Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận Quản trị ngân hàng THỎA ƯỚC BASEL LỘ TRÌNH VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.95 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CHỦ ĐỀ:
TIỂU LUẬN THỎA ƯỚC BASEL
LỘ TRÌNH VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG
GV
GV
: PGS. TS. Trương Quang Thông
: PGS. TS. Trương Quang Thông
Nhóm
Nhóm
: 06
: 06
Lớp
Lớp
: TCDN Đêm 3 – K22
: TCDN Đêm 3 – K22
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Tp.HCM, tháng 08 năm 2013
Nhóm 6
ii
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
DANH SÁCH NHÓM 6
1. Mã Văn Duẩn


2. Hoàng Mạnh Hải
3. Vũ Thị Hoa
4. Trần Thị Họa Mi
5. Hồ Đình Thắng
6. Huỳnh Thị Thúy Vy
Nhóm 6
iii
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
NHẬN XÉT

























Nhóm 6
iv
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
MỤC LỤC
a. Ưu điểm của Basel II so với Basel I 7
b. Hạn chế của Basel II 7
3.1.1. Giai đoạn trước khi áp dụng Basel (những năm 1990) 12
3.1.1. Giai đoạn áp dụng Basel vào hệ thống NHTM Việt Nam. 12
3.1.1.1. Năm 2005-2006: 12
3.1.1.2. Năm 2007: 14
3.1.1.3. Năm 2010: 15
Nội dung quá phức tạp 16
Chi phí thực hiện để ứng dụng Basel II quá lớn 16
Vốn cấp 2 của các ngân hàng còn hạn chế 16
Đánh giá lại tài sản cố định để tính vốn tự có là chưa thực hiện
được 16
Vốn vay mượn dài hạn để tính vào vốn tự có còn hạn chế 16
Yêu cầu của Basel II về vốn khá cao 16
Chưa có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Basel II 16
Các ngân hàng Việt Nam chưa đáp ứng điều kiện của Basel II.
16
Sau quãng thời gian tăng trưởng quá nóng với 130 tổ chức
tín dụng , gần 10.000 chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước, hệ
thống ngân hàng đã bộc lộ rõ nhiều điểm yếu nguy hiểm: tỷ trọng
sở hữu cao, đạo đức kinh doanh xuống thấp, những cuộc đua lãi

suất không ngừng và có dấu hiệu "sa lầy" vào bất động sản, nợ xấu
gia tăng và ngày càng có xu hướng lớn mạnh, đồ thị bên dưới thể
hiện tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của một số ngân hàng thương mại cổ
phần điển hình. Theo đồ thị thì ta thấy chỉ trong hai năm 2010 và
2011 mà tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng đã gia tăng rõ rệt đặc biệt là nợ
có khả năng mất vốn, Vietcombank có tỷ lệ nợ xấu cao nhất (3.4%)
và thấp nhất là ACB (1.1%) điều này hẳn không có gì đáng ngạc
nhiên vì ACB là ngân hàng có chương trình quản trị rủi ro rất tốt,
đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
TIẾNG ANH 26
PHỤ LỤC 27
Nhóm 6
v
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMQD Ngân hàng thương mại Quốc doanh
NHNN Ngân hàng nhà nước Việt Nam
TCTD Tổ chức tín dụng
CIC Trung tâm thông tin tín dụng
CAR Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
WTO Tổ chức thương mại thế giới
BIQM Mô hình ngân hàng hàng quý Italy
VCSH Vốn chủ sở hữu
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Oganiation for Economic
Co-operation and Development)
MAG Tổ chức chuyên nghiên cứu các hiệu ứng kinh tế vĩ mô

AL Tài sản cho vay của ngân hàng
AO Tài sản khác của ngân hàng
FSB Hội đồng ổn định Tài Chính
RWA Hệ số rủi ro

Nhóm 6
vi
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên WTO và đang trong tiến trình hội nhập quốc
tế. Với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa mạnh mẽ này, kinh doanh Ngân hàng
được xem là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm, phải mở cửa gần như
hoàn toàn theo các cam kết quốc tế. Trong bối cảnh chung đó, đòi hỏi hệ thống
Ngân hang thương mại (NHTM) Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng
tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến thách thức thành cơ hội, biến
những khó khăn thành lợi thế.
Để hệ thống NHTM Việt Nam tham gia tốt hơn vào sân chơi chung quốc tế,
năng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập, cần phải tuân thủ theo
một số điều ước quốc tế, để từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá và xếp hạng giữa
các ngân hàng Việt Nam với các ngân hàng nước ngoài của các quốc gia khác
trên thế giới
Một trong những điều ước quốc tế được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt
quan tâm chính là thỏa ước quốc tế về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng –
còn được biết thông dụng với tên gọi Thỏa ước Basel. Ra đời từ cách đây hơn 20
năm, thỏa ước này được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng làm chuẩn mực
để đánh giá và giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng nước mình.
Ở Việt Nam, việc ứng dụng thỏa ước Basel này trong công tác giám sát và quản
trị ngân hàng vẫn còn nhiều vướng mắc, nên chỉ dừng lại ở việc lựa chọn một số

tiêu chí đơn giản trong Thỏa ước Basel I để vận dụng và chưa tiếp cận nhiều với
Basel II.
Tuy nhiên trong tương lai, các ngân hàng ở Việt Nam, đặc biệt là những ngân
hàng có hoạt động quốc tế, sớm hay muộn sẽ phải tuân thủ các chuẩn mực Basel
để hoàn thiện chính hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu thật sâu và nắm hiểu rõ các quy
định trong Basel, cũng như nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc, nguyên
nhân vì sao Việt Nam chưa ứng dụng Basel II và Basel III, cũng như trên cơ sở
nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới đã từng ứng dụng Basel,
để xây dựng lộ trình Basel vào hệ thống các ngân hàng Việt Nam. Đó cũng
chính là lý do để chọn đề tài nghiên cứu “Thỏa ước Basel, lộ trình và thực trạng
áp dụng vào các ngân hàng Việt Nam”
1.2. Tổng quan các mục tiêu nghiên cứu và nội dung chính
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
 Tìm hiểu về Thỏa ước Basel, những yêu cầu của nó đối với công tác quản
trị rủi ro của các ngân hàng.
Nhóm 6 1
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
 Phân tích tình hình hoạt động và công tác quản trị rủi ro của hệ thống ngân
hàng Việt Nam để đánh giá việc chuẩn bị của ngân hàng đối với việc ứng
dụng Basel.
 Đề xuất xây dựng lộ trình ứng dụng Basel vào các hoạt động ngân hàng
Việt Nam.
1.2.2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài thực hiện nghiên cứu các chuẩn mực và quy định trong thỏa ước Basel,
kinh nghiệm ứng dụng Basel của các quốc gia trên thế giới.
Sau khi tìm hiểu và giới thiệu ngắn gọn về thỏa ước Basel, đề tài tập trung thực
hiện việc đánh giá quy mô, hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam
trong thời gian qua, những vấn đề cần lưu ý trong công tác quản trị rủi ro của

