuống
còn 9%/năm. Cùng với việc giảm lãi suất các khoản vay cũ về dưới 13%/năm, thực
hiện cơ cấu lại nợ đã tạo điều kiện giúp doanh nghiệp vay vốn thuận lợi, giảm chi
phí hoạt động, phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh
2.2. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng từ năm 2010
đến 2013
2.2.1.Những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng năm 2010
Năm 2010 là năm đầy biến động với việc bùng nổ cơn sốt lãi suất huy động với
việc chạy đua tăng lãi suất của các ngân hàng, mặc dù đã được Ngân hàng Nhà
nước điều chỉnh, xử lý. Cụ thể vào giữa tháng 3-2010 lãi suất dao động từ 17%-
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 14
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
20%/năm con số quá cao chưa từng thấy, nhưng do sự điều chỉnh của NHNN mà
đã có chuyển biến tích cực của lãi suất huy động vốn là tháng 4-2010 giảm xuống
còn 11,5%-11,9%. Tuy nhiên vấn để quản lí vẫn còn chậm,chưa chủ động trong việc
dự đoán tình hình để chỉ đạo.
Tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 đạt 27%, tăng trưởng cung tiền ở mức 25%.
Đáng lưu ý là tăng trưởng tín dụng ngoại tệ cao hơn nhiều so với nội tệ. Hệ thống

ngân hàng đang gặp khó khăn khi huy động vốn. ,nhưng điểm tích cực là tốc độ
tăng trưởng tiền gửi vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng.Tăng trưởng tín dụng
trong 10 tháng đầu năm 2010 đã đạt 22.5%, thấp hơn nhiều so với mức 33.29%
cùng kỳ năm trước nhưng cũng là mức rất cao. Đáng chú ý là tín dụng bằng ngoại
tệ tăng 52.6%, còn bằng nội tệ chỉ tăng 14.6%.Tăng trưởng cung tiền cao đã tạo áp
lực lớn lên lạm phát và tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Lãi suất duy trì ở mức rất cao gây trở ngại cho hoạt động của doanh nghiệp.
Nguyên nhân chủ yếu là do lạm phát cao vượt dự kiến, chính sách tiền tệ thắt chặt,
đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh và sức ép từ các quy định, đặc biệt là Thông tư
13.
• Lạm phát cao vượt dự kiến: Lạm phát cao đã khiến người dân không còn
muốn cất giữ tiền mặt, thay vào đó đầu tư các tài sản có tính thanh khoản
tốt và thường tăng theo lạm phát là USD và vàng. Vì vậy, các ngân hàng
không những khó huy động vốn mà tiền tiết kiệm được rút ra để đầu tư vào
các tài sản có tính an toàn cao hơn.
• Chính sách tiền tệ thắt chặt: Ngày 5/11, NHNN quyết định điều chỉnh các lãi
suất thêm 1%, lãi suất cơ bản lên 9%, lãi suất tái cấp vốn lên 9%, lãi suất tái
chiết khấu lên 7%. Động thái này cho thấy NHNN đang sử dụng chính sách
thắt chặt tiền tệ để phòng chống lạm phát. Trong thời gian qua, NHNN cũng
đã hạn chế cung tiền qua thị trường mở. Các chính sách thắt chặt tiền tệ
được áp dụng đã đưa lãi suất trong nền kinh tế tăng cao trong suốt năm
2010. Trong những tháng đầu năm, lãi suất cho vay phổ biến 14 - 17%, lãi
suất huy động khoảng 12%. Cuối năm 2010, cuộc đua lãi suất lại bùng phát
trở lại trước áp lực lạm phát và các quy định của Thông tư 13. Lãi suất huy
động hiện nay đã lên tới 14 - 16%, thậm chí có ngân hàng đã huy động với
lãi suất lên đến 17 - 18%. Lãi suất cho vay phổ biến ở mức 19 - 20%.Trước
hiện trạng này, NHNN đã đồng thuận với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam
(VNBA) về mức lãi suất huy động VND, bao gồm cả khoản chi khuyến mại
dưới mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm.Như vậy, mặc dù đã cho
phép các ngân hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy

đua lãi suất, NHNN đã phải can thiệp bằng biện pháp hành chính.
