Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các vai giao tiếp trong diễn ngôn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHAN THỊ BÍCH HƯỜNG




HOẠT ĐỘNG CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ NGỮ VI
TRONG VIỆC THỂ HIỆN VỊ THẾ CÁC VAI GIAO TIẾP
TRONG DIỄN NGÔN TIẾNG VIỆT



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC










Hà Nội - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHAN THỊ BÍCH HƯỜNG



HOẠT ĐỘNG CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ NGỮ VI
TRONG VIỆC THỂ HIỆN VỊ THẾ CÁC VAI GIAO TIẾP
TRONG DIỄN NGÔN TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Thanh




Hà Nội – 2012
MỤC LỤC

Mở đầu 4
1. Lí do chọn đề tài 4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 9
5. Cấu trúc Luận văn 9
Chương 1: Cơ sở lí thuyết 10
1.1. Một số vấn đề về “diễn ngôn” và “ phân tích diễn ngôn” 10
1.2. Một số vấn đề về “phân tích diễn ngôn phê phán” 14
1.3. Một số vấn đề về “diễn ngôn hội thoại” và “phân tích diễn ngôn hội thoại”
18
1.3.1. Diễn ngôn hội thoại 18
1.3.2. Phân tích diễn ngôn hội thoại 20
1.3.2.1. Ngữ cảnh 24
1.3.2.2. Nhân vật giao tiếp 25
1.3.2.3. Nguyên lý giao tiếp 25
1.4. Vị thế xã hội và vị thế giao tiếp 25
1.5. Biểu hiện vị thế trong mối quan hệ giữa các vai giao tiếp 27
1.6. Một số vấn đề về hành vi ngôn ngữ
1.6.1. Ba loại hành vi ngôn ngữ 28
1.6.2. Điều kiện sử dụng các hành vi tại lời 28
1.6.3. Phân loại các hành vi tại lời 29
1.6.4. Động từ ngữ vi, biểu thức ngữ vi, phát ngôn ngữ vi 33
1.7. Một số phương thức biểu hiện vị thế trong diễn ngôn hội thoại 35
1.7.1. Hệ thống từ xưng hô 36
1.7.2. Hệ thống tiểu từ tình thái 37
1.7.3. Hệ thống động từ ngữ vi 38
1.7.3.1. Một số quan điểm về cách phân chia nhóm động từ ngữ vi 38
1.7.3.2. Khảo sát và phân loại động từ ngữ vi trong tiếng Việt dựa trên cứ liệu diễn
ngôn hội thoại 43
* Tiểu kết 48
Chương 2: Hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các

vai giao tiếp mang tính chuẩn mực 50
2.1. Khái niệm về giao tiếp mang tính chuẩn mực 50
2.2. Một số yếu tố quy định phương thức giao tiếp chuẩn mực 51
2.3. Hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các vai giao tiếp
mang tính chuẩn mực 54
2.3.1. Trường hợp người nói có vị thế ngang hàng người nghe 54
2.3.2. Trường hợp người nói có vị thế cao hơn người nghe 62
2.3.3. Trường hợp người nói có vị thế thấp hơn người nghe 74
* Tiểu kết 87
Chương 3: Hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các
vai giao tiếp không mang tính chuẩn mực 91
3.1. Khái niệm về giao tiếp không mang tính chuẩn mực 91
3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thay đổi tính chuẩn mực trong giao tiếp
91
3.2.1. Mục đích giao tiếp 91
3.2.2. Chiến lược giao tiếp 93
3.2.3. Tình huống giao tiếp 94
3.3. Hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các vai giao tiếp
không mang tính chuẩn mực 95

3.3.1. Trường hợp người nói có vị thế ngang hàng người nghe 95
3.3.2. Trường hợp người nói có vị thế cao hơn người nghe 103
3.3.3. Trường hợp người nói có vị thế thấp hơn người nghe 114
* Tiểu kết 126
Kết luận 130
Tài liệu tham khảo 134



MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu về lí thuyết hành vi ngôn ngữ là một công việc quan trọng và lí
thú bởi bất kì sự giao tiếp ngôn ngữ nào cũng bao hàm ít nhất một hành vi ngôn
ngữ [28, tr. 105]. Hành vi ấy không chỉ lệ thuộc vào nội dung những điều chúng ta
muốn nói mà còn lệ thuộc vào việc chúng ta là ai, chúng ta hy vọng người đối thoại
với mình biết được điều gì và chúng ta nên lựa chọn hành vi nào để vừa đạt mục
đích giao tiếp, vừa giữ gìn được thể diện.
Trong số các hành vi ngôn ngữ, hành vi tại lời (còn gọi là hành vi ở lời, hành
vi ngôn trung) đáng chú ý hơn cả bởi chúng được thực hiện ngay khi nói. Nhóm
hành vi này thường có các động từ ngữ vi tương ứng để gọi tên, chẳng hạn như hỏi,
mời, chào, chúc, khuyên, ra lệnh Không chỉ thực hiện chức năng biểu thị, gọi tên
các hành vi ngôn ngữ, nhóm động từ ngữ vi còn hiện thực hóa ngay hành vi được
chủ thể phát ngôn đề cập trong câu, đồng thời giúp xác lập và quy định vị thế các
vai tham gia giao tiếp.
Để hiểu được cơ chế sử dụng nhóm động từ này, chúng ta cần đặt chúng
trong một ngữ cảnh cụ thể, đặc biệt cần xem xét đến các yếu tố văn hóa, xã hội, ý
thức cộng đồng và vị thế của người tham gia hội thoại, tức là xét trong chu cảnh
lớn hơn trong quan hệ giữa các vai giao tiếp, bối cảnh giao tiếp và chiến lược giao
tiếp. Đây là điều chưa từng được đề cập trong các nghiên cứu trước đây. Hầu hết
các tác giả đi trước mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu mặt cấu trúc - ngữ nghĩa của
một số động từ ngữ vi chứ chưa làm rõ mối tương liên giữa việc sử dụng động từ
và mục đích giao tiếp của chủ thể phát ngôn khi lựa chọn động từ ấy. Đặc biệt,
chưa khảo sát được vai trò và hoạt động của nhóm động từ này trong việc xác lập
quyền thế các vai giao tiếp theo hướng tiếp cận của đường hướng phân tích diễn
ngôn phê phán.
Tuy ra đời muộn, song hướng nghiên cứu mới này đã chứng tỏ được sức hút
mạnh mẽ đối với đông đảo giới nghiên cứu ngôn ngữ học. Mục đích của hướng
nghiên cứu không chỉ dừng ở việc miêu tả mà còn đưa ra những lý giải về quá trình
kiến tạo, tồn tại và hoạt động của diễn ngôn, trên cơ sở đó nó thừa nhận vai trò của