các ngân hàng, để từ đó phân tích những khó khăn, nguyên nhân mà hệ thống
NHTM Việt Nam đã, đang và có thể sẽ gặp phải khi ứng dụng Basel.
Trên cơ sở đó, đề tài cố gắng xây dựng lộ trình ứng dụng Basel vào hệ thống
quản trị rủi ro của các NHTM tại Việt Nam và đồng thời đề xuất những giải
pháp nâng cao khả năng ứng dụng Basel trong việc xây dựng hệ thống quản trị
rủi ro, tính toán nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết đối với những loại rủi ro cơ bản
của hệ thống ngân hàng thương mai Việt Nam.
Nhóm 6 2
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
2. TỔNG QUAN VỀ THỎA ƯỚC BASEL
2.1. Quá trình ra đời của Thỏa ước Basel
Ủy ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Ủy ban bao gồm các
chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi các Thống đốc
Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 vào cuối năm 1974, xuất phát từ sau một
loạt các cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, trong đó
đáng chú ý nhất chính là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức lúc bấy
giờ. Cuộc họp đầu tiên của Ủy ban diễn ra vào tháng 2 năm 1975 và về sau được
tổ chức định kỳ 3- 4 lần mỗi năm.
Các thành viên của Ủy ban bao gồm đại diện cao cấp các cơ quan giám sát
nghiệp vụ ngân hàng và bản thân ngân hàng Trung ương của các nước Bỉ,
Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy
Điển, Thụy Sĩ, Anh và Mỹ. Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân
hàng thanh toán quốc tế tại Washington hoặc tại Thành Phố Basel - Thuỵ Sĩ.
Ban thư ký thường trực của Ủy ban này cũng có trụ sở làm việc tại Thủ Đô
Washington – Mỹ.
Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực bắt đầu
từ năm 1992.
Năm 1996, Hiệp ước Basel được sửa đổi, bổ sung thêm điều khoản về rủi ro thị
trường (có hiệu lực từ 1997).

Năm 2007, Hiệp ước vốn Basel mới (Basel II) có hiệu lực và chấm dứt quá
trình chuyển đổi vào năm 2010.
Nhằm ngăn chặn sự tái diễn khủng hoảng tài chính, ngày 12/9/2010, Ủy ban
Basel đã nhóm họp tại Basel và đã đồng ý về chuẩn Basel III với những quy
định nghiêm ngặt hơn về vốn và ấn định thời hạn để các ngân hàng thực hiện
những quy định này, thời gian chuyển đổi từ năm 2013.
Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có
hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ
thực hiện đầy đủ vào ngày 1/1/2019.
Hiện nay, Ủy ban Basel có 27 nước thành viên. Ủy ban Basel không có cơ quan
giám sát và những kết luận của Ủy ban không có tính pháp lý và yêu cầu tuân
thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Ủy ban chỉ xây dựng và công bố
các chỉ tiêu và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, tùy mỗi quốc gia điều chỉnh
cho phù hợp tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng ở quốc gia mình khi
có ứng dụng.
Nhóm 6 3
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
2.2. Những điểm cơ bản của Basel I, Basel II và Basel III
2.2.1. Basel I
2.2.1.1. Mục tiêu của Basel I
Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) đã xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ an
toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân
hàng trong trào lưu toàn cầu hóa. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào
thị trường vốn quốc tế là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu – đây là nội
dung nền tảng của Basel I (1988). Ngoài những ảnh hưởng của quá trình tự do hóa
tài chính và sự tiến bộ trong công nghệ ngân hàng cũng như xu hướng đa dạng hóa
các sản phẩm tài chính diễn ra rầm rộ vào những thập kỷ cuối thế kỷ 20 thì yêu cầu
xây dựng một nền tảng so sánh hiệu quả hoạt động ngân hàng và đảm bảo hạn chế
rủi ro trong hệ thống thanh toán liên ngân hàng toàn cầu là động lực dẫn đến sự ra

đời của Thỏa ước Basel I và sau đó hơn 10 năm là Basel II (1999).
2.2.1.2. Nội dung của Basel I
Basel I nhấn mạnh tầm quan trọng của tỷ lệ vốn an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Khái niệm vốn trong Basel I đã chia các nhân tố của vốn thành 2 cấp:
 Vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai.
 Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm
của việc đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín
dụng, các công cụ nợ cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản
nợ thứ cấp.
Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín
dụng.
Dựa trên cách tính vốn tự có này mà Basel 1 đã đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu (CAR).
Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài sản nội bảng x Hệ số rủi ro)
+ Tổng (Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro)
Ngoài ra, thỏa ước Basel I còn xác định các hệ số rủi ro trong các loại rủi ro
tín dụng, rủi ro hoạt động.
Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi ro Phân loại tài sản
0%
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.
Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
20%
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở, …
Nhóm 6 4
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
100%

Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các
khoản nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế cấp cổ
phiếu, bất động sản, …
Nguồn: Giáo trình quản trị rủi ro NH –PGS TS Trần Huy Hoàng- Đại Học Kinh Tế
TP. HCM
2.2.1.3. Ưu nhược điểm của Basel I
Theo như nội dung của Basel I thì ta thấy Basel I nhấn mạnh tầm quan trọng
của tỷ lệ vốn an toàn trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, thỏa ước Basel I còn xác
định các hệ số rủi ro trong các loại rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động. Mặc dù Basel I
đã giúp quản trị ngân hàng hiệu quả hơn, đảm bảo khả năng chống đỡ của ngân
hàng với rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên qua quá trình áp dụng, Basel I đã bộc lộ một số
vấn đề:
Thứ nhất, việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi
ro chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ: khả năng tài chính của khách hàng)
hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ: theo thời hạn). Điều này chỉ ra rằng
có thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đối mặt với các loại rủi
ro khác nhau, ở mức độ khác nhau.
Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lý
thuyết về đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Theo
Basel I, quy định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động
kinh doanh đa dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi
ro hơn).
Thứ ba, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến
các rủi ro khác như rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại tệ, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt
động, …
Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường
hợp ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập
hay hoạt động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh,

