Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

thị trường lao động Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298 KB, 60 trang )

A. Lời nói đầu
Lao động và việc làm hiện nay và trong tương lai vẫn là vấn đề bức
xúc, nhạy cảm đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Đặc biệt đối với những
nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta, đây là vấn đề rất được quan tâm
nó có tác động trực tiếp đến mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức, mỗi hộ gia
đình và từng người lao động trong cả nước. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng
của vấn đề này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đề ra các chính
sách nhằm phát triển kinh tế do đó đã làm thay đổi đáng kể về quy mô, cơ cấu
lao động và vấn đề về giải quyết việc làm, dần dần chuyển Việt Nam sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, tỷ
lệ lao động thất nghiệp, chưa có việc làm của thành phố có xu hướng giảm từ
11,25%, (năm 1991) còn 82% (năm 1994), 6,16% (năm 1997) và 6,18% (năm
1998). Theo điều tra của bộ lao động thương binh và xã hội công bố ngày
25/10/2001, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 6,28%. Kinh nghiệm mở
rộng các cơ hội có việc làm trong những năm 1980 của 69 nước trên thế giới
đã cho kết luận; tốc độ tăng của việc làm liên quan chặt chẽ va tỷ lệ thuận với
tốc độ tăng của GDP theo đầu người và sự giảm thiếu hụt chỉ số phát triển
nhân lực (HDI). Tốc độ tăng GDP theo đầu người hàng năm tăng lên 1% sẽ
làm tốc độ tăng việc làm lên 0,18%. Và sự thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực
giảm đi 1% sẽ làm tốc độ tăng của việc làm lên 0,09%. Kết quả này cho thấy
việc mở rộng cơ hội có việc làm phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế và vào
việc tăng cường năng lực cơ bản cho con người. Những chính sách giải pháp
hoàn thiện thị trường lao động Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước hết sức
quan tâm nhằm phát triển thị trường lao động ở nước ta, về giải quyết việc
làm cho người lao động, giảm áp lực về lao động, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực... trong thời gian hạn hẹp của đề tài “ thị trường lao động Việt
Nam ” chỉ đề cập tới những vấn đề khái quát nhất. Nội dung của đề tài gồm:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Chương I: Những vấn đề chung về thị trường lao động
Chương II: Phân tích thực trạng thị trường lao động Việt Nam trong


thời gian qua
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động Việt
Nam.
C. Phần kết luận.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Hoàng Ngân đã tận tình giúp đỡ em
hoàn thành đề án này.
B. Phần Nội Dung
Chương I: Những vấn đề chung về thị trường
lao động
I. Khái niệm thị trường lao động
I.1. Một số quan niệm về thị trường lao động
Trước hết có thể hiểu rằng thị trường lao động là một thị trường hàng
hoá. Một số nước quan niệm rằng đây là một thị trường hàng hoá bình
thường, không có gì đặc biệt so với các thị trường khác, song cũng có một số
nước khác lại cho rằng đây là một thị trường hàng hoá đặc biệt, và do vậy đã
xuất hiện những trường phái với những quan điểm khác nhau về sự can thiệp
của Nhà nước vào thị trường này.
Phái Tân cổ điển không đề cập gì đến vai trò của Nhà nước và cho rằng
Nhà nước đứng ngoài cuộc.
Phái duy tiền tệ coi vai trò của Nhà nước trong việc can thiệp vào thị
trường lao động là cần thiết và có hiệu quả.
ở Đức, sau chiến tranh thế giới thứ hai, quan niệm rằng: thị trường lao
động là thị trường hàng hoá đặc biệt. Vì vậy Nhà nước phải có chính sách
riêng nhằm can thiệp, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Như vậy, thị
trường lao động của Đức mang tính chất xã hội.
Trước đây Việt Nam chưa thừa nhận sức lao động là hàng hoá, thị
trường lao động chưa được chú trọng. Hiện nay quan điểm nhận thức đã thay
đổi.
I.2. Khái niệm thị trường lao động.
Thị trường lao động là một khái niệm được hình thành khi có sự xuất

hiện của sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của nền sản xuất đã dần dẫn hoàn
thiện khái niệm thị trường. Trong nền sản xuất hàng hoá đã tạo ra nhu cầu
trao đổi về các hàng hoá sản phẩm mà người sản xuất đã sản xuất được với
các sản phẩm khác của các nhà sản xuất khác. Vì vậy, họ tiến hành các hoạt
động mua bán trao đổi được gọi là thị trường. Các nhà kinh tế học cổ điển là
người đầu tiên đã nghiên cứu lôgíc về thị trường và đã đưa ra khái niệm đầu
tiên đó là khái niệm thị trường.
Theo AD. Smith thị trường là không gian trao đổi trong đó người mua
và người bán gặp nhau thoả thuận và trao đổi hàng hoá dịch vụ nào đó, với sự
phát triển từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ sang nền kinh tế thị trường.
Khái niệm thị trường của AD. Smith chưa bao quát được các vấn đề cơ
bản của một thị trường là tập hợp những sự thoả thuận, trong đó người mua
và người bán trao đổi với nhau loại hàng hoá, dịch vụ nào đó. Như vậy, khái
niệm thị trường của DVBegg là thị trường không chỉ bó hẹp bởi không gian
nhất định mà bất cứ đâu có sự trao đổi, thoả thuận mua bán hàng hoá, dịch vụ
thì ở đó có thị trường tồn tại.
Thị trường lao động được hình thành sau thị trường hàng hoá, dịch vụ.
Theo C. Mac hàng hoá sức lao động chỉ hình thành sau khi chủ nghĩa tư bản
tiến hành cuộc cách mạng về công nghệ sản xuất, nhằm xây dựng một nền sản
xuất đại công nghiệp chủ nghĩa tư bản đã thực hiện quá trình tích luỹ nguyên
thuỷ tư bản. Đây chính là một quá trình cướp đoạt tư liệu sản xuất của con
người lao động biến họ thành những người làm thuê cho những người sở hưũ
tư liệu sản xuất, từ đó hình thành nên hàng hoá sức lao động. Vậy thị trường
lao động là thị trường dùng để mua bán hanàg hoá sức lao động thị trường lao
động là một bộ phận cấu thành của thị trường đầu vào đối với quá trình sản
xuất kinh doanh, của nền kinh tế thị trường chịu sự tác động của hệ thống các
quy luật của nền kinh tế thị trường quy định cung cầu, quy luật giá cả cạnh
tranh...
Theo ILO thị trường lao động là thị trường dịch vụ lao động được mua
bán thông qua một quá trình mà quá trình này xác định mức độ có việc làm