• Đầu tư khu vực nhà nước tăng mạnh: Năm 2010, dù lãi suất đứng ở mức rất
cao nhưng đầu tư trong nền kinh tế vẫn lên tới 43% GDP. Điều này cho thấy
thực tế là lãi suất cao không làm giảm tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế. Nguyên
nhân là do đầu tư khu vực nhà nước tăng lên rất mạnh và đã kéo mặt bằng
lãi suất lên cao.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 15
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
• Sức ép từ Thông tư 13: Thông tư 13 yêu cầu nâng hệ số an toàn vốn tối thiểu
CAR từ 8% lên 9% và quy định số tiền cho vay không quá 80% huy động
được. Trước khi có quy định hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều có hệ số
CAR chưa đạt đến 9% và dư nợ cho vay lớn hơn vốn huy động. Ngoài ra, quy
định tại Thông tư 13 còn nâng hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay đầu tư
bất động sản và chứng khoán từ 100% lên 250%. Do vậy, các ngân hàng đã
phải hạn chế cho vay và tăng cường huy động vốn để đáp ứng được quy định
trên. Đây là một nguyên nhân khá quan trọng đẩy nhu cầu huy động vốn lên
cao và buộc các ngân hàng phải hạn chế cho vay.
2.2.2. Nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng năm 2011
Trong bối cảnh lạm phát tăng vọt, đầu tư công tràn lan kém hiệu quả và các "đầu
tàu" của nền kinh tế đầu tư ồ ạt ra ngoài ngành, Nghị quyết 11 (ngày 24/2/2011)
của Chính phủ được coi như một phát súng lệnh để tổng rà soát và tái cơ cấu lại
hoạt động của nền kinh tế, ổn định vĩ mô.
Việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm
đầu tư công, kiềm chế nhập siêu và đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết 11 đã
được thể hiện xuyên suốt trong điều hành vĩ mô của Chính phủ năm 2011, gồm 6
nhóm giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó tập trung vào kiềm chế lạm
phát. Nhờ thực hiện quyết liệt những giải pháp trên, tình hình lạm phát đã được cải
thiện trong cuối quý 3/2011 khi tốc độ tăng CPI hàng tháng bắt đầu giảm từ tháng
8/2011 và duy trì ở mức dưới 1% cho đến cuối năm. Sang tháng 1/2012, mặc dù là

tháng Tết, chỉ số giá CPI cũng chỉ tăng 1% so với tháng trước
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng năm 2011:
• Lạm phát: Lãi suất có xu hướng tăng cao từ đầu năm 2011 do áp lực của lạm
phát. Tuy nhiên, trong quý 3/2011, lãi suất cho vay VNĐ có xu hướng giảm,
nhưng không nhiều, do can thiệp của NHNN buộc các ngân hàng thực hiện
nghiêm chỉnh quy định về trần lãi suất 14% và thành lập nhóm 12 ngân
hàng lớn để ổn định thị trường.Lãi suất liên ngân hàng, so với cuối năm
2011, tăng mạnh trong quý 1/2011, sau đó giảm nhẹ trong hai quý tiếp theo
và đột ngột tăng cao vào thời điểm cuối năm 2011. Lãi suất liên ngân hàng
tăng trong năm 2011 có nhiều khả năng là do khi trần lãi suất được giữ
nghiêm ở mức 14% nhiều ngân hàng nhỏ sẽ gặp khó khăn khi đi huy động
vốn nên phải vay trên thị trường liên ngân hàng. Nhưng sau đó với động thái
bơm ròng 22.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất liên ngân
hàng đã giảm trong tháng 9/2011. Tuy nhiên, vào thời điểm cuối năm khi
nhu cầu thanh toán tăng lên lãi suất liên ngân hàng đã tăng cao trở
lại.Ngoài vấn đề lãi suất tăng cao, còn một hiện tượng đáng chú ý là đường
cong lãi suất bị đảo ngược đối với lãi suất liên ngân hàng kì hạn 6 tháng và
12 tháng. Hiện tượng trên có thể phản ánh kì vọng của các ngân hàng lãi
suất sẽ giảm trong tương lai (khi lạm phát giảm) hoặc việc các ngân hàng sử
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 16
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn mà nguyên nhân có thể do với lãi suất
trần 14% các ngân hàng buộc phải huy động tiền gửi ngắn hạn để giữ khách.