Thứ năm, một số quy định trong Basel I đã không còn phù hợp khi các ngân

hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh
tranh cao và có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ
hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế.
2.2.2. Basel II
2.2.2.1. Mục tiêu của Basel II
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Thỏa ước Basel I với bản sửa đổi năm
1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I
đã không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ
ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Nhóm 6 5
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Thỏa ước
mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Thỏa ước quốc tế về vốn của
Basel (Basel II) đã chính thức được ban hành.
2.2.2.2. Nội dung của Basel II
Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II đã buộc các ngân
hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn
để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi
ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là
phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về
những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ
có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với
cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
 Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ
vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng
đắn nhằm duy trì mức vốn đó.

 Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức
vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có
khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám
sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không
hài lòng với kết quả của quy trình này.
 Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức
tối thiểu theo quy định.
 Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của
ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu
cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối
thiểu.
Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách
thích đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra
một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những
thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức
độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp
và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Thỏa ước mà tổ chức
này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một
cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy,
hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
Nhóm 6 6
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
2.2.2.3. Ưu nhược điểm của Basel II
a. Ưu điểm của Basel II so với Basel I
Bảng 2: So sánh giữa thỏa ước Basel I và Basel II.
Basel I Basel II
Cấu trúc và nội
dung

Yêu cầu vốn tối thiểu Ba trụ cột, nhấn mạnh hơn về phương
pháp luận nội bộ của ngân hàng, xem
xét đánh giá, và quy luật thị trường
Tính linh động
của ứng dụng
Một quy định cho tất cả Linh hoạt hơn, một loạt các cách tiếp
cân, khuyến khích quản lý rủi ro tốt hơn
Nhạy cảm với
rủi ro
Đo đạc rủi ro quá sơ bộ Nhạy cảm hơn với rủi ro
Trọng số rủi ro 0-100, ưu đãi hơn với
các nước OECD
0-150 hoặc hơn, không có đặc quyền
nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và
bên ngoài
Kỹ thuật giảm
rủi ro tín dụng
Chỉ hỗ trợ và đảm bảo Nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm
bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới
vị thế.
b. Hạn chế của Basel II
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu
chuẩn có thể được chấp nhận rộng rãi.
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của
chu kỳ kinh doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản
phẩm dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
2.2.3. Basel III
2.2.3.1. Mục tiêu của Basel III
Thỏa ước Basel III được phát triển để đối phó với những thiếu sót trong các qui

định về tài chính bị bộc lộ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Basel III
tăng cường về vốn của ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về tính
thanh khoản ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Theo tổ chức OECD ước tính
rằng việc thực hiện Basel III sẽ giảm tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng
0.05%-0,15%.
Mục tiêu gói cải cách của Ủy ban Basel là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực
ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính kinh tế,
bất kể nguồn gốc, do đó làm giảm nguy cơ khủng hoảng tràn từ khu vực tài
chính cho các nền kinh tế hiện tại.
2.2.1.1. Nội dung
Nhóm 6 7
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hệ
lụy lâu dài của chúng đổi với hệ thống tài chính – ngân hàng toàn thế giới, Ủy ban
Basel một lần nữa lại dự thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Basel III) về các tiêu
chuẩn và vốn tối thiểu. Nội dung bao hàm:
• Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4.5%.
• Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%
• Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu
2,5%.
• Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy
giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0-2,5% và phải
được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông. Phần vốn dự phòng này chỉ
đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến
rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.
Ngoài ra, Basel III còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng
và nhằm ngăn chặn việc lạm dụng chia thưởng, hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh
tình trạng tài chính và tỷ lệ an toàn vốn không đảm bảo. Basel III cũng đồng thời rà
soát lại các tiêu chuẩn của vốn cấp 1, vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản vốn không

đủ tiêu chuẩn khi giám sát chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu.
Như vậy có thể thấy rằng, khi loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài
chính 2.5% thì tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy
nhiên, kết cấu của các loại vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng
vốn cấp 1, đồng thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu
tính đầy đủ cả vốn đệm dự phòng suy giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng
chu kỳ kinh tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh tăng từ 2% (Basel II) tăng
lên thành 9.5% (4.5% +2.5% +2.5%) ở Basel III. Nếu loại trừ phần vốn đệm chống
chu lỳ kinh tế 2.5% (không bắt buộc trong điều kiện bình thường) thì mức vốn chủ
sở hữu tối thiểu cũng phải đạt mức 7%. Bênh cạnh đó, có thể một số khoản trước
đây được tính vào vốn chủ sở hữu nay phải bóc tách ra vì không đủ điều kiện coi là
vốn chủ sở hữu. Chẳng hạn khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ
chức tài chính khác, khoản vốn có nguồn gốc từ số thuế thu nhập hoãn lại…Vì thế,
yêu cầu nâng cao tỷ lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều
ngân hàng xét trong bối cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động.
Bảng 3: Lộ trình của việc thực hiện thỏa ước Basel III
Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Tỷ lệ VCSH tối thiểu
3.5% 4% 4.5% 4.5% 4.5% 4.5% 5%
Vốn đệm dự phòng
0.63% 1.25% 1.88% 2.5%
Nhóm 6 8
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
VCSH tối thiều cộng
vốn đệm dự phòng
3.5% 4% 4.5% 5.13% 5.76% 6.38% 7%
Loại trừ khỏi VCSH các
khoản vốn không đủ
tiêu chuẩn