của người lao động cũng như mức độ tiền công và tiền lương.
Thị trường lao động là không gian trao đổi trong đó người sử dụng lao
động và người sở hữu lao động có nhu cầu làm thuê tiến hành gặp gỡ thoả
thuận về mức thuê mướn lao động.
II. Các nhân tố tác động đến thị trường lao động
II.1. Cung lao động
Cung lao động là lượng hàng hoá sức lao động mà người bán muốn bán
trên thị trường ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Các nhân tố tác động đến cung lao động.
II.2. Tốc độ tăng của dân số:
Cung lao động trên thị trường lao động phụ thuộc vào tổng số lao động
có thể cung cấp. Mà tổng số lao động này phụ thuộc vào quy mô dân số. Nên
quy mô dân số lớn thì tổng số người trong độ tuổi loa động có khả năng lao
động càng lớn, do đó tạo ra một lượng người gia nhập vào thị trường lao động
nhiều, làm tăng cung lao động trên thị trường lao động. Tốc độ gia tăng dân
số và cơ cấu dân số cũng là các nhân tố quan trọng tác động đến cung lao
động trên thị trường lao động. Đây là nhân tố có tác động gián tiếp đến cung
lao động mà nó tác động thông qua quy mô dân số và tác động này diễn ra
trong một thời gian tương đối dài. Tốc độ tăng dân số lớn dẫn đến việc làm
tăng quy mô dân số người lao động có thể cung cấp trong tương lai làm tăng
cung lao động. Giá trị sử dụng sức lao động mang tính chất đặc biệt nên thị
trường sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, nên nó phụ thuộc vào bản thân
người sở hữu. Ngoài ra nó còn chịu sự chi phối, quản lý về mặt pháp lý thể
hiện trên nhiều mặt. Chẳng hạn như cơ cấu độ tuổi và trình độ học vấn. Người
tư thường chia dân số trung bình và nhóm dân số già. Những nước có dân số
thuộc vào nhóm dấn số trẻ thì cơ cấu dân số có nhiều người ở trong độ tuổi
lao động làm tăng lượng cung lao động ở mức độ cao.Theo kết quả điều tra
tính đến 1/3/2000, tổng lực lượng lao động cả nước có 38643089 người, so
với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là
975645 người, với tốc độ tăng 2,7%/năm, trong khi tốc độ tăng dân số bình

quân hàng năm của thời kỳ này là 1,50% năm. Với tốc độ tăng như trên thì
tạo ra một lượng cung rất lớn trên thị trường lao động Việt Nam hiện taị và
tương lai.
II 1.2.Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động
Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động được xác định như sau
Lực lượng lao động thực tế
LFPR = x100
Lực lượng lao động tiềm năng
Lực lượng lao động thực tế là bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động hiện đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc
dân và những người chưa có việc làm nhưng đang đi tìm việc làm.
Lực lượng lao động tiền năng gồn những người trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động.
Tỷ lệ này càng lớn thì cung lao động càng lớn và ngược lại, sự tăng
giảm của tỷ lệ trên chịu tác động của các nhân tố là tiền lương danh nghĩa là
lượng tiền lương danh nghĩa tăng sẽ khuyến khích người lao động tham gia
vào lực lượng lao động thực tế làm tăng tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động
và ngược lại. Mặc khác khi điều kiện sống của người lao động thấp kém làm
cho người lao động muốn nâng cao điều kiện sống làm tăng lượng thời gian
làm việc và giảm lượng thời gian nghỉ ngơi dẫn đến tỷ lệ tham gia của nguồn
nhân lực tăng. Ngoài ra các chính sách của Nhà nước cũng tác động đến sự
tham gia lực lượng lao động thực tế làm tăng tỷ lệ tham gia nguồn nhân lực.
II. 1.3 Khả năng cung thời gian lao động
Người lao động bị giới hạn bởi quỹ thời gian. Do đó bắt buộc người lao
động phải lựa chọn giữa thời gian lao động và thời gian nghỉ ngơi. Nếu người
lao động tăng thời gian lao động thì phải giảm thời gian nghỉ ngơi, do đó
người lao động tăng thu nhập đồng thời nó làm tăng cung lao động trên thị
trường lao động. Hoặc người lao động giảm thời gian lao động và tăng thời
gian nghỉ ngơi, trường hợp này làm cho cung lao động trên thị trường lao
động giảm.