• Chính sách tiền tệ,cung tiền:Trong năm 2011, thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát, tăng trưởng tín dụng và cung tiền đều ở
mức rất thấp so với các năm trước. Cụ thể, tín dụng tăng ở mức 12%, so với
mức 29,8% của năm 2010 và cung tiền tăng ở mức 10%, so với mức 25,3%
của năm 2010. Tuy nhiên, việc điều hành chính sách tiền tệ vẫn chưa thực sự
nhất quán khi trong tháng 8/2011 cung tiền đã bất ngờ tăng tới 5,56% so

với tháng trước. Sau đó, trong tháng 9/2011, NHNN cũng đã bơm ròng
22.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở để ổn định lãi suất liên ngân
hàng. Động thái trên của NHNN là nhằm giúp các ngân hàng thực hiện quy
định về trần lãi suất huy động 14%. Tuy nhiên, chủ trương này có thể ảnh
hưởng đến những nổ lực kiềm chế lạm phát. Việc áp dụng trần lãi suất cũng
cho thấy khả năng của NHNN trong điều hành lãi suất thông qua cung tiền
và thị trường mở bị hạn chế. Trong điều kiện lạm phát lên tới 18% thì việc
áp dụng trần lãi suất 14% là rất khó thực hiện, buộc các ngân hàng phải tìm
đủ mọi cách để “lách” quy định. Ngày 3/3, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định lãi suất huy động vốn tối đã bằng
đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Việc tăng lãi suất huy động USD có nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ nhu
cầu vay vốn bằng USD ở mức cao. Việc chênh lệch lăi suất cho vay bằng VND
và USD có thể được xem là nguyên nhân chủ yếu của nhu cầu này. Các doanh
nghiệp vay USD chỉ phải trả lãi 6-7%/ năm, nhưng khi vay bằng VND, họ
phải trả lãi lên đến 20-22%/ năm.Thêm vào đó, các ngân hàng thương mại
cũng thu được lợi nhuận từ tỷ giá và lãi suất, nên càng muốn thu hút USD.
Ngày 8/3/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-
NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn
trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng.
Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện
tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của
Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng là 12,0%/ năm, lần thứ hai kể
từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một số loại lãi suất điều hành. Đến
ngày 29/4, NHNN đã công bố quyết định điều chỉnh các lãi suất điều hành
quan trọng là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Kể từ ngày
1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm thay cho mức 13%/năm
áp dụng từ ngày 1/4. Đây được coi là một thông điệp khác về thắt chặt chính

sách tiền tệ nhằm góp phần kiềm chế lạm phát.
• Chính sách tỷ giá: Điều hành tỷ giá trong năm 2011 về cơ bản là đúng
hướng, giúp tình hình xuất khẩu trong năm rất khả quan. Tuy nhiên, cần lưu
ý xu hướng đồng Việt Nam lên giá thực, có thể làm giảm khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu về lâu dài. Xu hướng tăng giá thực cũng làm tăng
kì vọng về giảm giá danh nghĩa của đồng Việt Nam, làm gia tăng tình trạng
găm giữ ngoại tệ và theo đó ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối. Ngoài ra, chủ
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 17
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
trương ổn định tỷ giá ổn định có thể khuyến khích các khoản vay bằng ngoại
tệ, được xem là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở Thái
Lan năm 1997. Thực tế, trong năm 2011 tín dụng ngoại tệ đã tăng 18,7%,
trong khi tín dụng VND chỉ tăng 10,2%.