20% 40% 60% 80% 100% 100%
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu
4.5% 5.5% 6% 6% 6% 6% 6%
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu
8% 8% 8% 8% 8% 8% 8%
Tổng vốn tối thiểu cộng
vốn đệm dự phòng bắt
buộc
8% 8% 8% 8.63% 9.13% 9.88% 10.5%
Loại trừ khỏi vốn cấp 1
và cấp 2 các khoản
không đủ tiêu chuẩn
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ 2013
Vốn dự phòng chống
hiệu ứng chu kỳ
Tùy theo điều kiện quốc gia: mức từ 0-2.5%
Nguồn:
Đặc biệt, Basel III yêu cầu áp dụng bổ sung tỷ lệ đòn bẩy tối thiểu thử
nghiệm ở mức 3%. Đây là tỷ lệ của vốn cấp 1 so với tổng tài sản có cộng với các
khoản mục ngoại bảng. Việc áp dụng thử nghiệm tỷ lệ này cho phép Ủy ban Basel
theo dõi biến động tỷ lệ đòn bẩy thực của các ngân hàng theo chu kỳ kinh tế và mối
quan hệ giữa các yêu cầu về vốn với tỷ lệ đòn bẩy.
Basel III là một bước ngoặt trong việc xây dựng các quy định tài chính. Lần
đầu tiên trong các quy định tài chính đề cập tới các thước đo giám sát an toàn vĩ mô
được sử dụng để bổ sung cho phương pháp giám sát an toàn vi mô của từng tổ chức
tín dụng. Ủy ban Basel đang nghiên cứu các thước đo đối với những tổ chức có tầm
quan trọng đối với hệ thống.
Basel III đưa ra tiêu chuẩn về thanh khoản. Đây là điều đặc biệt quan trọng
chưa có tiêu chuẩn quốc tế nào quy định về vấn đề này. Tỷ lệ thanh khoản sẽ được
ban hành vào 1/1/2015, giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với

những căng thẳng thanh khoản. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ các tài
sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong
những trường hợp khó khăn. Thực tế, việc quản lý rủi ro thanh khoản rất khác nhau
tại từng quốc gia. Ủy ban Basel sẽ sử dụng nhiều quy trình báo cáo để theo dõi các
tỷ lệ trong quá trình chuyển đổi để đảm bảo các tiêu chuẩn được tính toán như dự
kiến.
2.2.1.2. Những điểm mới cơ bản của Basel III so với Basel II
- Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn: Basel III sẽ giúp nâng cao chất lượng
vốn của các ngân hàng một cách đáng kể, chính vì vậy cần phải hiểu một
cách chính xác và đầy đủ định nghĩa về vốn theo thỏa ước Basel III, tránh
Nhóm 6 9
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
tình trạng hiểu sai để rồi dẫn tới những kết quả nghiêm trọng. Chất lượng
vốn tốt hơn điều đó có nghĩa là sẽ giảm được khả năng thua lỗ tốt hơn, có
khả năng chống chọi tốt trong những thời kỳ khó khăn. Theo quy định của
Basel III về vốn cổ phần sẽ chặt chẽ hơn. Những tài sản có chất lượng kém
sẽ phải được khấu trừ vào vốn cấp 1 và cấp 2, nhưng với Basel III thì khác,
khi đó ta sẽ khấu trừ trực tiếp vào vốn cổ phần thông thường. Hơn nữa định
nghĩa về vốn cấp 1 cũng chặt chẽ hơn rất nhiều bao gồm vốn thường và các
công cụ tài chính đủ đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn mới.
- Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn: Theo Basel III thì chất
lượng vốn tốt hơn vẫn chưa đủ. Ủy ban Basel cho rằng khu vực ngân hàng
cần nhiều vốn hơn nữa, rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính, khi
khủng hoảng xảy ra rất nhiều ngân hàng đã phải phá sản do không đáp ứng
đủ vốn. Do đó những tiêu chuẩn hạn mức tối thiểu về vốn sẽ tăng mạnh trong
những năm tới, các ngân hàng phải duy trì một mức vốn phù hợp trên mức
vốn tối thiểu tùy thuộc vào mức độ rủi ro, loại hình kinh doanh, quy mô hoạt
động và đặc biệt là giai đoạn tồn tại.
- Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân

hàng áp dụng: Basel III đã giới thiệu các phương pháp giám sát vĩ mô để các
ngân hàng áp dụng, đặc biệt là phương pháp giám sát vĩ mô liên quan đến rủi
ro hoạt động, một loại rủi ro rất phổ biến hiện nay nhưng ở Việt Nam thì nó
ít được quan tâm. Để giảm bớt rủi ro hệ thống một cách hiệu quả thì trước
hết là giảm mức độ khuếch đại của cuộc khủng hoảng theo chu kỳ kinh tế.
Thứ hai là khắc phục mối quan hệ phụ thuộc và những rủi ro chung của các
ngân hàng có tầm ảnh hưởng quan trọng trong hệ thống tài chính.
- Thứ tư, quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng: Đây là
điều đặc biệt quan trọng chưa có một tiêu chuẩn quốc tế nào quy định. Tỷ lệ
thanh khoản sẽ giúp các ngân hàng có khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn
với những căng thẳng thanh khoản. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm
giữ các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu
cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn, việc quản lý rủi ro thanh khoản
tại các quốc gia là khác nhau, chính vì thế cần có một tỷ lệ thanh khoản phù
hợp cho mỗi quốc gia.
- Thứ năm, basel III tập trung vào vốn cổ phần hữu hình : Để giảm sự phụ
thuộc vào mô hình nội bộ của ngân hàng và tập trung nhiều hơn vào đánh giá
khả năng chịu đựng của các ngân hàng, điều này làm tăng sự an toàn và lành
mạnh của các ngân hàng cá nhân và hệ thống ngân hàng rộng rãi hơn.
Ngoài ra, tỷ lệ an toàn vốn của Basel II và Basel III là khác nhau rõ nét nhất
Bảng 4. So sánh những điểm khác biệt về tỷ lệ an toàn vốn của Basel II và
Basel III
Các yêu cầu Basel III Basel II
Nhóm 6 10
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Tỷ lệ vốn tối thiểu 10.50% 8%
Tỷ lệ vốn cổ phần tối thiểu 4.5%-7% 2%
Vốn cấp 1 6% 4%
Tỷ lệ vốn lõi cấp 1 5% 2%