Mối quan hệ giữa thu nhập và thời gian giải trí, thời gian làm việc ta
thấy: thu nhập tỷ lệ thuận với thời gian làm việc và tỷ lệ nghịch với thời gian
giải trí.
II2. Cần lao động.
Lượng cần về một loại lao động nào đó sẽ dựa trên 2 cơ sở.
- Năng suất lao động để sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ
- Giá trị thị trường của các loại hàng hoá, dịch vụ đó.
Như vậy, việc xác định cần lao động dựa trên hiệu suất biên của lao
động và giá trị (giá cả) của hàng hóa, dịch vụ.
Cần lao động là lượng hàng hoá sức lao động mà người mua có thể
mua ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được.
Các nhân tố tác động tới cầu lao động.
II. 2.1. Sự phát triển của kinh tế xã hội
Nền kinh tế mà tốc độ tăng trưởng kinh tế cao tạo ra nhiều việc làm,
các tổ chức, đơn vị kinh tế làm tăng nhu cầu về lao động. Do đó nhu cầu thuê
nhân công ngày một tăng tạo việc làm, và tăng thu nhập cho người lao động,
giảm tỷ lệ thất nghiệp trong cả nước tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
II. 2.2. Khoa học kỹ thuật phát triển.
Khi khoa học kỹ thuật phát triển nó có tác động đến cầu lao động. Đưa
kho học công nghệ kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất tạo ra nhiều sản
phẩm và làm cho nhu cầu sử dụng người lao động trong sản xuất giảm, dẫn
đến cầu lao động giảm khoa học kỹ thuật là nhân tố làm cho cầu lao động
giảm.
II. 2.3. Các chính sách của Nhà nước.
Chính sách phụ cấp, tiền lương cũng được điều chỉnh để thu hút người
lao động về công tác tại cơ sở, các vùng khó khăn...Đặc biệt Nhà nước phải
chú trọng tới chính sách tạ việc làm cho người lao động, thu hút vốn đầu tư
của nước ngoài và trong nước...., nhằm tăng cầu lao động để đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế. Đồng thời có chích sách ưu đãi về thuế trong xuất khẩu lao
động và bảo vệ người lao động ở nước ngoài.

III. Vai trò của thị trường lao động
Thị trường lao động Việt Nam mới hình thành, chưa phát triển do đó
người lao động dễ dàng tham gia vào thị trường. Không đòi hỏi người lao
động phải có trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn cao. Lao động trong
nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn 67,27% (năm 2000), tính chuyên nghiệp của
các khu vực có sự khác nhau rất rõ rệt, khu vực thành thị đòi hỏi chất lượng
nguồn lao động cao hơn khu vực nông thôn. Trong đó khu vực thành thị có
thể chia ra:
- Thị trường lao động khu vực chính thức.
- Thị trường lao động khu vực phi chính thức
Đặc biệt khu vực phi chính thức khả năng thu hút lao động dôi dư, lao
động phổ thông mới tham gia vào thị trường khu vực này tạo được nhiều việc
làm. Con người là vốn quý, động lực của xây dựng và phát triển, do đó nguồn
lao động là động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế, con người là lực
lượng sản xuất đồng thời cũng là lực lượng tiêu dùng. Thị trường lao động
mang lại trạng thái cân bằng và không cân bằng giữa cung và cầu về nhân lực
trên thị trường lao động.
Chương II. Phân tích thực trạng thị trường lao động việt nam
trong thời gian qua
II.1. Thực trạng về thị trường lao động Việt Nam
II.1.1.Đặc điểm về thị trường lao động.
a,áp lực lớn về việc làm:
Lực lượng lao động ở Việt Nam trong những năm gần đây đã liên tục tăng
với tốc độ cao,một mặt tạo nguồn lực lớn cho phát triển đất nước nhưng mặt
khác cũng tạo ra áp lực lớn về đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Tác dụng cả tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế đối với
việc thu hút , chuyển dịch cơ cấu lao động, nhưng hiện thực, tốc độ chuyển
dịch cơ cấu còn rất chậm , cụ thể :Trong vòng 10 năm kể từ năm 1990-
2000,khu vực công nghiệp và dịch vụ lực lượng lao động tăng 14,2% trong
khi đó lực lượng lao động nông nghiệp chỉ giảm 4%(từ trên 72% năm 1990

xuống 68% năm 1999 ).
Những đặc điểm trên là luận chứng lý giải cho tình trạng : Thiếu việc làm và
dư thừa lao động càng trở lên bức xúc.Theo kết quả của cuộc điều tra về lao
động-việc làm cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi
ở khu vực thành thị trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng.Nếu năm
1986 là 5,8% thì năm 1997 là 6,01%;năm 1998 là 6,85% và năm 1999 là7,4%
(trong đó nữ chiếm 8,26%) .Đồng thời tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực
thành thị chủ yếu tập trung ở lực lượng lao động có độ tuổi từ 15-24.Lực
lượng lao động ở nhóm tuổi càng cao tỷ lệ thất nghiệp càng thất .Tỷ lệ sử
dụng thời gian thời gian lao động ở khu vực nông thôn chỉ đạt khoảng 65%-
75% (thiếu việc làm khoảng 30%-35%), càng chứng tỏ cho nhận định về tình
trạng dư thừa lao động nói trên .
b, Cơ cấu về lao động bất hợp lý:
Lực lượng lao động ở Việt Nam tăng nhanh, với mức cung về số lượng lao
động lớn, xong về trình độ chuyên môn tay nghề lại rất thấp dẫn đến tình
trạng vừa thừa lại vừa thiếu ,thừa lao động phổ thông thiếu lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật .
Chất lượng lao động nước ta còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.Theo
liệu điều tra,số lượng công nhân được đào tạo nghề giảm sút nghiêm trọng,chỉ
có 12% đội ngũ công nhân qua đào tạo , số công nhân không có tay nghề hoặc
thợ bậc thấp chiếm 56% và khoảng 20% lao động công nghiệp không có
chuyên môn.Số công nhân thay đổi nghề chiếm 22,7% ,nhưng chỉ có 6,31%
trong số đó được đào tạo lại.Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi các Nông -Lâm
trường trình độ văn hoá và tay nghề của công nhân thấp hơn nhiều so với
các nơi khác.Mặt khác thể lực người lao động Việt Nam còn kém xa so với
các nước trong khu vực về cân nặng và chiều cao,sức bền, như chiều cao của
người lao động Việt Nam là 1,47m, cân nặng 34,4kg so sánh với một số nước
như Philíppin là 1,53m; 45,5kg; người Nhật là 1,64m; 53,3kg.Số người không
đủ tiêu chuẩn về cân nặng ở Việt Nam chiếm 48,7%.Bên cạnh đó kỷ luật lao
động còn chưa cao còn mang tác phong sản xuất công nghiệp lạc hậu.