ngôn ngữ trong việc tổ chức mạng lưới quan hệ quyền thế xã hội. Điều này cũng có
nghĩa là trong phân tích diễn ngôn phê phán, một khái niệm tối quan trọng không
thể bỏ qua là khái niệm “quyền thế”, ở đây là quyền thế được tạo ra giữa các vai
tham gia giao tiếp thông qua việc lựa chọn và sử dụng động từ ngữ vi nhằm biểu
thị các hành vi ngôn ngữ.
Từ những nhận định mang tính gợi mở nêu trên, Luận văn quyết định lựa
chọn đề tài “Hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các
vai giao tiếp trong diễn ngôn tiếng Việt” làm đối tượng nghiên cứu trên cơ sở vận
dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do ảnh hưởng của tư tưởng logic học nên trong những năm nửa đầu thế kỷ
XX, các nhà logic và các nhà ngôn ngữ vẫn chỉ chú tâm tới các kiểu câu khảo
nghiệm, tức những câu có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn logic đúng - sai.
Trong khi đó, mặc nhiên coi những câu kiểu như Anh cho hỏi bây giờ là mấy giờ
rồi?, Tôi cuộc với anh là đội Đan Mạch sẽ thắng đội Đức! là vô nghĩa hoặc giả -
khẳng định [4, tr. 88]. Nhà triết học người Anh J.L Austin là người đầu tiên nhận
ra vai trò của những kiểu câu này. Ông cho rằng, chúng được phát ngôn không vì
mục đích trình bày kết quả khảo nghiệm hay miêu tả sự vật, sự kiện, cũng không
phải là những báo cáo hiện thực mà nhằm làm một việc gì đó như hỏi, đánh cuộc,
bộc lộ cảm xúc Austin gọi những phát ngôn dạng này là phát ngôn ngữ vi và
những động từ biểu thị hành vi trong các phát ngôn đó được gọi là động từ ngữ vi.
Phát ngôn ngữ vi là những phát ngôn mà khi người ta nói ra thì đồng thời họ thực
hiện luôn hành động được biểu thị trong phát ngôn đó.
Nhờ phân biệt phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi, Austin đã phát
hiện ra bản chất các hành vi ngôn ngữ. Cũng từ đây, lí thuyết về động từ ngữ vi và
hành vi ngôn ngữ dần được hình thành, và về sau tiếp tục được các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ học phát triển, bổ sung. Hầu hết các tác giả sau này đều kế thừa quan
điểm của Austin, đồng thời bổ sung thêm một số lí thuyết về tiêu chí phân loại các
hành vi ngôn ngữ. Trong đó, có thể kể tới các công trình nghiên cứu tiêu biểu của
J.Searle, đặc biệt là công trình Speech Acts (Hành động ngôn từ). Speech Acts đề

cập đến ba khái niệm chính bao gồm quy tắc (rules), mệnh đề (proposition) và ý
nghĩa (meaning) với mục đích nêu lên những điều kiện và quy tắc để thực hiện
hành động ngôn trung (thuật ngữ được J.Searle dùng thay cho hành vi ngôn ngữ).
Một số tác giả về sau như A.Weirzbicka, G.Yule, D.Gordon & G.Lakoff,
J.Cole, R.Zuber cũng có những đóng góp đáng kể khi tập trung nghiên cứu về
hành vi ngôn ngữ gián tiếp, giúp mở ra hướng nghiên cứu mới về hội thoại cũng
như việc xây dựng cơ chế lí giải các hiện tượng ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu như Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu,
Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp, Diệp Quang Ban cũng có nhiều công
trình nghiên cứu công phu về ngữ dụng học nói chung cũng như lí thuyết về hành
vi ngôn ngữ nói riêng. Trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học (tập II), tác giả Đỗ
Hữu Châu đã dành hẳn chương III để viết về hành vi ngôn ngữ, trong đó tác giả đề
xuất khái niệm động từ ngữ vi, đưa ra lí lẽ trong việc phân biệt phát ngôn ngữ vi và
biểu thức ngữ vi, đồng thời nêu lên một số dấu hiệu ngữ dụng đánh dấu lực tại lời
của các hành vi ngôn ngữ. Trước đó, năm 1998, tác giả Nguyễn Đức Dân cũng
công bố công trình Ngữ dụng học tập 1 với những cơ sở lí thuyết khá căn bản về
dụng học, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề về hành vi ngôn ngữ như: biểu thức
ngữ vi, dấu hiệu ngữ vi, hành vi ngôn ngữ gián tiếp Sự xuất hiện thêm công trình
Dụng học Việt ngữ của tác giả Nguyễn Thiện Giáp vào năm 2000 tiếp tục đóng góp
không nhỏ trong việc biện giải một số vấn đề thuộc ngữ dụng học được áp dụng cụ
thể trong tiếng Việt.
Cùng xuất phát trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết hành động ngôn từ của
Austin, tác giả Diệp Quang Ban lại chủ trương chia câu ngôn hành (thuật ngữ được
tác giả sử dụng để chỉ câu ngữ vi hay phát ngôn ngữ vi) thành hai loại câu: câu sử
dụng hành động nói trực tiếp và câu sử dụng hành động nói gián tiếp. Câu sử dụng
hành động nói trực tiếp bao gồm hai kiểu câu nhỏ hơn là câu ngôn hành tường
minh và câu ngôn hành hàm ẩn. Câu sử dụng hành động nói gián tiếp là trường hợp
câu có đặc điểm cấu tạo về thức có thể được sử dụng không đúng với chức năng
(mục đích nói) vốn có của nó.
Trái với quan điểm này, tác giả Cao Xuân Hạo trong “Sơ thảo Ngữ pháp