Phần vốn đệm dự phòng rủi ro tài chính 2.5% Không có
Đòn cân nợ 3% Không có
Vốn bổ sung Bắt đầu từ 2011 Không có
Tỷ lệ đảm bảo thanh khoản tối thiểu Bắt đầu từ 2015 Không có
Tỷ lệ nguồn vốn trung và dài hạn và vốn ổn định tối
thiểu so với các tài sản dài hạn đã được tài trợ
Bắt đầu từ 2018 Không có
Vốn đệm phòng ngừa suy giảm theo chu kỳ kinh tế 0-2.5% Không có
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Từ bảng so sánh ta thấy rằng những yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn của Basel
III cao hơn Basel II rất nhiều, điều đó cho thấy khi áp dụng theo Basel III các ngân
hàng sẽ an toàn hơn, bảo vệ được các ngân hàng trước những rủi ro của nền kinh tế
ngày càng biến động phức tạp. Tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa suy giảm theo chu kỳ
kinh tế, vốn đệm dự phòng rủi ro tài chính là những đột phá của Basel III mà Basel
II không có.
Nhóm 6 11
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
3. LỘ TRÌNH VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BASEL CỦA CÁC NHTM
VIỆT NAM
3.1. Lộ trình áp dụng Basel tại các NHTM Việt Nam.
3.1.1. Giai đoạn trước khi áp dụng Basel (những năm 1990)
Năm 1990, những quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân
hàng đầu tiên được thể hiện trong các pháp lệnh về ngân hàng. Một số quy định
cơ bản đã có nhưng còn khá thô sơ như “Tổ chức tín dụng không được huy động
vốn quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ” thay vì sử dụng hệ số an toàn
vốn theo quy định của Basel I được ban hành năm 1988.
3.1.1. Giai đoạn áp dụng Basel vào hệ thống NHTM Việt Nam
Những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo lần đầu tiên được nghiên cứu và áp
dụng khá chi tiết vào Việt Nam kể từ khi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ

chức tín dụng được ban hành vào năm 1997 và chúng đã được cụ thể hóa hai năm
sau đó bằng quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng (Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN), Quy định về giới hạn cho vay đối với
một khách hàng (Quyết định 296/1999/QĐ-NHNN).
Năm 2005, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số quy định mới để sửa
đổi bất hợp lý về vốn của Quy định 1999 và một số nội dung khác đã được bổ sung
cho gần với Basel I hơn. Điểm đáng chú nhất trong Quy định 2005 là việc tách bạch
giữa hoạt động của ngân hàng thương mại (các hoạt động cấp tín dụng và thanh
toán là chủ yếu) và hoạt động của ngân hàng đầu tư (các nghiệp vụ liên quan đến
kinh doanh chứng khoán).
3.1.1.1. Năm 2005-2006:
Giai đoạn này, nhìn chung các ngân hàng ở Việt Nam đang ở những bước
đầu tiên trong quá trình áp dụng những chuẩn mực quốc tế vào việc xây dựng một
hệ thống an toàn, giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động. Theo kết quả khảo sát
do Công ty Tư vấn Ernst & Young tiến hành năm 2006 để đánh giá mức độ tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu của Ủy ban Giám sát ngân
hàng quốc tế Basel, có tới 19 trong số 25 nguyên tắc phần lớn không tuân thủ, 1/25
nguyên tắc tuân thủ, 2/25 nguyên tắc không thực hiện phần lớn và 3/25 nguyên tắc
không áp dụng. Trong đó, hầu hết các nguyên tắc liên quan đến điều kiện tiên quyết
bảo đảm giám sát ngân hàng hữu hiệu (mục tiêu, nhiệm vụ, tính độc lập, khung
pháp lý, quyền lực, hệ thống thông tin của cơ quan giám sát ngân hàng), cấp phép
và chấp thuận thay đổi cấu trúc ngân hàng, các quy định an toàn hoạt động, phương
pháp giám sát ngân hàng liên tục được đánh giá không tuân thủ. Việc áp dụng thông
lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng chưa đồng bộ và không triệt để dẫn
đến cách nhìn nhận, đánh giá hệ thống ngân hàng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng
tình hình.
Nhóm 6 12
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Các quy định của Ngân hàng Nhà nước đã đề cập tới một số vấn đề liên quan

tới các điều khoản trong hiệp định Basel I nhưng vẫn ở mức còn hạn chế. Cụ thể:
Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động của Tổ chức tín dụng đã phản ánh được các rủi ro liên quan đến hạch toán nội
bảng và ngoại bảng và phù hợp với Hiệp ước Basel về vốn mới (Basel Capital
Accord I). Các nội dung quy định về việc tính toán mức vốn tự có và tỷ lệ vốn tự có
tối thiểu so với tổng tài sản “Có” rủi ro tại Quyết định này đã tiến khá sát so với yêu
cầu tính toán vốn tự có theo chuẩn mực Basel, điều này đảm bảo hoạt động kinh
doanh của các Ngân hàng thương mạiđược an toàn hơn. Tuy nhiên, giữa chuẩn mực
kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn còn tồn tại một số khoảng
cách, vì thế cách tính tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực kế toán Việt Nam chưa phản
ánh hợp lý rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Hầu hết các Ngân
hàng thương mạicổ phần đều đã đạt được hệ số an toàn vốn (CAR) trên 8%, song
nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel như đã nêu ở trên, tức là mẫu số
phải cộng thêm cả vốn dành cho rủi ro thị tr ườ ng thì rất ít Ngân hàng thương
mạiViệt Nam đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%. Thêm vào đó, tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu là 8% được áp dụng thống nhất cho tất cả các ngân hàng mà không
tính đến sự khác biệt trong phạm vi, quy mô cũng như rủi ro của các ngân hàng. Đối
với Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, dư nợ tín dụng tại các Ngân hàng thương
mạiphải được phân loại, trích dự phòng rủi ro và có biện pháp đặc biệt đối với các
khoản nợ xấu. Các khoản nợ được phân loại dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng
nội bộ của mỗi ngân hàng và chủ yếu dựa vào khả năng thu nợ của mỗi khoản vay.
Đây đồng thời cũng là cách phân loại nợ mà Hiệp ước Basel đã đưa ra. Phương
pháp trích lập nêu tại Quyết định 493 đã tiến khá sát với thông lệ quốc tế, cụ thể: (i)
Có trích lập dự phòng chung và dự phòng riêng; (ii) Có tính giá trị Tài sản bảo đảm
và loại trừ khi tính toán số tiền phải trích lập; (iii) Cho phép các Ngân hàng thương
mạiđược trích lập dần trong 3 năm, phù hợp với tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh tại các Ngân hàng thương mại. Nhìn chung, quy định của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về giới hạn tín dụng với một nhóm khách hàng có liên quan tương
đối phù hợp với yêu cầu của Basel. Tuy nhiên, Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN
quy định giới hạn tín dụng của Tổ chức tín dụng với một nhóm khách hàng có liên