Cơ cấu phân công lao động bất hợp lý, năng suất lao động và thu nhập còn
thấp .Nếu năm 1991 lao động nông nghiệp là72,6% năm 1995 là 69,73% đến
năm 1999 là 67,7% và đến năm 2000 dự báo khoảng 62,27% trong tổng số lao
động được thu hút vào hoạt động trong nền kinh tế.
Lao động nước ngoài làm việc chủ yếu trong các nghành nghề mà lao
động Việt Nam không đáp ứng được .Việc xuất khẩu lao động tuy có tăng lên
nhưng vẫn còn thấp,,năm 1999 xuất khẩu được hơn 30000 lao động nhưng lại
chủ yếu là lao động giản đơn.
c,Tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động còn thấp.
ở Việt Nam, hiện nay thị trường lao động tập trung chủ yếu ở đô thị lớn:
Thành Phố Hồ Chí Minh,thủ đô Hà Nội , các Trung tâm công nghiệp mới.
Gần đây Tổng cục thống kê điều tra mức sống dân cư Việt Nam cho thấy
21,45% lao động so với tổng số lao động trong tuổi ở khu vực nông thôn
tham gia làm công ăn lương (quan hệ thuê mướn) trong số đó số làm công ăn
lương chuyên nghiệp là 4,29%.Con số này ở thành thị là 42,81%b và 32,75%
.Lao động làm công ăn lương ở nước ta từ 3 tháng trở lên trong năm nhìn
chung còn chiếm tỷ lệ nhỏ (17% tổng số lực lượng lao động của xã hội ,
trong khi đó ở các nước có nền kinh tế phát triển tỷ lệ này thường chiếm 60-
80%).
Qua một số khái niệm và đặc điểm của dân số và thị trường lao động nêu
trên, ta có đủ cơ sở, lý luận thực tiễn, để đi nghiên cứu tiếp sang phần thực
trạng của vấn đề đó .Tuy nhiên để xem xét vấn đề được hoàn thiện ta phải đề
cập đến,vấn đề sự tác động của dân số đến thị trường lao động.
II.1.2. Thực trạng đội ngũ lao động ở nước ta Thời kỳ trước đổi mới
(trước năm 1986)
II.1.2.1. Về số lượng lao động:
Trước năm 1986 lực lượng lao động nước ta rất dồi dào do tốc độ tăng
dân số nhanh sau chiến tranh nhất là thời kỳ 1954-1984 do vậy nguồn lao
động nước ta đang trong thời kỳ tăng cao nhất mà các nhà kinh tế học thế giới
đã kết luận “có nguy cơ không sử dụng hết lao động”

Nhịp độ tăng bình quân hàng năm dân số - nguồn lao động trong các thời
kỳ 5 năm
Bảng 1:
Thời kỳ 1961-1975 1976-1980 1981-1990
- Tốc độ tăng dân số (%) 3,05 2,45 2,15
- Tốc độ tăng NLĐ (%) 3,2 3,37 3,05
Về mức tuyệt đối nếu 5 năm 1976-1980 bình quân mỗi năm tăng thêm
75-80 vạn người trong độ tuổi lao động; 5 năm từ 1981-1985 là 85-90 vạn
người
(1)

(*)
Năm 1975 tổng số lao động trong khu vực nhà nước có 1761 ngàn
người chiếm 8,2% tổng số lực lượng lao động. Sang năm 1976 đã tăng lên
2475,3 nghìn người chiếm 11,05 tổng số lao động (so với 1975 tăng thêm
714,3 nghìn người chiếm 12,5% tổng số lao động xã hội (so với 1976 đã tăng
thêm 840,2 nghìn người và chiếm tỷ trọng 13% tổng số lực lượng lao động xã
hội (so với 1980 tăng thêm 551,4 nghìn người).
Còn nước ta ở tình trạng phân công lao động thấp nhất lao động nông
nghiệp không những tăng tuyệt đối từ 15,11 triệu người năm 1980 lên 18,81
triệu người năm 1985, mà tăng cả tỷ trọng từ 69,84% năm 1980 lên 72,26%
năm 1985. Lao động công nghiệp tỷ trọng tăng không đáng kể (từ 10,39% lên
10,76%), lao động các ngành khác tỷ trọng rất thấp và giảm (19,77% xuống
16,98%).
Bảng 2 cho thấy hiện trạng phân bổ lao động theo ngành nước ta từ năm
1976-1988.
Trong cả thời kỳ tốc độ tăng nguồn lao động bình quân năm là 3,15%,
riêng lao động nông nghiệp tăng 3,29%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp tăng
từ 7,1% xuống 6,9%. Nếu tính cả thời kỳ 1976-1988 thì đó là bước thụt lùi
đáng kể về phân công lao động xã hội ở nước ta (riêng 3 năm 1986-1988, thời