chức năng” lại cho rằng, câu ngôn hành là một loại câu trần thuật tự biểu thị, được
thực hiện trong khi nói nó ra và chính bằng cách nói nó ra. Kiểu câu này sử dụng
một loại động từ chỉ hành động mà Austin gọi là vị từ ngôn hành (thuật ngữ được
tác giả dùng để chỉ động từ ngữ vi). Ông không thừa nhận dạng phát ngôn ngôn
hành hàm ẩn bởi nếu ta thừa nhận sự tồn tại của phát ngôn ngôn hành hàm ẩn thì
tất cả các phát ngôn đều có tính ngôn hành vì phát ngôn nào cũng có thể mở đầu
bằng Tôi xin nói rằng và do đó, việc phân biệt các loại câu ngôn hành trở nên vô
nghĩa lí [13, tr. 417].
Dựa trên các quan điểm và định hướng nghiên cứu nêu trên, không ít công
trình đã tập trung nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ nói chung, động từ ngữ vi nói
riêng theo hướng tiếp cận của ngữ pháp chức năng, tức chú ý tới mặt cấu trúc –
ngữ nghĩa hoặc ngữ nghĩa – ngữ dụng của các hành vi ngôn ngữ cũng như các
động từ ngữ vi.
Trong số các công trình nghiên cứu về sau, Luận văn đặc biệt chú ý tới hai
nghiên cứu “Ngữ nghĩa – ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt” của tác giả Lữ
Thị Trà Giang và nghiên cứu “Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn
ngôn hội thoại (khảo sát trên tư liệu một số truyện ngắn hiện đại)” của tác giả
Phạm Thị Thu Trang. Công trình nghiên cứu thứ nhất là công trình đầu tiên và có
lẽ cũng là duy nhất cho đến nay thực hiện việc thống kê, xác lập hệ thống động từ
ngữ vi trong tiếng Việt một cách tương đối đầy đủ dựa trên ý tưởng của Austin và
những đề xuất của tác giả Cao Xuân Hạo. Trong khi đó, công trình thứ hai được
thực hiện dưới góc nhìn mới theo hướng tiếp cận của phân tích diễn ngôn phê
phán. Công trình này tuy không đề cập trực tiếp tới các hành vi ngôn ngữ cũng như
nhóm động từ ngữ vi, song lại có tính chất gợi mở quan trọng cho Luận văn hướng
tới việc xây dựng đề tài nêu trên bởi xét cho cùng, trong số tất cả các phương tiện
ngôn ngữ được sử dụng nhằm thể hiện mối quan hệ vị thế trong giao tiếp, hai
phương tiện được sử dụng phổ biến và thể hiện rõ nét nhất là hệ thống từ xưng hô
và hệ thống động từ ngữ vi. Nói cách khác, hướng nghiên cứu mà Luận văn đang
theo đuổi là bước tiếp theo nhằm bổ sung và góp phần hoàn thiện cho hướng
nghiên cứu về biểu hiện quan hệ quyền thế trong diễn ngôn hội thoại.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vai trò và hoạt động của nhóm động từ ngữ vi có thể được xem xét, nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi Luận văn, chúng tôi
chỉ lựa chọn các cuộc hội thoại có chứa động từ ngữ vi để nghiên cứu, khảo sát
hoạt động của nhóm động từ này trong việc thể hiện vị thế các nhân vật giao tiếp.
Do số lượng động từ ngữ vi trong tiếng Việt tương đối lớn nên phạm vi khảo
sát tư liệu của Luận văn khá rộng, bao gồm các đoạn thoại trong hơn 50 tác phẩm
văn học lẫn trong đời sống hàng ngày. Việc thu thập tư liệu được thực hiện chọn
lọc với những đoạn thoại chứa các bối cảnh giao tiếp khác nhau với các vai giao
tiếp khác nhau nhằm cung cấp cho Luận văn khối tư liệu phong phú, đa chiều về
mối quan hệ quyền thế giữa các nhân vật giao tiếp thông qua việc sử dụng các
nhóm động từ ngữ vi. Tuy nhiên, chúng tôi không chủ trương khảo sát toàn bộ
động từ ngữ vi trong tiếng Việt mà chỉ khảo sát sự xuất hiện ngẫu nhiên của chúng
trong khối tư liệu được lựa chọn. Sau đó, tiến hành phân loại chúng và xem xét
hoạt động của từng nhóm trong việc thể hiện vị thế các vai giao tiếp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong công trình này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là
phương pháp phân tích miêu tả, phương pháp phân tích ngữ nghĩa và phương pháp
phân tích ngữ cảnh. Bên cạnh đó, Luận văn cũng vận dụng một số thủ pháp nghiên
cứu như thống kê, phân loại, so sánh, đối chiếu nhằm phục vụ mục đích nghiên
cứu.
5. Cấu trúc Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, cấu trúc Luận văn bao
gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các
vai giao tiếp mang tính chuẩn mực
Chương 3: Hoạt động của nhóm động từ ngữ vi trong việc thể hiện vị thế các
vai giao tiếp không mang tính chuẩn mực
Qua việc khảo sát hoạt động của các nhóm động từ ngữ vi trong diễn ngôn

hội thoại, Luận văn kỳ vọng sẽ tìm hiểu rõ hơn vai trò của các nhóm động từ này
trong việc thể hiện vị thế các vai giao tiếp cũng như các chiến lược, phương tiện
ngôn ngữ được các đối tượng tham gia hội thoại huy động và sử dụng nhằm đạt
đích giao tiếp, góp phần nâng cao thể diện bản thân.
Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. Một số vấn đề về “diễn ngôn” và “phân tích diễn ngôn”
1.1.1. Mối quan hệ giữa “diễn ngôn” và “văn bản”
Được Z. Harris sử dụng lần đầu tiên trong một bài báo mang tên “Discourse
Analysis – Phân tích diễn ngôn” vào năm 1952, song cho đến nay chúng ta vẫn
chưa có một định nghĩa thực sự hoàn chỉnh về diễn ngôn. Dù vậy, với việc đưa ra
cách hiểu diễn ngôn là văn bản liên kết ở bậc cao hơn câu, Harris đã góp phần quan
trọng trong việc chuyển đổi đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học văn bản từ câu
sang diễn ngôn, giúp ngành học này xác định được định hướng phát triển của mình
là tập trung vào nghiên cứu chức năng của ngôn ngữ.
“Diễn ngôn” và “văn bản” là hai khái niệm cơ bản trong nghiên cứu ngôn
ngữ học văn bản nói chung, trong phân tích diễn ngôn nói riêng. Tuy nhiên, để
phân định được hai khái niệm này một cách rõ ràng là điều không đơn giản bởi có
khi chúng được dùng thay thế cho nhau như hai khái niệm đồng nghĩa, có khi lại
được coi là hai thực thể có cấu trúc tách rời, hoặc có khi khái niệm này là sự biểu
hiện cụ thể, là bộ phận của khái niệm kia. Cùng nhìn lại quan điểm của một số tác
giả tiêu biểu để hiểu rõ hơn về cơ sở phân định hai khái niệm này.
Trong cuốn sách xuất bản năm 1983 cũng mang tựa đề “Discourse analysis –
phân tích diễn ngôn”, hai tác giả Brown & Yule cho rằng, “văn bản là sự thể hiện
ngôn từ của một hành động giao tiếp”. Tuy nhiên, quan điểm này đôi khi không
thống nhất bởi sau đó hai tác giả lại khẳng định “văn bản là sự thể hiện của diễn
ngôn”.
Tác giả David Nunan cũng là người có khuynh hướng phân biệt rạch ròi hai
khái niệm nhưng cách diễn đạt của ông theo hướng cụ thể hơn. Ông dùng thuật ngữ
“văn bản” để chỉ “sự ghi lại (thể hiện) bằng ngôn ngữ viết một sự kiện giao tiếp”,