quan là 60%, trong khi tỷ lệ này theo Basel chỉ là 25%. Ngoài ra, theo quy định trên
thì việc trích lập dự phòng của các ngân hàng Việt Nam dựa trên tình trạng nợ quá
hạn của các khoản nợ chứ không dựa trên cơ sở hạch toán kế toán nhằm đánh giá
khả năng thu hồi nợ dự kiến. Thanh tra ngân hàng cũng chỉ kiểm tra việc tuân thủ
của ngân hàng với quy định mà chưa kiểm tra mức dự phòng trích lập có phản ánh
đúng khả năng thu hồi dự kiến hay không.
Mô hình tổ chức Thanh tra Ngân hàng và hệ thống pháp luật về thanh tra,
giám sát ngân hàng còn bất cập so với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về giám
sát ngân hàng, nhất là so với yêu cầu thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro. Cụ
thể, theo Hiệp ước Basel, rủi ro tín dụng được xác định chủ yếu dựa trên hệ thống
Nhóm 6 13
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
phân loại nợ nội bộ với hệ thống chỉ tiêu khá phức tạp nhằm đánh giá khả năng thu
hồi nợ đối với từng khoản vay. Trong khi đó, việc phân loại nợ của các Ngân hàng
thương mạiViệt Nam dựa trên các thông số có tính bề mặt như căn cứ chủ yếu vào
số ngày gia hạn nợ và số ngày chuyển sang nợ quá hạn. Các yếu tố định tính khác
phản ánh đúng chất lượng và khả năng thu nợ của khoản vay như tình hình tài
chính, rủi ro trong kinh doanh của khách hàng, rủi ro phi tài chính… đều chưa được
đưa vào Hệ thống cho điểm tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Rủi ro thị
trường chưa đóng vai trò trọng yếu trong rủi ro hoạt động của các Tổ chức tín dụng,
chưa có các quy định về rủi ro thị trường và do đó chưa áp dụng nguyên tắc của
Basel về điều chỉnh tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với rủi ro thị trường. Ngân hàng
nhà nước có thực hiện kiểm tra việc thiết lập các giới hạn cụ thể về rủi ro thị trường
bao gồm cả rủi ro cho hoạt động kinh doanh ngoại hối và việc xây dựng hệ thống
thông tin và kiểm soát nội bộ để đảm bảo việc tuân thủ các giới hạn rủi ro thị trường
của các Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, mức độ kiểm tra khác nhau phụ thuộc vào
từng loại hình Tổ chức tín dụng và phụ thuộc vào kỹ năng và kiến thức của các cán
bộ thanh tra. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam hầu như vẫn chưa áp dụng các
công cụ phòng ngừa rủi ro thị trường một cách đầy đủ. Các sản phẩm Hedging hầu

như chưa được triển khai, ngoại trừ một số biện pháp như quản lý trạng thái ngoại
hối, quản lý danh mục đầu tư thông qua việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, tránh
đầu tư tập trung…Các Ngân hàng thương mại Việt Nam chưa nhận thức đúng và đủ
và loại hình rủi ro hoạt động nên cũng chưa có nguồn dự phòng thích đáng và phù
hợp đối với loại hình rủi ro này. Mặc dù vậy, trong thực tế, các Ngân hàng thương
mại Việt Nam vẫn luôn phải đối mặt với loại rủi ro này với mức độ nguy hiểm ngày
càng lớn
Một quy định cũng đáng lưu ý là năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành
danh mục về vốn pháp định của các tổ chức tín dụng mà hiểu một cách đơn giản,
đối với một ngân hàng, đến hết năm 2010 phải có vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ
đồng. Điều này cho thấy cơ quan giám sát và các ngân hàng trong hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt Nam đã bắt đầu ý thức thêm về tầm quan trọng của việc điều
chỉnh hoạt động theo Hiệp ước quốc tế Basel.
3.1.1.2. Năm 2007:
Bối cảnh đã thay đổi kể từ năm 2007, khi hệ thống ngân hàng Việt Nam gặp
phải hai vấn đề lớn gồm: (1) rủi ro về mặt thanh khoản và (2) rủi ro từ các hoạt
động liên quan đến chứng khoán và bất động sản.
Rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng gia tăng do cung tiền được mở
rộng với tốc độ cao cộng với sự nở rộng quá nhanh của một số ngân hàng, nhất là
các ngân hàng nhỏ mà phần đông là mới thành lập hay được nân cấp lên từ các ngân
hàng nông thôn. Điều này đã tạo ra sự mất cân đối trong việc huy động vốn và cho
vay của các ngân hàng.
Nhóm 6 14
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Những ngân hàng lớn có lợi thế về mặt huy động vốn do mạng lưới và quan
hệ có sẵn, khi cung tiền được mở rộng họ đã huy động được rất nhiều tiền, nhưng
khả năng cho vay chỉ ở một mức nào đó nên các ngân hàng này đã dư ra một lượng
vốn khá lớn. Ngược lại các ngân hàng mới nâng cấp hay mới thành lập cần phải mở
rộng hoạt động nên cần vốn. Cung - cầu gặp nhau và hoạt động vay mượn trên thị