(1)
Th tr ng lao ng v gi i quy t vi c l m Vi t Nam (UBKH nh n c - Trung tâm thông tin) tr.28ị ườ độ à ả ế ệ à ở ệ à ướ
(*)
nt tr.48
kỳ bắt đầu đổi mới, các quan hệ tỷ lệ phân bố lao động, đã có chuyển biến tốt
lên, mặc dù còn chậm. Trong đó tỷ trọng lao động nông nghiệp đã giảm từ
72,3% năm 1985 xuống 72,2% năm 1988)
Nhìn chung lao động phân bố giữa các ngành kinh tế mất cân đối.
II.1.2.2. Về chất lượng lao động:
- Thứ nhất là về chất lượng lao động quản lý:
Trong một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mọi việc đều được
thực hiện theo kế hoạch đã được nhà nước giao đều được thực hiện theo kế
hoạch đã được nhà nước giao từ mặt hàng sản xuất, ngân sách, biên chế và
lương, lực lượng lao động, vật tư, các điều kiện sản xuất ... cho đến việc tiêu
thụ sản phẩm. Trong một cơ chế như vậy, người quản lý trở nên thụ động,
máy móc, thiếu sáng tạo. Việc quản lý chỉ xoay quanh mọi biện pháp để thực
hiện kế hoạch nhà nước giao.
Mặt khác đội ngũ cán bộ quản lý của nước ta trước thời kỳ đổi mới chưa
được qua các trường lớp đào tạo về quản lý mà từ đội ngũ cán bộ chủ yếu
đảm đương nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc sang đội ngũ cán bộ chủ
yếu làm nhiệm vụ quản lý.
- Thứ hai là chất lượng của lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề
không những không được nâng cao mà còn bị mai một đi do cơ chế quản lý
tập trung sản phẩm làm ra theo chỉ tiêu dù tốt hay xấu đều được phân công
hết. Từ đó ta thấy kỹ năng của công nhân không được phát huy, tay nghề bị
mai một đi và công nhân không có tính sáng tạo. Mặt khác chế độ đào tạo
công nhân theo chế độ tuyển dụng suốt đời sẽ không tạo ra động lực để công
nhân tự nâng cao trình độ tay nghề của mình. Công tác tuyển dụng và công
tác đào tạo không theo đúng yêu cầu. Chỉ cần học qua các trường là được
nhận vào công tác không kể đó là nghề đào tạo là gì. Chính vì vậy chất lượng

lao động không cao (do làm không phù hợp với ngành nghề đào tạo).
Thêm vào đó là thông tin về mọi mặt phục vụ sản xuất kinh doanh quản
lý kinh tế không được mở rộng, không đáp ứng được nhu cầu mà chịu sự
bưng bít của kế hoạch hóa tập trung. Do vậy không có sự học hỏi từ các nước
đi trước. Đấy chính là sự thể hiện mặt hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập
trung.
II.1.2.3. Về chính sách bồi dưỡng đào tạo các loại hình lao động:
Trước đổi mới, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến 90% dân
số mù chữ sau khi dành được chính quyền, Đảng và Bác Hồ đã ra quốc sách
là diệt giặc đói, giặc dốt. Các lớp bình dân học vụ và các lớp bồi dưỡng văn
hóa lần lượt được mở và phổ cập trong dân, nâng cao trình độ dân trí nói
chung, trình độ cán bộ công nhân lao động nói riêng. Hình thức này được duy
trì khá lâu cho mãi tới những năm 1970. Đặc biệt trong những năm 50 hình
thành trường bổ túc công nông, tuyển chọn những người đã có kinh nghiệm
chiến đấu, bồi dưỡng cấp tốc trình độ văn hóa cần thiết cử đi đào tạo hoặc đào
tạo lại nghề phục vụ cho nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Hầu hết
cán bộ, công nhân kỹ thuật khoảng tuổi 50,60 hiện nay là những lớp người
được đào tạo lại, bồi dưỡng trong thời kỳ đó.
Năm 1958-1975, đây là thời kỳ bao cấp các chính sách được áp dụng chủ
yếu cho khu vực nhà nước, khu vực quốc doanh. Tư tưởng chỉ đạo cho việc
xây dựng các chính sách này là tập trung phục vụ cho việc xây dựng đội ngũ
công nhân lao động cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý... đáp ứng yêu
cầu xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.
Năm 1964 Thủ tướng chính phủ có thông tư số 2/TTg qui định về chế độ
bổ túc tại chức ngoài giờ là chính, theo nguyên tắc làm ngành nào học ngành
ấy kém lý thuyết thì bổ túc thêm lý thuyết, yếu tay nghề thì bổ túc tay nghề.
Đến 1973 Bộ Lao động cũng ra thông tư số 1844 LĐ-TL “hướng dẫn công tác
bổ túc kỹ thuật nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân”.
Đối với việc bồi dưỡng cán bộ quản lý, Ban Bí thư trung ương Đảng đã
quy định các trường Đảng cao cấp cần tăng nhanh thành phần công nhân để

đào tạo thành cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Các lớp đào tạo cán bộ lãnh
đạo cán bộ quản lý, chiêu sinh các trường Đảng cấp tỉnh bảo đảm từ 5-10%,
trường Đảng cao cấp Nguyễn ái Quốc từ 25-30% thành phần công nhân cán
bộ quản lý các ngành như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, xây dựng,
bảo dảm tỷ lệ 40-50% cán bộ thành phần công nhân. Những Bộ, Tổng cục tập
trung công nhân cần có kế hoạch đào tạo và đề bạt, đồng thời cung cấp cho
trung ương một số cán bộ thành phần công nhân.
Tuy nhiên chính sách bồi dưỡng đào tạo lao động vẫn còn những tồn tại:
- Vấn đề bồi dưỡng đào tạo lại chưa thực sự được coi là một chính sách
quốc gia quan trọng, không có một kế hoạch tổng thể, chưa có những chính
sách mang ý nghĩa chiến lược mà còn manh mún thiếu đồng bộ.
- Việc thực hiện ở các ngành, các địa phương, các cơ quan xí nghiệp còn
tùy tiện, do đó chất lượng chưa cao.
- Mặt khác chưa có những chính sách chế độ phù hợp để khuyến khích
người dậy, người học do đó việc bồi dưỡng đào tạo lại kém hiệu quả.
II.1.2.4. Về việc tuyển dụng lao động qua đào tạo
Chính sách tuyển dụng dựa trên quan điểm là “sử dụng hết nguồn lao
động đã qua đào tạo” vào khu vực nhà nước, đã đào tạo là được phân công
công tác, càng làm cho số lượng lao động kỹ thuật được tuyển dụng vào làm
việc tại các cơ quan xí nghiệp nhà nước, nhà nước tăng lên nhanh chóng.
Bảng 3: Số lượng lao động có đào tạo tuyển dụng vào khu vực nhà nước
từ 1975-1985
STT Lao động kỹ thuật tuyển 1975 1985
1 Trên đại học 2.179 5.000
2 Đại học và tương đương 136.000 400.000
3 Trung học chuyên nghiệp 325.000 760.000
4 Công nhân kỹ thuật 1.000.000 1.500.000
(Nguồn: Niên giám thống kê 1975, 1985 của TCTK)
Thực hiện chính sách tuyển dụng theo nghị định 24/CP ở giai đoạn trước
1986, mặc dù đã đạt được yêu cầu về mặt số lượng, nghĩa là đã tuyển dụng