• Cơ cấu tiền gửi của các ngân hàng thương mại chưa vững chắc. Phần lớn
vốn sử dụng để cho vay của các ngân hàng là từ nguồn tiền gửi của các tổ
chức và tiền tiết kiệm của dân cư. Tiền gửi tiết kiệm tuy phải trả lãi suất cao
hơn nhưng có ưu điểm là nguồn này có tính ổn định, vững chắc.Bên cạnh đó,
tiền gửi của các doanh ngiệp, đặc biệt là các Tổng công ty lớn (từ hàng chục
đến hàng ngàn tỷ đồng) cũng đều là nguồn vốn không kì hạn hoặc ngắn hạn,
bất cứ lúc nào cũng đều là nguồn vốn không kì hạn hoặc ngắn hạn,bất cứ lúc
nào cũng bị rút đột ngột.Chất lượng thanh khoản của hệ thống ngân hàng
vẫn còn là một mối ngại thường trực trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng
bất thường trong những năm qua và chức năng quản lí rủi ro vẫn còn tương
đối yếu.
• Thu hút kiều hối về nước.:Để thu hút nguồn kiều hối về nước, các ngân hàng
cũng đồng loạt tăng lãi suất ngoại tệ. Với khoảng hơn 9 tỷ USD kiều hối
được chuyển về nước trong năm 2011, Việt Nam là 1 trong 10 quốc gia nhận
kiều hối nhiều nhất thế giới.
• Sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh: Một số ngân hàng thương mại cổ

phần Hà Nội tại thời điểm này tuy không thiếu vốn nhưng họ vẫn tăng lãi
suất huy động vì sợ khách hàng rút tiền gửi sang ngân hàng khác có lãi suất
cao hơn.
2.2.3 Nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng năm 2012,
Năm 2012, mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm.
Năm 2012 là một năm rất khó khăn của nền kinh tế Việt Nam với nhiều cung bậc
khác nhau. Tuy nhiên, Chính Phủ và Ngân hàng nhà nước cũng đã có những chính
sách, quyết định kịp thời và quyết liệt nhàm ổn định kinh tế, giảm bớt gánh nặng co
doanh nghiệp và giải cứu nợ xấu ở các ngân hàng.
Lạm phát từ ngưỡng 20% đã giảm xuống còn một con số dưới 7%, trong khi duy trì
được tốc độ tăng trưởng đạt trên 5% và lãi suất vay cũng đã giảm từ +-20% xuống
còn +-12 – 13%/năm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng năm 2012:
• Chính sách tiền tệ của nhà nước: Năm 2012,6 lần giảm lãi suất huy động và
cho vay.Lần đầu tiên vào ngày 13/3, mức điều chỉnh từ 14% về 13%/năm
theo yêu cầu giảm lãi suất huy động của Thủ tướng chính phủ.Tiếp đó, đến
ngày 11/4, lãi suất huy động cũng giảm thêm 1%, về 12% một năm.Ngày
28/05/2012, Ngân hàng Nhà nước vừa quyết định đưa trần lãi suất huy
động - cho vay lần lượt về còn 11 và 14% một năm, đồng thời hạ một loạt lãi
suất điều hành.Từ ngày 11/6/2012, trần lãi suất huy động VND đã giảm từ
mức 11%/năm xuống còn 9%/năm. Bên cạnh đó, theo thông tư 19/2012/TT-
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 18
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
NHNN được ban hành ngày 8/6/2012, NHNN đã cho phép các NHTM tự
quyết định lãi suất huy động kỳ hạn dài (từ 12 tháng trở lên). Đây là một
bước đi hợp lý của NHNN, giúp các NHTM tự cân đối được cơ cấu tiền gửi
theo kỳ hạn của mình.Từ 24/12/2012, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa
trần lãi suất huy động giảm xuống còn 8%/năm.
• Tăng trưởng tín dụng thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là do các nhân tố

bên ngoài cầu tín dụng ngoài lãi suất; nợ xấu gia tăng; thanh khoản của một
số NHTM cổ phần gặp khó khăn; một số TCTD chưa chấp hành nghiêm các
quy định lãi suất huy động tối đa của NHNN.
• Dư nợ tín dụng bằng VNĐ 9 tháng đầu năm tăng trưởng nhanh, tăng
11,61%, trong khi đó, dư nợ tín dụng ngoại tệ liên tục giảm, giảm đến
18,94% so với cuối năm 2012 do NHNN “siết” cho vay ngoại tệ. Đó cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tăng trưởng tín dụng chậm.
2.2.4 Nhân tố ảnh hưởng lãi suất tín dụng năm 2013 từ đầu năm đến tháng 10
Năm 2013,tín dụng tăng 6,8%, lãi suất huy động nhắm mốc 6%/năm. Lãi suất thấp
nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng thấp.
