Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tổng quan về ngành thép

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.4 KB, 34 trang )

I. Phân tích ngành thép :
1. Tổng quan về ngành thép:
1.1.Lịch sử hình thành:
Có thể nói ngành thép Việt Nam còn khá non trẻ, bắt đầu được xây dựng từ
đầu những năm 1960. Từ năm 1990 đến nay ngành thép Việt Nam có nhiều
đổi mới và tăng trưởng mạnh. Sự ra đời của Tổng Công ty thép Việt Nam
năm 1990 đã góp phần quan trọng vào sự bình ổn và phát triển của ngành.
Năm 1996 là năm đánh dấu sự chuyển mình của ngành thép với sự ra đời
của 4 công ty liên doanh sản xuất thép là: liên doanh thép Việt Nhật
(Vinakyoei), Việt Úc (Vinausteel), Việt Hàn (VPS) và Việt Nam –
Singapore (Nasteel) với tổng công suất khoảng 840.000 tấn/năm. Từ 2002 -
2005 nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài được thành lập, ngành thép Việt Nam thực sự phát triển mạnh mẽ với
tổng công suất lên tới trên 6 triệu tấn/năm.
1.2 Nguyên liệu ngành :Đầu vào cho ngành thép là quặng sắt và thép phế.
Ở Việt Nam phần lớn sử dụng thép phế để sản xuất phôi và hoàn toàn là
phôi vuông để làm thép xây dựng. Phôi vuông sản xuất trong nước chỉ đáp
ứng được khoảng 50% nhu cầu cán thép, 50% còn lại là từ nguồn nhập khẩu.
1
Mặc dù tự sản xuất khoảng 20% thép dẹt, nhưng chưa có doanh nghiệp nào
ở Việt Nam sản xuất được phôi dẹt mà phải nhập khẩu từ bên ngoài. Nguồn
nhập khẩu thép, phôi thép các loại và thép phế của Việt Nam hiện giờ là từ
Trung Quốc (là chủ yếu) và một số nước khác trên thế giới như Mỹ, Nhật,
Nga v.v. Như vậy có thể thấy ngành thép Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều
từ biến động về phôi và thép trên thế giới. Giá thép trong nước có xu hướng
biến động cùng chiều với giá phôi trên thế giới.
1.3. Trình độ công nghệ, trang thiết bị:Ngành thép Việt Nam hiện nay có
năng lực sản xuất thực tế khoảng 2,6 triệu tấn thép cán/năm (thép xây dựng);
0,5 - 0,6 triệu tấn phôi thép bằng lò điện (phôi thép vuông và cả thỏi đúc cỡ
nhỏ). Về trình độ công nghệ, trang thiết bị có thể chia ra 4 mức sau:
• Loại tương đối hiện đại: Gồm các dây chuyền cán liên tục của 2 Công


ty liên doanh VINA KYOEI, VPS và một số dây chuyền cán thép mới
sẽ xây dựng sau năm 2000.
• Loại trung bình: Bao gồm các dây chuyền cán bán liên tục như
Vinausteel, NatSteelvina, Tây Đô, Nhà Bè, Biên Hòa, Thủ Đức
(SSC) Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO) và các công ty cổ phần, công ty tư
nhân (Vinatafong, Nam Đô, Hải Phòng v.v...).
• Loại lạc hậu: Bao gồm các dây chuyền cán thủ công mini của các
nhà máy Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Thép Đà Nẵng, Thép miền
Trung và các cơ sở khác ngoài Tổng công ty thép Việt Nam.
• Loại rất lạc hậu: Gồm các dây chuyền cán mini có công suất nhỏ
(<20000T/n) và các máy cán của các hộ gia đình, làng nghề.
1.4. Chất lượng và cơ cấu sản phẩm: Chất lượng sản phẩm thép cán xây
dựng của Tổng công ty thép Việt Nam và khối liên doanh nhìn chung không
thua kém sản phẩm nhập khẩu. Sản phẩm của các cơ sở sản xuất nhỏ
(<20000 T/n), đặc biệt là các cơ sở có khâu luyện thép thủ công chất lượng
kém, không đạt yêu cầu.
2
Hiện nay ngành thép Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại thép tròn
trơn, tròn vằn ( 10 - 40mm, thép dây cuộn ( 6 - (10 và thép hình cỡ nhỏ, cỡ
vừa (gọi chung là sản phẩm dài) phục vụ cho xây dựng và gia công, sản xuất
ống hàn, tôn mạ, hình uốn nguội, cắt xẻ... từ sản phẩm dẹt nhập khẩu. Các
sản phẩm dài sản xuất trong nước cũng phần lớn được cán từ phôi thép nhập
khẩu, khả năng tự sản xuất phôi thép trong nước còn nhỏ bé, chỉ đáp ứng
được khoảng 28%, còn lại 72% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy cần phải
nhập khẩu từ bên ngoài.
1.5 Đánh giá chung:
Những năm qua, tuy ngành thép đã được đầu tư đáng kể và có bước phát
triển tương đối khá mạnh (cả quốc doanh và tư nhân), đạt được tốc độ tăng
trưởng khá cao, có tiềm lực tăng gấp hàng chục lần so với năm 1990 và đạt
sản lượng trên 1 triệu tấn/năm, song vẫn còn trong tình trạng kém phát triển