được một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo cung cấp cho các ngành
nhưng nhìn chung việc phân bổ sử dụng ở giai đoạn này chưa đều, mất cân
đối giữa các ngành, các cấp giữa địa phương và thành phố lớn và vùng xa xôi
hẻo lánh.
Bảng 4: Phân bố không đều lao động khoa học kỹ thuật giữa các ngành
(số liệu 1982)
TT Ngành LĐ có trình độ TNCN
sơ học và nghiệp vụ
LĐ có trình độ đại học
và trên
Toàn bộ nền KTQD khu vực 697 254
1 Các ngành sản xuất vật chất 209 67
- Công nghiệp 69 24
- Xây dựng 43 15
- Nông, lâm, ngư 33 8
- Vận tải, bưu điện 19 7
- Thương nghiệp, vật tư 42 11
2 Phi sản xuất vật chất 488 187
- Nghiên cứu khoa học 22 13
- Giáo dục - đào tạo 316 117
- Quản lý nhà nước 80 38
(Nguồn: từ niên giám thống kê 1982 và báo cáo của Bộ xây dựng)
Qua số liệu trên cho thấy mặc dù tỷ lệ giữa số lượng cán bộ khoa học kỹ
thuật nghiệp vụ có trình độ cao nhất là cán bộ nghiên cứu khoa học trên một
vạn dân nước ta so với các nước phát triển là quá thấp nhưng về cơ cấu phân
bố thì bất hợp lý . Tỷ lệ loại cán bộ này ở khu vực nhà nước còn quá cao so
với ngành, lĩnh vực khác . Mặt khác theo kết quả điều tra của chúng tôi thì tỷ
lệ lao động khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề sử dụng không phù hợp
với đào tạo là 14,2% đây là tỷ lệ khá lớn, nói lên việc sử dụng loại lao động
này còn tùy tiện, làm cho cán bộ công nhân viên không phát huy được năng

lực, trình độ kinh nghiệm công tác
II.1.3.Thực trạng lao động sau đổi mới (sau 1986) đến nay.
II.1.3.1. Những điều kiện mới đòi hỏi người lao động
Thứ nhất là khi bước sang cơ chế thị trường , nó đã tác động mạnh mẽ
đến mọi người lao động. Sức lao động trở thành hàng hóa đã dẫn đến việc
chấp nhận sự cạnh tranh trong thị trường lao động, và bởi vậy người lao động
muốn có việc làm phải không ngừng học tập nâng cao trình độ để khỏi tụt
hậu,đấu tranh để luôn là “món hàng “ có chất lượng hàng đầu . Sự cạnh tranh
gay gắt trong mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều
thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường đòi hỏi lao động phải hết sức năng
động và phải không ngừng hoàn thiện kiến thức và kỹ năng lao động của
mình để đáp ứng được với nhu cầu của thị trường đang không ngừng biến đổi.
Trong cơ chế thị trường không chỉ cần có kiến thức và kỹ năng lao động nghề
nghiệp cón phải có tư duy kinh tế phải biết “cách làm ăn” và phải biết tự tìm
lấy công ăn việc làm .
Cơ chế thị trường đòi hỏi người quản lý tìm hiểu thị trường tìm đầu vào,
tìm đầu ra, tìm kiếm và bố trí các nguồn lực để hoạt động, phải luôn thay đổi
mẫu mã, mặt hàng cho phù hợp với nhu cầu thị trường . Bởi vậy, đòi hỏi nhà
quản lý phải luôn năng động sáng tạo
Chủ trương “mở cửa” của nhà nước, đây là điều thuận lợi cung cấp
thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh, và có thêm nhiều máy móc thiết bị
hiện đại thông qua các hình thức chuyển giao công nghệ, Trong khi đó đội
ngũ lao động hiện nay của chúng ta hầu như chưa đủ trình độ và phong cách
để giao lưu, làm ăn với các công ty của các nước cũng như để xây dựng một
nền sản xuất, dịch vụ hiện đại của nhà nước trong cơ chế thị trường. Do vậy,
việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ lao động hiện có đang là một vấn đề cấp bách
và nóng hổi hiện nay.
Đòi hỏi của sản xuất kinh doanh trong những năm tới (đến năm 2000 và
2010) đối với đội ngũ lao động ở các doanh nghiệp nước ta là: đạt tỷ lệ cân
đối hơn về số lượng giữa các loại lao động kỹ thuật và nâng cao chất lượng để