sự kiện đó có thể sử dụng ngôn ngữ nói (một cuộc hội thoại, một bài thuyết giảng)
hoặc sử dụng ngôn ngữ viết (một bài thơ, một quyển sách). Còn thuật ngữ “diễn
ngôn” dùng để chỉ “việc hiểu một sự kiện giao tiếp trong ngữ cảnh”.
Ở Việt Nam cũng có khá nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề này và lẽ dĩ
nhiên cũng tồn tại những quan điểm không thống nhất, thậm chí ở mỗi một giai
đoạn, quan điểm về mối quan hệ giữa hai khái niệm có sự biến đổi. Theo tác giả
Diệp Quang Ban, các khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản” đã từng được sử dụng
qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, văn bản được dùng để chỉ chung các sản
phẩm của ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói có mạch lạc và liên kết; giai đoạn thứ hai
có sự đối lập giữa diễn ngôn và văn bản: sử dụng văn bản để chỉ sản phẩm ngôn
ngữ viết và diễn ngôn chỉ ngôn ngữ nói; và trong giai đoạn ba, diễn ngôn được hiểu
như văn bản ở ý nghĩa thứ nhất [16, tr.31].
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong công trình “Dụng học Việt
ngữ” (2004) đã bày tỏ quan điểm của mình rằng - “thuật ngữ diễn ngôn (discourse)
và văn bản (text) thường được coi là đồng nghĩa với nhau để chỉ các sản phẩm của
ngôn ngữ, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một tổng thể hợp nhất, trong đó diễn
ngôn thường được hiểu là bao hàm văn bản, còn văn bản thiên về sản phẩm viết
nhiều hơn”.
Một trong số các tác giả cũng dành nhiều sự quan tâm tới vấn đề này là tác
giả Nguyễn Hòa. Trong các công trình nghiên cứu của mình, ông tỏ ra nhấn mạnh
sự phân biệt hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản”. Theo tác giả, “văn bản là sản
phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết
trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”, trong khi đó “diễn ngôn là sự kiện
hay quá trình giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất có mục đích không có giới hạn được
sử dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”. Mặc dù đã chỉ ra được sự
khác biệt giữa hai khái niệm, song bản thân tác giả cũng thừa nhận sự phân biệt
này trên thực tế chỉ mang tính tương đối bởi theo cách hiểu đó, trong văn bản sẽ
xuất hiện một vài đặc trưng của diễn ngôn và ngược lại, trong diễn ngôn sẽ đôi khi
tồn tại các thuộc tính của văn bản. Theo tác giả, thực chất “diễn ngôn” và “văn
bản” không phải là hai thực thể tách biệt mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn

ngữ hành chức trong bối cảnh giao tiếp xã hội. Và tùy theo quan điểm của người
nghiên cứu mà ngôn ngữ sẽ được coi là “văn bản” khi được xem xét dưới góc độ
hình thức, hoặc được coi là “diễn ngôn” khi xem xét dưới góc độ hành chức.
Trong một số quan điểm đã trình bày ở trên cũng như các quan điểm khác
hiện có, chúng tôi nhận thấy mỗi quan điểm đều có những nhân tố hợp lý trong
cách diễn giải của mình. Tuy nhiên, trong công trình này, để thuận lợi cho quá
trình nghiên cứu phù hợp với đối tượng và mục đích đặt ra, chúng tôi chủ trương
sử dụng cách hiểu “diễn ngôn” theo quan điểm của tác giả Nguyễn Hòa với tư cách
như một định nghĩa có tính chất làm việc.
1.1.2. Mối quan hệ giữa “phân tích diễn ngôn” và “phân tích văn bản”
Sự phân biệt giữa hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản” tất yếu dẫn đến hệ
quả là sự phân biệt giữa hai khái niệm “phân tích diễn ngôn” (discourse analysis)
và “phân tích văn bản” (text analysis).
Trước tiên, với quan điểm cho rằng “diễn ngôn như một tiến trình”, hai tác
giả Brown và Yule khẳng định, nhà phân tích diễn ngôn phải nghiên cứu từng từ,
ngữ, và câu xuất hiện trong dữ liệu thành văn của diễn ngôn để tìm cho được bằng
chứng về sự nỗ lực của người phát (người nói/người viết) trong việc chuyển giao
thông điệp đến người nhận (người nghe/người đọc). Bên cạnh đó, các nhà phân
tích diễn ngôn cũng cần tìm hiểu bằng cơ chế nào và lý do tại sao mà người nhận
có thể hiểu được chính xác thông điệp của người phát trong một tình huống nào đó,
và làm thế nào mà các yêu cầu của người nhận, trong một hoàn cảnh có thể xác
định được, ảnh hưởng đến kết cấu diễn ngôn của người phát. Như vậy, có thể thấy
rằng phương hướng nghiên cứu này chủ trương lấy chức năng giao tiếp của ngôn
ngữ làm đối tượng nghiên cứu chính, và vì thế nó mô tả các hình thức ngôn ngữ
không ở dạng tĩnh mà như là phương tiện động nhằm thể hiện ý nghĩa [2, tr.48].
Có một sự tương đồng tương đối giữa quan điểm của hai tác giả trên với
quan điểm của tác giả David Nunan khi ông cũng cho rằng, “phân tích diễn ngôn”
liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong quá trình sử dụng (ngôn ngữ hành
chức) – khác với “phân tích văn bản” thiên về nghiên cứu các thuộc tính cấu trúc
của ngôn ngữ vốn bị tách khỏi các chức năng giao tiếp của chúng. David Nunan