Nguyên nhân là do sự trì trệ của nền kinh tế và sự sụt giảm lòng tin của thị trường
(giữa các nhà đầu tư với nhau; giữa các ngân hàng thương mại với nhau; giữa
ngân hàng và doanh nghiệp; giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với ổn
định kinh tế vĩ mô; giữa niềm tin của người tiêu dùng đối với triển vọng hồi phục
kinh tế năm 2013).
• Do nợ xấu và hàng tồn kho còn nhiều, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản
đã ảnh hưởng đến quá trình mở rộng và tăng trưởng tín dụng của các tổ
chức tín dụng (TCTD). Ngoài ra, dư nợ tín dụng bằng VNĐ 9 tháng đầu năm
tăng trưởng nhanh, tăng 11,61% trong khi đó dư nợ tín dụng ngoại tệ liên
tục giảm, giảm đến 18,94% so với cuối năm 2012 do NHNN “siết” cho vay
ngoại tệ dẫn đến việc tăng trưởng tín dụng chậm. Phía các NHTM cho rằng,
hiện lãi suất không còn là rào cản đối với DN, tuy nhiên do trong bối cảnh
hiện nay thì DN tốt không muốn vay, còn DN xấu thì các ngân hàng không
thể cho vay vì sợ nợ xấu.Trong 5,99% nợ xấu, nợ nhóm 5 (có khả năng mất
vốn) chiếm tỷ lệ cao nhất, hơn 69%. Trong đó, khối công ty tài chính và cho
thuê tài chính có tỷ lệ nợ xấu cao nhất, chiếm 44%, khối NH nước ngoài có tỷ
lệ nợ xấu thấp nhất, chiếm 2,93%. Nợ nhóm 5 chủ yếu rơi vào lĩnh vực bất
động sản và tiêu dùng. Các ngân hàng tăng cường trích lập phòng rủi ro
theo quy định. Theo thống kê, 6 tháng đầu năm, 14 NHTM trên địa bàn đã
trích dự phòng rủi ro 9.495 tỷ đồng.

• Rủi ro tín dụng, nguồn cung tiền :Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, đang
tồn tại một nghịch lý về tiền vốn, đó là ngân hàng thì thừa tiền, doanh
nghiệp thì thiếu vốn. Thực tế cũng cho thấy, dù liên tục giảm lãi suất huy
động vốn nhưng dòng tiền chảy vào hệ thống ngân hàng vẫn tăng nhanh,
trong khi vốn cho vay tăng trưởng rất thấp. Lãi suất giảm nhưng doanh
nghiệp vẫn khó vay.Theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, họ vẫn chưa
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 19
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
tiếp cận được các khoản vay với lãi suất thấp. Nhiều doanh nghiệp phàn nàn
rằng, họ muốn vay mới để đầu tư sản xuất nhưng do còn có những khoản nợ
cũ chưa trả được nên ngân hàng không cho vay. Lãnh đạo một số ngân hàng
thì cho rằng, lãi suất đã giảm, nhưng tâm lý doanh nghiệp còn chờ đợi sẽ
giảm tiếp nên chưa muốn vay. Đây là một trong những nguyên nhân khiến
cho vốn trong hệ thống ngân hàng có trạng thái dư thừa. Hiệp hội doanh
nghiệp TP Hồ Chí Minh cho biết, trong thời điểm hiện nay vấn đề làm doanh
nghiệp lo lắng là tồn kho lớn, hàng hóa không bán được dẫn đến doanh
nghiệp không tha thiết vay. Bản thân Hiệp hội đã giới thiệu nhiều doanh
nghiệp đến các ngân hàng thương mại xin vay vốn nhưng đều bị từ chối vì
khả năng trả nợ chưa cao, điều kiện cho vay vẫn như cũ, trong khi tài sản đã
thế chấp hết cho các khoản nợ cũ nay không thể dùng để thế chấp
tiếp.Ngành ngân hàng đã có nhiều biện pháp huy động vốn, áp dụng nhiều
giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, tái cấu trúc nợ cho doanh nghiệp nhằm khơi
thông dòng vốn nhưng dòng vốn tín dụng vẫn chưa được khơi thông. Chủ
yếu do các hợp đồng vay vốn doanh nghiệp đã ký trước đây có mức lãi suất
cao, mức 9% năm hiện nay chỉ áp dụng cho các khoản vay mới nhưng doanh
nghiệp không tiếp cận được, do nợ cũ chưa trả được nên ngân hàng không
cho vay tiếp. Chưa kể lãi suất cho vay trung, dài hạn vẫn còn cao và khó tiếp
cận hơn nữa.