có thể vận hành sản xuất kinh doanh trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Như vậy yêu cầu đối với đội ngũ công nhân kỹ thuật có hiểu biết kỹ
thuật, và kỹ năng cao, có sức khỏe để vận hành được các máy móc và phương
tiện tiên tiến có đạo đức lao động tốt. Còn yêu cầu đối với đội ngũ lao động
quản lý là: có kiến thức chuyên môn, kỹ thuật và kiến thức quản lý hiện đại,
có ngoại ngữ đủ để giao tiếp bình thường trong công việc, thành thạo các kỹ
năng quản lý hiện đại, có đạo đức lao động và đạo đức kinh doanh tốt.
II.1.3.2. Thực trạng nguồn nhân lực.
Hiện nay giữa thực trạng nguồn nhân lực so với yêu cầu đặt ra ở nước ta
cồn một khoảng cách quá xa0, có thể nêu thực trạng nguồn lao động trong các
doanh nghiệp hiện nay như sau:
Một là, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề còn rất thiếu so
với nhu cầu ( hiện nay chỉ có 13% so với tổng số lao động) và đang tồn tại
mất cân đối nghiêm trọng về tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật (tỷ lệ thực tế
là một kỹ sư/1,6 trung cấp và 3 công nhân, trong đó ở các nước phát triển, tỷ
lệ này là một kỹ sư / 3 trung cấp và 10 công nhân. Việc hình thành các khu
công nghiệp khu chế xuất ngày càng tăng thêm tình trạng đó .
Về nguồn lao động theo kết quả điều tra của Bộ lao động - thương binh
và xã hội năm 1996, số người trong độ tuổi lao động và là nhân khẩu thường
trú từ 15-60 tuổi có 48,4 triệu người trong đó nhóm tuổi từ 15-24 có 13,7 triệu
và nhóm từ 25-34 có 11.6 triệu . Xét về lực lượng lao động về chuyên môn kỹ
thuật và công nghệ trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, thì trong tổng số
35,8 triệu ngươì ( trong độ tuổi lao động) số có trình độ trên đại học là 11.561
người , cao đẳng và đại học 816.098 người công nhân có trình độ sơ cấp
636,246 người và số không có trình độ chuyên ôn kỹ thuật , là lao động giản
đơn gồm 31.452198 người. Xét về phân bố số lao động này cho thấy , ở khu
vực đô thị, trên đại học có 9176 người , ở nông thôn chỉ có 2.393 người ( đô
thị gấp 4 lần so với nông thôn). Số cao học và đại học ở đô thị có 560.097
người. còn ở nông thôn chỉ có 256.008 người ( đô thị gấp 2 lần nông thôn) .
Số công nhân kỹ thuật có bằng cấp ở đô thị là 444.692 người ( số này chênh

lệch không lớn giữa 2 khu vực ). Trong khi đó số người có trình độ chuyên
môn sơ cấp ở đô thị chỉ có 183.418, còn ở nông thôn lại tới 452.831 người .
Tổng số lao động giản đơn ở nông thôn có tới 26.771.862 người , trong khi ở
đô thị chỉ là 4680333 người ( nông thôn gần gấp 6 lần đô thị)
Từ thực tế trên ta có nhận xét sau:
- So với trước đây , số lao động kỹ thuật có tay nghề chuyên môn cao
trong phạm vi cả nước đã tăng nhiều về số lượng và chất lượng , đặc biệt là số
công nhân kỹ thuật trong nhóm tuổi trẻ từ 20-34 tuổi.
- Có sự phân bố không đều hoặc mất cân đối giữa nông thôn và đô thị
- Số có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học tuy đã tăng lên nhiều
về số lượng nhưng thực tế chưa đáp ứng đủ yêu cầu cho CNH,HĐH.
- Riêng số công nhân kỹ thuật hoặc số cán bộ kỹ thuật trung cấp đã tăng
lên về số lượng nhưng cũng còn qúa ít so với yêu cầu phát triển của nền kinh
tế quốc dân, đặc biệt có sự mất cân đối giữa cán bộ đại học, cán bộ trung học
dvà công nhân kỹ thuật.
Hai là, trình độ tay nghề của công nhân nói chung còn thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu vận hành máy móc kỹ thuật hiện đại để có thể cho ra sản
phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới ( số công nhân bậc 1 bậc
2 chiếm 51% so với tổng số công nhân , số công nhân bậc cao cũng chưa có
tay nghề thực tế tương xứng với cấp bậc)
Ba là,thái độ chấp hành kỷ luật lao động của công nhân còn kém, công
nhân chưa quen với tác phong công nghiệp và đặc biệt, ở nhiều doanh nghiệp
công nhân có tâm lý không muốn nâng bậc( vì nếu nâng bậc phải làm công
việc bậc cao hơn sẽ không đảm bảo năng suất, thu nhập sẽ bị giảm)
Bốn là, đội ngũ lao động quản lý tuy không thấp về trình độ sản xuất
nhưng năng lực thực tế cũng chưa tương xứng, chưa đáp ứng được nhu cầu
của công việc hiện tại; chưa được trang bị kiến thức quản lý kinh tế, quản trị
kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường; chưa được đào tạo để có được
những kỹ năng quản lý hiện đại; tác phong làm việc về cơ bản là chưa thay
đổi.

Năm là, đội ngũ quản lý cấp cao của doanh nghiệp ( giám đốc) chưa thực
sự hướng tới đổi mới, một phần rất lớn ( 49%) còn chưa qua đào tạo về
nghiệp vụ quản lý.
Trong khi đó, công tác đào tạo và phát triển nhân lực ở các doanh
nghiệp trong những năm qua lại rất ít được quan tâm chỉ có một số ít doanh
nghiệp nhận thức được vai trò của đào tạo và phát triển, còn hầu hết các
doanh nghiệp bỏ lơi công tác này. Tình hình phổ biến ở nhiều nơi là cắt giảm
chi phí đào tạo, hình thức đào tạo nghèo nàn, công tác thì nâng bậc ít được
thực hiện. Việc cử người đi học ở các trường lớp chính quy còn nặng nề hình
thức, bằng cấp còn chưa thực sự có hiệu quả về sử dụng cán bộ chưa tạo ra
được động lực về vật chất để thúc đẩy người lao động tham gia đào tạo.
II.1.3.3. Công tác đào tạo giáo dục .
Công tác đào tạo giáo dục ở các cơ sở giáo dục đào tạo cũng còn nhiều
tồn tại. Trước hết là sự mất cân đối đào tạo (nguyên nhân của sự mất cân đối
trong tỷ lệ giữa các loại lao động kỹ thuật hiện nay). Trong những năm qua,
số trường đại học (cả công lập và dân lập) đã gia tăng rất nhiều, trong khi các
trường đào tạo và dạy nghề càng ít dần: sau 10 năm trong cả nước số trường
dạy nghề đã giảm từ 360 xuống còn 174 trường (chủ yếu là giao thông vận
tải, in, cơ khí xây dựng hóa chất 244 trường trung cấp chuyên nghiệp và hơn
500 trung tâm dạy nghề ( may mặc , sửa chữa xe máy, ti vi, vi tính , nghiệp vụ
văn phòng...)
Với hệ thống các trường và cơ sở dạy nghề như trên, ở đây chưa đề cập
tới việc phải tăng thêm số trường lớp hoặc cơ sở dạy nghề mà cần phải xem
xét lại việc dạy nghề đã gắn với thực trạng đòi hỏi nền kinh tế hay chưa .
Trước hết ở khu vực đô thị và khu công nghiệp: có thể thấy rất rõ là khả năng
đáp ứng của lực lượng lao động trẻ cho nhu cầu của các khu công nghiệp tập
trung còn rất hạn chế . Ví dụ như khu công nghiệp nhà bè, Thủ đức hoặc Tân
thuận (thành phố Hồ chí Minh) , số lao động địa phương mới chỉ đáp ứng
được 2/3 , só còn lại phải tuyển nơi khác . Hoặc đa số lao động kỹ thuật đang
làm việc ở khu công nghiệp Nội bài, Sài Đồng ( Hà nội) là từ nơi khác đến,