nhấn mạnh, giống như các nhà ngữ âm học, ngữ pháp học và tất cả các nhà ngôn
ngữ học nói chung, nhà phân tích diễn ngôn cũng cần quan tâm đến việc nhận diện
những cái đều đặn và những khuôn mẫu trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, không dừng
lại ở đó, nhà phân tích diễn ngôn còn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng hơn,
đó là vừa chỉ ra, vừa giải thuyết mối quan hệ giữa những cái đều đặn đó với những
ý nghĩa và những mục đích được diễn đạt qua diễn ngôn. Như vậy, ở đây tác giả đã
căn cứ vào đối tượng nghiên cứu của nhà phân tích diễn ngôn là ngôn ngữ xét về
mặt cấu trúc hình thức (phân tích văn bản) hay phân tích ngôn ngữ trong quá trình
sử dụng (phân tích diễn ngôn) để phân biệt hai khái niệm [23, tr.21].
Trên cơ sở phân tích quan điểm của David Nunan, tác giả Nguyễn Hòa cũng
đồng thuận cho rằng, mối quan hệ giữa phân tích diễn ngôn và phân tích văn bản
có sự tương đồng như mối quan hệ giữa hai khái niệm diễn ngôn và văn bản bởi
theo ông, không nên nhìn nhận đây là hai bộ môn riêng biệt mà thực chất chỉ nên
xem đó là hai mặt của quá trình phân tích ngôn ngữ hành chức trong hoàn cảnh
giao tiếp xã hội. Với định hướng như vậy, tác giả chủ trương quy các yếu tố như
liên kết, cấu trúc đề thuyết, cấu trúc thông tin, cấu trúc diễn ngôn thuộc về địa hạt
phân tích văn bản, trong khi đó các khía cạnh của diễn ngôn sẽ bao gồm mạch lạc,
các hành động nói, sử dụng tri thức nền trong quá trình sản sinh và hiểu diễn ngôn,
cách thức xử lý từ trên xuống hoặc từ dưới lên, xử lý tương tác và thương lượng
nghĩa [16, tr. 34].
1.2. Một số vấn đề về “phân tích diễn ngôn phê phán”
Ra đời từ những năm 1970 trên nền tảng ngữ pháp chức năng của Halliday,
phân tích diễn ngôn phê phán (critical discourse analysis – CDA) là một trong
những đường hướng nghiên cứu khá mới mẻ, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
ngôn ngữ học trên thế giới. Thực chất, phân tích diễn ngôn phê phán là một lĩnh
vực liên ngành, sử dụng những thành tựu và lí luận của khoa học xã hội phê phán,
triết học và ngôn ngữ học. Mặc dù đã có nhiều quan điểm được đưa ra về đường
hướng phân tích này, song đến nay chúng ta vẫn chưa có một cách nhìn đầy đủ và
thống nhất về CDA.
Một trong những nhà nghiên cứu có đóng góp lớn nhất cho phân tích diễn

ngôn phê phán cần phải kể tới là Van Dijk. Theo ông, CDA là cách nghiên cứu có
phê phán, tức là phân tích diễn ngôn với một “thái độ”, và tập trung vào các vấn đề
xã hội, và nhất là vai trò của diễn ngôn trong việc tạo ra và tái tạo sự lạm dụng
quyền lực và thống trị. Trong khi đó, tác giả Faircloght lại cho rằng “thuật ngữ
phân tích diễn ngôn phê phán cần được hiểu như là phân tích diễn ngôn nhằm
khám phá một cách hệ thống các mối quan hệ về tính nguyên nhân mờ ảo và quy
định giữa (a) - thực tiễn suy diễn, sự kiện và văn bản, và (b) - các cấu trúc xã hội
và văn hóa, các mối liên hệ và quá trình rộng lớn hơn nhằm nghiên cứu xem các
thực tiễn, sự kiện và văn bản được phát sinh hay được định hình bởi các mối liên
hệ quyền lực và đấu tranh vì quyền lực như thế nào, và nhằm khám phá bằng cách
nào mà tính mờ ảo của mối quan hệ này giữa diễn ngôn và xã hội lại là một yếu tố
trong việc giành quyền lực và sự bá quyền” [17, tr.20].
Khi nghiên cứu về CDA, không thể không nhắc tới khái niệm “phê phán”.
Theo trường phái Frankfurt, “phê phán” ở đây có thể hiểu là làm rõ tính quan hệ
của các sự vật hiện tượng. Sau này, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, một số tác
giả chủ trương đồng nhất “phê phán” với “thái độ”, điều này có nghĩa là “phê
phán” bao hàm việc người phân tích phải bộc lộ quan điểm, lập trường của mình
khi tiến hành phân tích diễn ngôn. Nói cách khác, mục đích mà phân tích diễn
ngôn phê phán hướng tới chính là nghiên cứu một cách phê phán sự bất công trong
xã hội như nó được thể hiện, biểu lộ, được kiến tạo, hợp thức hóa trong việc sử
dụng ngôn ngữ.
Trong khi đó, theo quan điểm của tác giả Nguyễn Hòa, nhiệm vụ của nhà
phân tích diễn ngôn phê phán là phải quan tâm đến việc miêu tả các hình thức ngôn
ngữ, cấu trúc và sự tổ chức ở mọi cấp độ như ngữ âm và âm vị học, từ vựng – ngữ
nghĩa, cú pháp và các dạng tổ chức ở cấp độ cao như cấu trúc diễn ngôn với mục
đích lột tả xem chúng đã được sử dụng như thế nào trong các tập quán tạo và hiểu
diễn ngôn, và tập quán văn hóa – xã hội để xác lập, duy trì hay bảo vệ quyền lực
và quan hệ xã hội để ảnh hưởng và dẫn đến thay đổi thực tại xã hội. Nói cách khác,
phân tích diễn ngôn phê phán không chỉ miêu tả diễn ngôn mà còn có vai trò lý
giải sự kiến tạo và hoạt động của diễn ngôn với tư cách là hành động xã hội, thực

tiễn xã hội và tập quán xã hội [17, tr. 41].
Vì ra đời khá muộn so với những đường hướng nghiên cứu truyền thống
trong ngôn ngữ học nên đến nay vẫn còn nhiều quan điểm tranh luận về việc nên
nhìn nhận phân tích diễn ngôn phê phán như là một lý thuyết hay chỉ là phương
pháp mới trong nghiên cứu ngôn ngữ học. Sở dĩ vấn đề này được đặt ra bởi trên
thực tế, phân tích diễn ngôn phê phán vốn là một lĩnh vực liên ngành nên việc xây
dựng một khung lý thuyết hoàn chỉnh như các ngành ngữ dụng học, ngữ âm học,
hay ngữ pháp học là điều không đơn giản. Hơn nữa, quá trình phân tích lại có vẻ
thiên về yếu tố chủ quan nhiều hơn do tính chất “phê phán” chi phối.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển từ những năm 1970 đến nay, phân
tích diễn ngôn phê phán phát triển theo một số xu hướng chính sau: 1 – Đường
hướng phân tích diễn ngôn theo quan điểm lịch sử, 2 – Đường hướng phân tích
diễn ngôn theo ngữ pháp chức năng hệ thống, 3 - Đường hướng phân tích diễn
ngôn theo quan điểm nhận thức – xã hội, 4 - Đường hướng phân tích diễn ngôn
theo hướng xã hội học vi mô, 5 - Đường hướng phân tích diễn ngôn theo lý thuyết
hoạt động.
Xuất phát từ đặc điểm khối tư liệu là các tác phẩm thuộc cùng một giai đoạn
lịch sử nên chúng tôi không vận dụng đường hướng phân tích theo quan điểm lịch
sử mà chủ trương kết hợp ba đường hướng phân tích diễn ngôn còn lại. Cụ thể, trên
cơ sở hướng chức năng hệ thống, chúng tôi sẽ phân tích vai trò, hoạt động của đơn
vị ngôn ngữ (ở đây là các nhóm động từ ngữ vi) tham gia vào việc cấu thành hội
thoại nhằm biểu thị mối quan hệ quyền thế giữa các vai giao tiếp. Theo hướng
nhận thức - xã hội, chúng tôi phân tích đặc điểm các nhân tố giao tiếp ảnh hưởng
đến việc vận dụng chiến lược giao tiếp cũng như chiến lược ngôn ngữ của các bên
tham gia. Cuối cùng, trên cơ sở lý thuyết hành vi, chúng tôi phân tích các diễn
ngôn hội thoại với các đặc điểm về mục đích giao tiếp, ngữ cảnh.
Như vậy, trong công trình này, chúng tôi không đặt ra nhiệm vụ chứng minh
“phân tích diễn ngôn phê phán” là một lý thuyết hay là một phương pháp mà chỉ
muốn kết hợp những đường hướng phân tích diễn ngôn đã nêu ở trên trong việc
khảo sát các diễn ngôn hội thoại và xem đây là bước thử nghiệm của hướng nghiên