• Lạm phát tiếp tục giảm xuống mức thấp.:Lạm phát theo tháng có xu hướng

tăng kể từ tháng 6 và đạt mức cao trong hai tháng cuối quý 3/2013 (bình
quân tháng trong quý 3 tăng 0,7% so với mức âm của quý trước). Tuy nhiên,
CPI các tháng này chịu tác động chủ yếu của việc điều chỉnh mùa vụ (giá các
hàng hóa, dịch vụ công do nhà nước quản lý) chứ không phải do các yếu tố
cơ bản của lạm phát tăng, đặc biệt là tổng cầu hiện vẫn còn thấp (Hình 4).
Sang tháng 10/2013, lạm phát so với cùng kỳ giảm xuống mức thấp nhất kể
từ năm 2010 (5,92%) và lạm phát cơ bản cũng trong xu hướng giảm (từ
mức 10% trong tháng 9 xuống còn 8,85%). So với tháng trước, CPI tăng
0,49% do sự tăng lên của nhóm hàng lương thực thực phẩm và nhóm nhà ở,
điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng.Trong quý 4/2013, phân tích yếu tố
chu kỳ cho thấy đây là quý có mức tăng cao nhất trong năm, tuy nhiên sức
cầu còn yếu nên sẽ hạn chế đáng kể đà tăng giá trong các tháng tới. Các yếu
tố chính gây tăng giá trong quý này bao gồm: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống tăng, nhu cầu mua sắm theo thời vụ các tháng cận Tết, khả năng điều
chỉnh giá xăng dầu, gas. Dự báo lạm phát bình quân tháng sẽ dao động
trong khoảng 0,6-0,8% nếu không có điều chỉnh đột biến về giá các mặt
hàng nhà nước quản lý.Tính đến tháng 10, CPI tăng 5,14% so với đầu năm,
do đó dư địa còn lại cho lạm phát quý 4 là 1,9% tương ứng với mức bình
quân tháng khoảng 0,63%. Lạm phát cả năm 2013 dự báo vẫn được kiểm
soát xung quanh mức 7% nếu như có sự quản lý và điều tiết tốt việc điều
chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ do nhà nước quản lý.
• Thị trường tiền tệ :Thị trường tiền tệ tiếp tục ổn định, mặc dù có vài biến
động ngắn hạn trong trung tuần tháng 10 do tâm lý đón đầu nhu cầu tín
dụng tăng vào cuối năm mang tính chất mùa vụ. Trong 10 tháng qua, rủi ro
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 20
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
của hệ thống tổ chức tín dụng đã giảm bớt với những chuyển biến tích cực
như: (1) thanh khoản hệ thống dồi dào với sự gia tăng mạnh của tiền gửi
của khu vực dân cư và TCKT (hệ LDR giảm) khiến cho mặt bằng lãi suất huy

động, cho vay và cả LNH giảm mạnh xuống mức thấp ngang với thời điểm
năm 2006; (2) cơ cấu tín dụng cũng có sự chuyển biến tích cực với việc cơ
cấu kỳ hạn, cơ cấu đồng tiền trở nên hợp lý hơn (tín dụng VNĐ tăng trong
khi tín dụng ngoại tệ giảm), đường cong lãi suất hợp lý hơn theo nguyên lý
kinh tế. Tính đến cuối tháng 9, tăng trưởng tín dụng đạt 6,82%, cao hơn so
với cùng kỳ và chiếm hơn 50% kế hoạch. Để đạt được kế hoạch cả năm, tốc
độ tăng bình quân các tháng cuối năm cần phải đạt mức 1,7%/tháng.