trong khi lao động địa phương lại dư thừa do không cótrình độ văn hóa ( tối
thiểu là học hết cấp III), chưa được đào tạo nghề và công nghệ tiên tiến để có
thể đáp ứng được về lao động kỹ thuật.
Mặt khác, cũng cần phải có chính sách cụ thể mang tính khuyến khích
đối với số lao động trẻ có trình độ tay nghề cao trở về quê nhà hoặc các vùng
nông thôn tham gia lao động sản xuất trong các ngành kinh tế địa phương,
góp phần giảm bớt sự tập trung ở các đô thị lớn hiện nay. Thực tế có hàng
chục ngàn sinh viên sau khi ra trường không về quê làm việc, như ở Tiền
giang từ 1994-1997 có tới 6.070 sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng năm 1995
chỉ có 35 người , năm 1996 chỉ có 12 người về tỉnh công tác số còn lại ở lại
thành phố Hồ chí Minh tìm việc làm. Tương tự, ở Bến tre có trên 2.784 sinh
viên tốt nghiệp đại học nhưng chỉ có vài chục người trở về quê, hoặc ở Bình
định từ 1994-1996 cũng chỉ có vài chục về quê làm việc trong tổng số hơn
6000 tốt nghiệp đại học. ở Hà nội nơi tập trung nhiều trường đại học, hàng
năm cũng có tới hàng chục nghìn sinh viên tốt nghiệp ở lại tìm việc...
Một số vấn đề khác nữa là việc đào tạo nghề ở nước ta hiện nay còn
manh mún. tản mạn, nhưng chưa theo một quy trình mang tính chiến lược lâu
dài trong việc tạo lập một đội ngũ lao động kỹ thuật và công nghệ để đáp ứng
đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế. Mặc dù việc dạy nghề ở các Bộ, ngành
vẫn đang tiến hành nhưng khi ra trường vẫn có sự mất cân đối giữa nhu cầu
và việc làm. Về khía cạnh tự tạo việc làm một số cơ sở dạy nghề còn đáp ứng
được , nhưng khi nhu cầu đòi hỏi có kỹ thuật cao hơn phù hợp với dây chuyền
công nghệ hiện đại thì lại hoàn tòan không thỏa mãn hoặc phải đào tạo lại.
Chính việc đào tạo như vậy vừa gây tốn kém cho người học, vừa tốn khoản
thời gian của việc dạy nghề mà hiệu quả chưa cao và không thiết thực.
ở khu vực nông thôn: Những đòi hỏi của CNH-HĐH nông thôn cũng
đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với đào tạo lực lượng công nhân
kỹ thuật và công nghệ. Hiện nay công nghệ và tiểu thủ công nghiệp nông thôn
đang có xu hướng phát triển, tuy nhiên quy mô và thiết bị sản xuất cũng như
chất lượng sản phẩm còn nhiều mặt hạn chế , lựcu lượng lao đông , kỹ thuật

và công nghệ nông thôn rất cần đào tạo lại vì tổng số 31,8 triệu lao động ở
khu vực này hiện có tới 29,4 triệu chưa qua đào tạo. Đa số thợ trong các cơ sở
sản xuất là do kèm cặp, tự học và tích lũy kinh nghiệm. Nếu đặt vấn đề là tới
đây đổi mới công nghệ quy mô sản xuất hoặc cải tiến các quy trình công nghệ
quy mô sản xuất hoặc cải tiến các quy trình công nghệ và kỹ thuật tiên tiến
hơn hiện đại hơn thì số lao động cũ và mới sẽ đào tạo ở đâu học nghề như thế
nào và chương trình dạy nghề cho lao động trẻ nông thôn ra sao? Đây có thể
xem là một vấn đề bức xúc trong chương trình dạy nghề cho thanh niên nông
thôn trong thời gian tới mà không thể không đề cập. Trong cơ chế thị trường,
việc đào tạo lực lượng công nhân kỹ thuật nếu chỉ tập trung vào khu vực kinh
tế nhà nước như trước đây thì không thể bảo đảm được do hạn chế kinh phí.
Từ thực tế đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật trẻ hiện nay, ta thấy nổi lên một
số tình hình sau đây:
Một là, hầu hết số thanh niên có khả năng ( cả về kinh tế lẫn học lực )
đều muốn vào đại học và tiếp tục học cao hơn. Tâm lý chung là không muốn
học trung học kỹ thuật. Hậu quả như đã nói là nhiều nơi, nhiều lúc cán bộ có
trình độ đại học lại nhiều hơn cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật bậc
cao .
Hai là, sự phân biệt giữa hệ thống đào tạo trung cấp và công nhân kỹ
thuật còn chưa rõ ràng. Sự không phân biệt đó, hiện ở mức lương gần như
tương đồng (thậm chí cán bộ kỹ thuật trung cấp còn thấp hơn công nhân) ,

×