cứu diễn ngôn còn tương đối mới ở Việt Nam.
Trong phân tích diễn ngôn phê phán, một trong những khái niệm tối quan
trọng không thể bỏ qua là “quyền thế”. Khái niệm này đôi khi có thể được sử
dụng thay thế cho khái niệm “quyền lực”, tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc
sử dụng khái niệm này so với khái niệm kia có thể chính xác hoặc phù hợp hơn và
ngược lại. Theo tác giả Brown và Levinson, khái niệm “quyền lực” có thể hiểu là
mức độ mà người nói có thể áp đặt kế hoạch và sự tự đánh giá của mình mà không
tính đến kế hoạch hay sự tự đánh giá của người khác. Trong khi đó, tác giả Nguyễn
Hòa cho rằng, “quyền lực” là năng lực kiểm soát hành vi của người khác hay bắt
họ phải phục tùng. Bất kỳ cá nhân nào sống trong xã hội cũng đều phải tham gia
vào các mối quan hệ quyền lực khác nhau với hai loại quan hệ cơ bản là chi phối
và bị chi phối. Trong công trình nghiên cứu về diễn ngôn phê phán, tác giả cũng
chủ động phân biệt hai khái niệm “quyền lực” và “quyền uy”. Theo đó, quyền uy
chỉ là một bộ phận của quyền lực và nó có thể được hiểu là việc lấy ý chí của
người này để buộc người khác phải tiếp thu, nói cách khác quyền uy lấy sự phục
tùng làm tiền đề. Một cá nhân có thể có quyền lực, song chưa hẳn đã có quyền uy.
Như vậy, có thể thấy, ý nghĩa của phân tích diễn ngôn phê phán nằm ở chỗ
nó xem xét chức năng của ngôn ngữ trong việc điều khiển tư duy của người khác
và các chiến lược được dùng để hợp thức hóa trật tự xã hội hay việc kiểm soát. Và
quan hệ quyền lực trong xã hội không chỉ được thể hiện trong diễn ngôn giao tiếp
nội ngôn mà còn thể hiện trong giao tiếp liên ngôn giữa những cá nhân đến từ
nhiều nền văn hóa khác nhau.
1.3. Một số vấn đề về “diễn ngôn hội thoại” và “phân tích diễn ngôn hội
thoại”
1.3.1. Diễn ngôn hội thoại
Nhu cầu trao đổi thông tin trong đời sống thường ngày khiến chúng ta không
ngừng tạo ra vô vàn các cuộc hội thoại thông qua hoạt động giao tiếp. Hội thoại có
thể được thực hiện bởi hai bên (song thoại), ba bên (tam thoại) hoặc nhiều bên (đa
thoại). Tuy nhiên, song thoại được coi là hình thức hội thoại cơ bản và phổ biến
nhất, mang đậm những đặc trưng của một cuộc hội thoại và là nền tảng cho việc

nghiên cứu đa thoại.
Khi nghiên cứu “diễn ngôn hội thoại”, chúng ta không thể bỏ qua một khái
niệm cơ bản của bất cứ một cuộc hội thoại nào, đó là cuộc thoại. Để tham gia một
cuộc thoại, người tham gia giao tiếp phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản là nguyên
tắc luân phiên lượt lời và nguyên tắc liên kết. Điều này có nghĩa là trong khi người
này nói thì người kia nghe chứ không cùng nói đồng thời, đảm bảo sự phối hợp
luân phiên nhịp nhàng. Bên cạnh đó, các lượt lời tham gia cũng phải đảm bảo sự
liên kết để cùng tạo ra tính liên kết chung cho cả cuộc thoại. Ngoài ra, cần chú ý
tới đích giao tiếp trong mọi cuộc thoại để có cách ứng xử phù hợp.
Không chỉ dừng ở các đặc điểm nội tại, nghiên cứu cuộc thoại còn cần chú ý
tới một số đặc điểm bên ngoài cuộc thoại như số lượng người tham dự, quan hệ
giữa những người tham dự, và cả chu cảnh (thời gian, không gian) diễn ra cuộc
thoại. Khi xác định được những yếu tố này sẽ giúp cho việc phân tích các đặc trưng
cuộc thoại được chính xác hơn.
Các cuộc hội thoại tuy thiên biến vạn hóa về nội dung và mục đích giao tiếp,
song vẫn có những đặc điểm chung nhất định về mặt hình thức và cấu tạo. Bất cứ
cuộc thoại nào cũng có phần mở đầu và phần kết thúc, chúng làm nên ranh giới
một cuộc thoại. Lúc bắt đầu được gọi là mở thoại, thường do một bên tự nguyện,
chủ động thực hiện, lúc kết thúc cũng do một bên chủ động đề ra, gọi là kết thoại.
Nằm giữa hai phần này là phần thân thoại, còn gọi là phần trung tâm của cuộc
thoại. Như vậy, cấu trúc khái quát của một cuộc thoại thường bao gồm ba phần:
Mở đầu – Thân thoại – Kết thoại. Tuy nhiên, cấu trúc này không hoàn toàn cứng
nhắc bởi ranh giới giữa các phần không phải bao giờ cũng được xác định một cách
rõ ràng.
Để miêu tả được cấu trúc nội tại của từng phần trong một cuộc thoại, cần tìm
hiểu đặc trưng của các yếu tố cấu tạo nên cấu trúc đó. Trước hết là lượt lời. Lượt
lời là đơn vị cơ bản của hội thoại, nó được tính là một lần nói xong của một bên
tham gia giao tiếp trong khi các bên kia không nói, để rồi đến lượt một người tiếp
theo nói. Mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở những lượt lời trước đó, vì vậy
chắc chắn có sự xuất hiện của luân phiên lượt lời. Và sự luân phiên lượt lời trong