2.3. Giải pháp ổn định tỷ suất tín dụng hiện nay
2.3.1. Giảm lãi suất cho vay.
Hiện tại tổng cầu của nền kinh tế còn yếu nên nguy cơ lạm phát tăng mạnh trong
năm 2013 là không lớn. Thực tế cho thấy, trong khi cung tiền M2 tăng khá mạnh,
lạm phát năm 2012 vẫn được kiểm soát khá tốt. Năm 2013, Ngân hàng Nhà nước
cần tiếp tục kiểm soát tổng hạn mức tín dụng và tổng phương tiện thanh toán M2,
như vậy việc hạ lãi suất sẽ không gây tác động mạnh đến lạm phát năm 2013.
Phân tích cụ thể về những yếu tố cơ sở để hạ lãi suất cho thấy: nếu đặt mục tiêu lạm
phát năm 2013 là 6% thì dư địa hạ lãi suất trong năm tới có thể được nới rộng;
hơn nữa, nếu xét về tương quan giữa lãi suất tiền gửi tại Việt Nam so với các nước
trên thế giới (tại Mỹ khoảng 0,5-0,75%/năm) thì việc tiếp tục hạ lãi suất sẽ vẫn
đảm bảo được chênh lệch lãi suất mà không gây ra áp lực tỷ giá trong năm 2013.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, ít có khả năng việc hạ lãi suất sẽ gây
ra tình trạng rút tiền tại ngân hàng để chuyển sang các kênh đầu tư khác, tốc độ
tăng tiền gửi và do đó là thanh khoản của hệ thống ngân hàng vì vậy vẫn sẽ được
đảm bảo.
2.3.2. Khai thác mọi nguồn vốn đầu tư.
Cần khai thác mọi nguồn vốn đầu tư để đảm bảo mức tổng vốn đầu tư toàn xã hội
đảm bảo ở mức tương đương 30% GDP như mục tiêu đề ra. Ngoài việc bổ sung vốn
đầu tư trái phiếu Chính phủ cao hơn so với năm trước với định hướng tập trung
vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa
của các ngành nghề có liên quan đến lĩnh vực xây dựng - bất động sản, tạo tác động
lan tỏa kích cầu để tăng trưởng kinh tế sớm hồi phục, tăng trưởng tín dụng ngân

hàng năm 2013 cần phấn đấu đạt mức tăng 12-15% trong năm 2013.
Bên cạnh đó, việc sớm hoàn thiện quy chế PPP (quan hệ đối tác công tư) và đẩy
nhanh tiến trình triển khai phương thức đầu tư này để thu hút nguồn lực tài chính
từ khu vực ngoài Nhà nước cũng là một trong những biện pháp quan trọng góp
phần đảm bảo mức huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mục tiêu đề ra.
2.3.3. Tăng cường tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 21
Nhóm 13- trường Đại học Thương mại
Khả năng cân đối ngân sách năm 2013 sẽ là rất khó khăn do thu ngân sách Nhà
nước, đặc biệt là thu nội địa (thu thuế doanh nghiệp, các khoản thu về nhà và đất…)
sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, trong khi đó nhu cầu chi ngân sách Nhà nước cho cả
chi thường xuyên và chi đầu tư để phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội vẫn là
rất lớn.
Vì vậy, năm 2013 cần tăng cường kiểm soát chi ngân sách hợp lý (bao gồm cả chi
thường xuyên và chi đầu tư phát triển) nhằm thực hiện mục tiêu cắt giảm thâm hụt
và đảm bảo ngân sach dài hạn .
2.3.4. Xử lý nợ xấu – tái cơ cấu tổ chức tín dụng.
Cần khẩn trương đẩy nhanh triển khai xử lý nợ xấu gắn liền với tái cơ cấu các tổ
chức tín dụng trong thời gian sớm nhất, nhằm khắc phục điểm nghẽn, khơi thông
nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế, ổn định thanh khoản của toàn hệ thống ngân
hàng, từ đó khôi phục và thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng.
2.3.5. Triển khai tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế.
Cần đẩy mạnh triển khai trên thực tế tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, kết hợp cải
cách hành chính nhằm tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, trên
cơ sở đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thảo luận môn tài chính tiền tệ
Page 22

×