trường liên ngân hàng là khá dễ dàng với lãi suất rất phải chăng.
Kết quả là một số ngân hàng đã đi vay các tổ chức tín dụng khác (vay liên
ngân hàng) để cho vay lại khách hàng, trong khi về nguyên tắc vay liên ngân hàng
với lãi suất rất thấp thường chỉ để bù đắp những thiếu hụt tạm thời về mặt thanh
khoản hay yêu cầu dự trữ của ngân hàng nhà nước và nguồn vốn sử dụng để cấp tín
dụng nên là vốn huy động trực tiếp.
Khi lạm phát ở mức báo động, chính sách thắt chặt tiền tệ được đưa ra một
quá mạnh và có phần đột ngột đã làm lộ ra những vấn đề về quản lý cũng như rủi ro
thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thêm vào đó, việc các Ngân hàng thương mạitham gia quá tích cực vào các
hoạt động kinh doanh chứng khoán và bất động sản như cho vay để kinh doanh cổ
phiếu hay mua bán bất động sản cũng như một số nghiệp vụ khác của ngân hàng
đầu đã tạo ra những tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hệ thống tài chính.
Một số chính sách có tính chữa cháy như Chỉ thị 03 vào tháng 5/2007 khống
chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ cho vay
đã không những không có tác dụng, mà còn gây ra những tác động tiêu cực khác.
Hơn thế, khi Việt Nam gặp khó khăn do lạm phát tăng cao chưa từng có kể
từ những năm đầu thập niên 1990, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tồi tệ nhất
kể từ cuộc đại khủng hoảng và suy thoái 1929-1933 ở Mỹ xảy ra mà một trong
những nguyên nhân chính là việc dỡ bỏ quy tách bạch giữa hoạt động của các Ngân
hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, đã làm cho nhu cầu có một quy định chặt chẽ
về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tài chính trở nên cấp thiết hơn.
Đề án Cải cách tổ chức và hoạt động Thanh tra Ngân hàng (Quyết định số
1976/QĐ-NHNN) đã nêu lên 7 nội dung cơ bản trong đó nhấn mạnh việc chuyển
hướng từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra - giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và hợp
nhất kết hợp với thanh tra - giám sát tuân thủ phù hợp với thông lệ quốc tế và các
nguyên tắc của Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel nhằm nâng cao năng lực cảnh báo
sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng”.
3.1.1.3. Năm 2010:
Tháng 5/2010. Ngân hàng Nhà nước đã chính thức ban hành Thông tư

13/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ 01/10/2010 về Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an
toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Thông tư 13 đề cập đến các tỷ lệ bảo đảm an toàn chính yếu như sau:
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu;
- Giới hạn tín dụng;
Nhóm 6 15
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
- Tỷ lệ khả năng chi trả;
- Giới hạn góp vốn, mua cổ phần;
- Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động;
 Thông tư 19 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13 cho sát
với thực tiễn hơn:
- Các tỷ lệ đảm bảo an toàn quy định tại Thông tư này gồm: Tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng chi trả; giới hạn góp vốn,
mua cổ phần; tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động.
- Số dư tiền gửi không kỳ hạn, trị giá sổ sách của vàng gửi không kỳ
hạn gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng chính sách Xã hội; Số
dư tiền gửi có kỳ hạn, trị giá sổ sách của vàng gửi có kỳ hạn đến hạn thành
toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác, trừ Ngân hàng chính sách Xã hội.
3.2. Thực trạng áp dụng Basel tại các NHTM Việt Nam
3.2.1. Nhận định về thực trạng áp dụng các tiêu chuẩn Basel của hệ thống
NHTM VN.
“Dòng vốn vào Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nếu các ngân hàng không cải tiến
kịp đòi hỏi của Basel II” đó là nhận định của Tiến sĩ kinh tế học Joel Metais tại hội
thảo “Hiệp định Basel II và khả năng tác động đối với hoạt động tài trợ nền kinh tế
và hệ thống ngân hàng Việt Nam” do Trung tâm Pháp-Việt (CFVG) tổ chức. Đúng
như nhận định, nguồn vốn vào Việt Nam trong các năm tới sẽ bị giảm sút nếu như
các ngân hàng của Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu trong Basel II, tính
cấp thiết và quan trọng là vậy nhưng ta không thể nói áp dụng là làm được luôn mà

phải có thời gian chuẩn bị cả về mặt kĩ thuật lẫn mặt tài chính để có thể khắc phục
được những khó khăn khi áp dụng Basel II. Theo như các nghiên cứu về tình hình
nền kinh tế Việt Nam gần đây thì đã đưa ra một cách chi tiết và cụ thể những khó
khăn của Việt Nam khi áp dụng Basel II :
- Nội dung quá phức tạp
- Chi phí thực hiện để ứng dụng Basel II quá lớn
- Vốn cấp 2 của các ngân hàng còn hạn chế
- Đánh giá lại tài sản cố định để tính vốn tự có là chưa thực hiện được
- Vốn vay mượn dài hạn để tính vào vốn tự có còn hạn chế
- Yêu cầu của Basel II về vốn khá cao
- Chưa có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Basel II
- Các ngân hàng Việt Nam chưa đáp ứng điều kiện của Basel II.
- Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu
- Chất lượng nguồn nhân lực yếu kém
- Thiếu các tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp.
- Thông tin thiếu tính minh bạch
- Năng lực giám sát hạn chế
3.2.2. Những điều kiện chung để áp dụng Basel III
Nhóm 6 16
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Để đáp ứng được theo Basel III thì bản thân mỗi ngân hàng phải tăng cường sự
chủ động và linhh hoạt, phải có tỷ lệ vốn an toàn cao hơn. Nói một cách đơn
giản, ngân hàng giờ đây càng muốn tăng cho vay, có quy mô càng lớn thì số tiền
bắt buộc dành cho bảo hiểm càng cao.
Mỗi ngân hàng phải có những chính sách mới cho đầu tư về công nghệ, cơ sở hạ
tầng có chất lượng và cơ sở dữ liệu phải thực sự phát triển.
Basel III chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các thị trường tài chính lớn hoạt
động dựa trên một qui chế chung và đảm bảo tăng trưởng và ổn định hệ thống
tài chính. Do đó Ủy ban đã đề ra lộ trình 8 năm nhằm tránh ảnh hưởng đến mô