hội thoại hoạt động theo cơ chế chuyển giao lượt lời, còn được gọi là sự trao lời.
Trái với trao lời là tranh lời. Trong giao tiếp, hành động tranh lời bị coi là vi phạm
nguyên tắc hội thoại, đặc biệt là trong song thoại. Lối nói này thường liên quan tới
yếu tố văn hóa, tập tục và những quy ước của từng cộng đồng, vì vậy khi tham gia
giao tiếp, người nói cần đặc biệt lưu tâm để chủ động điều phối nội dung cuộc
thoại, tránh cho cuộc thoại bị gián đoạn hay ngắt quãng giữa chừng.
Bên cạnh lượt lời thì một trong những đơn vị khác của hội thoại cần được
nhắc đến là mở thoại. Trong cấu trúc hội thoại, phần mở thoại thường là lời thăm
dò, có tác dụng tạo không khí thuận lợi trước khi bước vào cuộc thoại. Đây chỉ là
một thủ tục hình thức, có phần ít giá trị hơn so với những lượt lời tiếp theo nên nó
có thể được hồi đáp hoặc bị bỏ qua trong trường hợp người nhận lời muốn đi ngay
vào vấn đề chính của cuộc thoại. Theo tác giả Nguyễn Đức Dân, mở thoại là những
hành vi giao tiếp được xã hội quy định thành những khuôn mẫu (nó thường bắt đầu
bằng những lời chào, lời hô gọi, hoặc những tín hiệu đưa đẩy kèm theo cử chỉ), vì
thế sự khác nhau về nền văn hóa cũng như phong tục, tín ngưỡng có thể sẽ gây nên
những khó khăn khi tiếp nhận tín hiệu mở thoại.
Song song với hai nhân tố nêu trên, cặp thoại cũng là đơn vị quan trọng
không thể bỏ qua. Trong hội thoại, các hành vi ngôn ngữ không đứng độc lập mà
liên hệ với nhau rất chặt chẽ, hành vi này kéo theo sự xuất hiện và tồn tại của hành
vi kia, lượt lời này kéo theo sự xuất hiện và tồn tại của lượt lời kia. Sự liên hệ chặt
chẽ giữa các lượt lời như vậy tạo nên khái niệm cặp thoại. Tùy theo chủ đề cuộc
thoại mà các cặp thoại có thể được phân thành cặp thoại chính yếu hay thứ yếu (có
tác giả gọi là cặp thoại chủ hướng và cặp thoại phụ thuộc). Khác với cặp thoại
chính yếu có nhiệm vụ hướng vào chủ đề của cuộc thoại, cặp thoại thứ yếu chỉ có
tác dụng bổ sung thông tin, giải thích, làm rõ thêm những chi tiết của cặp thoại
chính yếu. Ngoài ra, các cặp thoại thứ yếu còn có tác dụng tạo lập và duy trì các
mối quan hệ giao tiếp, không khí giao tiếp trong hội thoại, do đó chúng thường
đảm nhận vai trò của các cặp thoại mở đầu hay kết thúc cuộc thoại.
1.3.2. Phân tích diễn ngôn hội thoại
1.3.2.1. Ngữ cảnh

Ngữ cảnh là một trong những khái niệm quan trọng trong phân tích diễn
ngôn, đặc biệt là phân tích diễn ngôn hội thoại. Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan
điểm về ngữ cảnh. Theo tác giả David Nunan, ngữ cảnh có nhiệm vụ quy chiếu
tình huống gây ra diễn ngôn và tình huống trong đó diễn ngôn được gắn vào. Có
hai loại ngữ cảnh khác nhau, một là ngữ cảnh ngôn ngữ, tức là gồm tất cả các yếu
tố ngôn ngữ bao quanh hoặc đi kèm với sản phẩm diễn ngôn đang được phân tích,
và hai là ngữ cảnh phi ngôn ngữ hoặc ngữ cảnh thuộc về kinh nghiệm mà trong đó
diễn ngôn xảy ra. Loại ngữ cảnh thứ hai bao gồm tất cả các yếu tố ngoài ngôn ngữ
như kiểu loại của sự kiện giao tiếp, mục đích sự kiện, bối cảnh, người tham dự giao
tiếp và cả những hiểu biết cơ sở, những giả định làm cơ sở cho sự kiện giao tiếp.
Một số nhà ngôn ngữ học khác thì cho rằng ngữ cảnh bao gồm hai loại là
ngữ cảnh tình huống (context of situation) và ngữ cảnh văn hóa (context of
culture), trong đó ngữ cảnh tình huống được hiểu là ngữ cảnh của một hiện tượng
ngôn ngữ, của một văn bản, của một trường hợp cụ thể của ngôn ngữ. Nó có thể
bao gồm sự hiểu biểu của những người tham gia giao tiếp, sự hiểu biết về không
gian, thời gian, sự hiểu biết về phép xã giao trong xã hội , thậm chí nó còn bao
gồm cả sự chấp nhận ngầm của người nói và người nghe về tất cả những quy ước,
tiền đề được coi là đương nhiên trong cộng đồng của cả người nói lẫn người nghe.
Trái lại, ngữ cảnh văn hóa được hiểu là ngữ cảnh của ngôn ngữ với tư cách là một
hệ thống. Nó bao gồm hàng loạt các nhân tố văn hóa như phong tục, tập quán,
chuẩn tắc hành vi, quan niệm giá trị, sự kiện lịch sử, tri thức về tự nhiên và xã hội,
về chính trị và kinh tế, tức toàn bộ các yếu tố cấu thành nên nền văn hóa của một
cộng đồng dân tộc.
1.3.2.2. Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp bằng
ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, diễn ngôn của cuộc thoại. Các nhân
vật giao tiếp bị chi phối bởi nhiều yếu tố và nhiều mối quan hệ, trong đó mối quan
hệ đóng vai trò quyết định là quan hệ liên cá nhân. Mối quan hệ này có thể được
xem xét dựa trên hai trục quan hệ là trục ngang (trục thân sơ) và trục dọc (trục vị
thế xã hội, còn gọi là trục quyền lực hay quyền uy). Dễ có thể nhận thấy mối quan

hệ tương thích giữa hai trục quyền uy và thân sơ bởi khoảng cách địa vị càng lớn,
sẽ càng khó gần gũi nhau hơn. Đó cũng là lý do mà trong những cuộc thoại được
tạo lập với người chưa từng quen biết, chúng ta sẽ thường phải dựa vào nhiều yếu
tố bên ngoài (hành vi, cử chỉ, cách ăn mặc, cách chuyện trò …) để thăm dò vị thế
xã hội của họ.
1.3.2.3. Nguyên lý giao tiếp
Muốn cho một cuộc hội thoại thành công, mỗi bên tham gia hội thoại cần
tuân thủ những nguyên lý nhất định trong hội thoại, đó là nguyên lý cộng tác và
nguyên lý lịch sự. Những nguyên lý này chi phối, tác động mạnh mẽ tới quá trình
hội thoại, cho phép giải thích những hàm ý ở mỗi lượt lời, những hình thức ngôn từ
và cấu trúc của phát ngôn trong những tình huống giao tiếp cụ thể.
* Nguyên lý cộng tác
Nói đến nguyên lý cộng tác không thể không nhắc tới H.P. Grice, người lần
đầu tiên đề xướng khái niệm này vào năm 1967, và về sau tiếp tục được ông phát
triển, bổ sung trong các công trình nghiên cứu sâu hơn. Nội dung nguyên lý được
tóm gọn trong một phát biểu bao trùm kèm thêm bốn tiểu nguyên lý còn được gọi
là bốn phương châm: 1- Phương châm lượng: hãy làm cho phần đóng góp của
mình có lượng thông tin đúng như nó được đòi hỏi cho mục đích của cuộc thoại; 2
- Phương châm chất: đừng nói điều mà mình tin là sai, đừng nói điều mà mình
không có bằng chứng chính xác; 3 - Phương châm quan hệ: hãy đóng góp những
điều có liên quan; 4 - Phương châm cách thức: hãy nói cho rõ ràng, đặc biệt tránh
tối nghĩa, mơ hồ, và đảm bảo ngắn gọn, mạch lạc [6, tr.130].
Để cuộc thoại được diễn ra suôn sẻ và đạt đích cuối cùng, người tham gia
giao tiếp cần tuân thủ các phương châm cơ bản nêu trên. Tuy nhiên, trong thực tế
xuất hiện không ít những trường hợp vi phạm một trong những phương châm cơ
bản khiến cuộc thoại có thể bị phá hủy hoặc bị làm chệch hướng. Điều quan trọng
là người tham gia giao tiếp cần tỉnh táo nhận ra sự vi phạm ấy là vô tình hay cố ý
để tiếp nhận và xử lý thông tin cho chuẩn xác.
Trong rất nhiều trường hợp, vì tôn trọng phương châm này mà người đối
thoại buộc phải vi phạm phương châm khác. Trái lại, trong nhiều trường hợp, để

nhằm đạt được mục đích giao tiếp của mình, người tham gia cuộc thoại đã cố tình
vi phạm một trong các phương châm hội thoại. Thông qua việc sử dụng công cụ
ngôn ngữ tạo hàm ý, họ muốn tác động tới đối tượng tiếp nhận hoặc gây hiện
tượng mơ hồ nhằm thăm dò chủ ý của đối phương hoặc khai thác thêm thông tin
hoặc biến chuyển cuộc thoại theo định hướng của mình. Sự vi phạm có chủ đích
này được xem là chiến thuật của người tham gia giao tiếp và đôi khi nó mang lại
hiệu quả khá cao.
* Nguyên lý lịch sự
Bên cạnh việc tuân thủ nguyên lý cộng tác thì nguyên lý lịch sự cũng là một
trong những yêu cầu quan trọng giúp người tham gia giao tiếp kiến tạo nên thành
công cho mỗi cuộc thoại. Tuy nhiên, trong khi nguyên lý cộng tác quan tâm chủ
yếu tới mục đích tìm kiếm hiệu quả tối ưu của việc trao đổi thông tin thì nguyên lý
lịch sự lại đặc biệt chú ý tới mối quan hệ liên cá nhân giữa những người tham gia
giao tiếp. Tính tế nhị, lịch sự trong giao tiếp sẽ có tác động tới toàn bộ các hiện
tượng, quy luật và cấu trúc ngôn ngữ, đặc biệt nó ảnh hưởng rất mạnh tới các phát
ngôn trong quá trình giao tiếp.
Dẫn theo công trình nghiên cứu “Lịch sự trong giao tiếp tiếng Việt” của tác
giả Tạ Thị Thanh Tâm, một trong những cái tên được xướng danh đầu tiên khi đề
cập đến nguyên lý lịch sự là R.T. Lakoff, nữ tác giả đi đầu trong việc nghiên cứu
lịch sự dưới cái nhìn ngôn ngữ học. Lakoff đánh giá rất cao quan điểm nguyên lý
cộng tác của Grice, tuy nhiên khác với Grice, bà mở rộng một số khái niệm gắn
liền với ngữ cảnh trong giao tiếp, trong đó có lịch sự. Theo Lakoff, lịch sự là tôn
trọng nhau, nó là biện pháp được sử dụng để giảm bớt trở ngại trong tương tác giữa
các cá thể. Với quan điểm như vậy, Lakoff đã đề ra ba quy tắc lịch sự. Một là quy
tắc lịch sự quy thức, tức không được áp đặt. Quy tắc này có tính phi cá nhân (chủ
yếu dùng trong lễ nghi, ngoại giao), thích hợp với những hội thoại mà người tham
gia giao tiếp có những khác biệt nhất định về quyền lực, cương vị, tức vị thế giao
tiếp. Quy tắc thứ hai là để ngỏ sự lựa chọn, được áp dụng trong giao tiếp thông
thường, trong đó các bên tham gia hội thoại có cương vị xã hội và quyền lực gần
như tương đương nhau nhưng không gần gũi về mối quan hệ xã hội (người mua

hàng và bán hàng, người không quen biết ). Khuyến khích tình cảm bạn bè là nội
dung quy tắc thứ ba, và quy tắc này thường được áp dụng trong những trường hợp
người tham gia giao tiếp có mối quan hệ gần gũi, thân mật.
Bên cạnh Lakoff, G.N. Leech cũng là một cái tên không thể thiếu khi nhắc
tới quan điểm lịch sự. Dựa trên hai khái niệm “tổn thất” (cost) và “lợi ích”
(benefit), tác giả cho rằng, có những hành động mang bản chất cố hữu là không
lịch sự (như ra lệnh chẳng hạn), và có những hành động mang bản chất lại là lịch
sự (như khen, tặng), vì thế mục đích của mọi ứng xử ngôn ngữ cần “tối thiểu hóa
những lối nói bất lịch sự và tối đa hóa những lối nói lịch sự”.
E. Goffman thì lại có cái nhìn khác, ông cho rằng, điều quan trọng nhất khi
nghiên cứu về lịch sự là vấn đề thể diện bởi thể diện của mỗi một con người có liên
quan đến sự tồn tại về phương diện xã hội – tâm lý của một cá nhân trong giao
tiếp. Do đó, trong giao tiếp, mỗi cá nhân cần thực hiện những điều cần thiết để các

×