hình ngân hàng và cho các ngân hàng có thời gian chuẩn bị trước khi chuyển
qua một quy định mới.
Để đảm bảo tính công bằng giữa các ngân hàng thì phải tránh tình trạng lệ thuộc
vào các mô hình đo lường rủi ro bên trong ngân hàng do mỗi ngân hàng áp dụng
phương pháp xếp hạng nội bộ khác nhau, điều này dẫn đến sự khác biệt rất lớn
trong cách thức tính toán tài sản rủi ro.
Các ngân hàng phải có đủ khả năng chống chọi được các cú shock của nền kinh
tế mà không cần sự hỗ trợ của Chính phủ.
Các nhà quản lý phải mạnh tay với các ngân hàng đã thua lỗ nhiều hơn mức
trung bình. Cách tốt nhất để làm được điều này là tạo ra các loại nợ mà các nhà
quản lí có thể xóa hoặc chuyển sang dạng chứng khoán nếu cần thiết. Các cơ
quan quản lí nhà nước nên áp dụng mạnh tay hơn quy định vốn chống rủi ro chu
kỳ, yêu cầu các ngân hàng chủ động chấn chỉnh lại bảng cân đối tài sản trong
thời kỳ khó khăn. Và các ngân hàng cần giảm vụ thuộc vào các nguồn vay ngắn
hạn.
Đó là những điều kiện mà tác giả đã thu thập được sau khi nghiên cứu về hệ
thống ngân hàng cũng như những chính sách tiền tệ của một số quốc gia điển
hình thuộc 27 nước cam kết. Việc đưa ra điều kiện chung cho tất cả các quốc gia
là rất khó khăn bởi mỗi nước có hệ thống ngân hàng hoạt động khác nhau, chính
vì thế các điều kiện trên cũng chỉ mang tính chất tham khảo để ta có một cái nhì
tổng quan rằng việc áp dụng theo Basel III không hề đơn giản mà phải tính toán
giữa cái được và cái mất để áp dụng cho phù hợp với quốc gia của mình .
3.2.1. Điều kiện áp dụng Basel III ở Việt Nam
Sau khi nghiên cứu về các điều kiện chung để áp dụng Basel III, thì ta thấy nếu
lấy đó là điều kiện áp dụng Basel III của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì thật
là thiệt thòi đối với Việt Nam. Hệ thống ngân hàng Việt nam nói chung còn
nhiều hạn chế, tiềm lực tài chính còn non yếu trong khi những điều kiện bên trên
được rút ra từ hệ thống ngân hàng vững mạnh của các nước phát triển. Chính vì
thế bài nghiên cứu đã rút ra được một số điều kiện được cho là phù hợp với hệ
thống ngân hàng của Việt nam, tuy nhiên do hạn chế về phương pháp nghiên

cứu nên các điều kiện này mới chỉ dựa vào những khó khăn bộc lộ rõ ràng.
Nhóm 6 17
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
- Các ngân hàng phải tuân thủ đúng theo các giới hạn tín dụng : tổng dư nợ cho
vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có.
- Các ngân hàng phải đảm bảo khả năng chi trả theo các quy định của NHNN
- Các ngân hàng phải tự hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín nội bộ phù hợp với
yêu cầu của NHNN
- Các báo cáo tài chính phải được minh bạch hóa thông tin và có kết luận của cơ
quan kiểm toán độc lập.
- Giảm dần khoảng cách về sự khác biệt giữa các chuẩn mực kế toán trong nước
và quốc tế
- Các ngân hàng phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu để đáp ứng
các yêu cầu đánh giá xếp hạng tín dụng khách hàng
3.2.1. Sự am hiểu về Basel III tại các NHTM Việt Nam
Bảng 5. Mức độ hiểu biết về Basel III của các nhân viên NHTM Việt Nam
Hiểu biết về Basel III
Có Không
Count Mean Count Mean
Là bức tường an ninh tài chính 68 4 32 3
Là bước ngoặt trong việc xây dựng
quy định tài chính
68 4 32 3
Đưa ra tiêu chuẩn về thanh khoản 68 5 32 3
Nâng cao chất lượng vốn đáng kể 68 4 32 3
Nâng cao chất lượng VCP 68 4 32 4
Dựa trên 3 trụ cột chính của Basel II 68 4 32 4
Khảo sát những người có hiểu biết và không hiểu biết về Basel III thì đối với
những người có hiểu biết thì mức độ đồng ý của họ về những nhận định ưu điểm và

sự cần thiết của Basel III trung bình là 4/5, còn với những người không biết đến
Basel III là trung bình khoảng 3/5. Như vậy cho thấy những người không hiểu biết
đã chọn theo ý chủ quan của mình, đây có lẽ là một hạn chế của bảng khảo sát nó có
thể dẫn đến những sai sót đáng kể cho kết quả khảo sát. Dù sao thì qua kết quả khảo
sát của câu 7, 8 mặc dù chưa một nước nào áp dụng mà chỉ mới trong thời gian
chuẩn bị nhưng nó đã được biết đến tương đối nhiều và theo như các ý kiến thì nó
có thể sẽ có nhiều ưu điểm.
Nhóm 6 18
Thỏa ước Basel
GV: PGS.TS. Trương Quang Thông
Mục đích của việc khảo sát không chỉ đối với các ngân hàng Việt Nam mà
tác giả còn hướng tới các ngân hàng quốc tế đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam,
một bộ phận đóng góp không nhỏ vào sự thành công của trung gian tài chính.
Bảng 6. Ý kiến về tầm quan trọng của Basel III
Loại hình NH
NH quốc tế NH Việt Nam
Tầm quan trọng của
Basel III
Rất quan trọng Count
19 12
Row 61.3% 38.7%
Quan trọng Count 17 18
Row 48.6% 51.4%
Không quan trọng Count 9 4
Row 69.2% 30.8%
Không có ý kiến Count 12 8
Row 60.0% 40.0%
Mức độ chuẩn bị cho
Basel III
Đã chuẩn bị đầy

đủ
Count
7 5
Row 58.3% 41.7%
Chuẩn bị 1 phần Count 29 24
Row 54.7% 45.3%
Chưa chuẩn bị Count 12 21
Row 36.4% 63.6%
Dù là ngân hàng quốc tế hay ngân hàng Việt Nam thì mức độ nhận thức về
tầm quan trọng của Basel III đều rất lớn, ý kiến cho rằng Basel III là rất quan trọng
chiếm đa số. Nhưng nhìn chung thì các ngân hàng quốc tế vẫn có nhiều ý kiến đồng
ý về tầm quan trọng của Basel III. Đặc biệt về mức độ chuẩn bị cho Basel III, thì
các ngân hàng quốc tế có quá trình chuẩn bị tốt hơn các ngân hàng Việt Nam, họ rất
quan tâm tới thỏa ước Basel III. Điều này cho thấy các ngân hàng quốc tế có
chương trình quản trị rủi ro tốt hơn các ngân hàng Việt Nam, đó chính là câu trả lời
cho thắc mắc tại sao các ngân hàng quốc tế luôn có tấm chắn vững chắc trước
những thời kỳ khó khăn.
Nhóm 6 19

×