so với các nước trong khu vực và thế giới, thể hiện ở các mặt:
• Trang thiết bị có qui mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ, lạc hậu, trình
độ công nghệ và mức độ tự động hóa thấp. Chất lượng sản phẩm còn
hạn chế (nhất là khu vực tư nhân), chỉ có 2 dây chuyền cán liên tục
tương đối hiện đại thuộc khối liên doanh.
• Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu (mới cán được các sản phẩm
dài, cỡ nhỏ và vừa với mác thép phổ biến là các bon thấp).
• Năng lực sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở cán
thép còn phụ thuộc nhiều vào phôi thép nhập khẩu. Toàn bộ sản
phẩm cán dẹt trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu.
• Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, số lượng lao động
quá đông, giá thành không ổn định (do lệ thuộc phôi thép nhập khẩu)
nên tính cạnh tranh chưa cao. Khả năng xuất khẩu sản phẩm thép còn
rất hạn chế.
Nhìn một cách tổng quát, ngành thép Việt Nam vẫn ở trong tình trạng sản
xuất nhỏ, phân tán, nặng về gia công chế biến từ phôi và bán thành phẩm
3
nhập khẩu. Trình độ công nghệ thấp, chưa có nhiều thiết bị hiện đại tự động
hóa cao, cần phải đầu tư cải tạo phát triển, thay thế dần các thiết bị cũ, lạc
hậu, mới có thể bảo đản tính cạnh tranh trong thời gian tới.
2. Tình hình ngành thép :
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 là 8,4%, năm 2008 dự báo là
trên 8% và nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam tăng thì dự báo sản xuất
thép vẫn tăng trưởng mạnh. Theo quy hoạch phát triển ngành thép đến
2010 đã được Chính phủ phê duyệt thì ngành thép phải trở thành một
trong những ngành công nghiệp trọng điểm của ngành kinh tế, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước với tốc
độ tăng trưởng bình quân từ 10 - 15%/năm.
Theo dự báo của Bộ Công thương và Tổng Công ty Thép Việt Nam,
nhu cầu tiêu thụ thép tăng trưởng bình quân từ 2008 đến 2025 là 8%. Tuy

nhiên, theo nhận định của các chuyên gia trong ngành thì nhu cầu tiêu thụ
thép cả nước trong năm 2008 sẽ tăng trưởng không thấp hơn 20%. Theo số
liệu thống kê của Hiệp hội thép Việt Nam, sản lượng sản xuất trong nước chỉ
mới đáp ứng được khoảng 40% - 50% nhu cầu tiêu thụ trong nước.
Về thép cán nóng mạ kẽm, hiện trong nước vẫn chưa có doanh nghiệp
nào sản xuất sản phẩm này, toàn bộ đều phải nhập khẩu. Về tôn mạ, hiện nay
chỉ có một số ít Công ty sản xuất được tôn lạnh như: Bluescope, Sunsteel, và
Hoasen Group. Từ đó, dẫn đến cung không đủ cầu và thực tế rằng Việt Nam
đang phải nhập khẩu Tôn lạnh từ nước ngoài.
Về sản phẩm thép cán nguội, hiện tại cả nước chỉ có 2 nhà máy sản
xuất thép cán nguội là Công ty Thép tấm lá Phú Mỹ và nhà máy thép cán
nguội tại Khu Công nghiệp Sóng Thần II của Hoasen Group. Tổng sản
lượng thép cán nguội của cả 2 Công ty là 520.000 tấn, chỉ mới đáp ứng được
40% nhu cầu trong nước, phần còn lại được các doanh nghiệp trong nước
nhập khẩu từ các quốc gia khác.
4
DỰ BÁO VỀ SẢN PHẨM THÉP LÁ CÁN NGUỘI
( Nguồn : Hiệp hội thép Việt Nam)
II. Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (Hoa Sen Group)
1. Lịch sử hình thành:
Năm 2001: thành lập công ty cổ phần Hoa Sen, tiền thân của Công ty
tập Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (Hoa Sen Group) hiện nay với ba chi
nhánh phân phối – bán lẻ trực thuộc.
Năm 2004:
Khai trương dây chuyền sản xuất tôn mạ màu I, công suất 45.000
tấn/năm, công nghệ tiên tiến của Nhật Bản.
Khánh thành toà nhà trụ sở văn phòng tại Khu công nghiệp Sóng
Thần II, Dĩ An, Bình Dương.
Năm 2005: Khai trương dây chuyền sản xuất tôn mạ kẽm I, công suất
50.000tấn/năm, tại Khu công nghiệp Sóng Thần II

Năm 2006:
Khởi công xây dựng Nhà máy Thép cán nguội Hoa Sen, công suất
180.000 tấn/năm
Mở văn phòng đại diện tại tpHCM
Thành lập công ty Cổ phần Tôn Hoa Sen, công ty con đầu tiên của
Hoa Sen Group
Năm 2007:
5
Đổi tên công ty cổ phần Hoa Sen thành công ty cổ phần tập đoàn Hoa
Sen (Hoa Sen Group)
Khánh thành nhà máy Thép cán nguội Hoa Sen, công suất 180.000
tấn/năm
Khai trương dây chuyền sản xuất tôn mạ kẽm II, công suất 50.000
tấn/năm
Thành lập công ty cổ phần vật liệu xây dựng Hoa Sen
Thành lập công ty cổ phần cơ khí và xây dựng Hoa Sen
Sáp nhập các công ty cổ phần Tôn Hoa Sen, công ty cổ phần vật liệu
xây dựng Hoa Sen, công ty cổ phần cơ khí và xây dựng Hoa Sen vào
Hoa Sen Group, nâng vốn điều lệ lên 570 tỷ đồng.
Năm 2008:
Thành lập công ty tiếp nhận cảng biển Hoa Sen – Gemadept
Khánh thành giai đoạn 1 nhà máy vật liệu xây dựng
Khánh thành nhà máy tôn mạ hợp kim nhôm kẽm
Niêm yết cổ phiếu HSG tại sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh
2. Cơ cấu tổ chức:
6
7
3. Lĩnh vực hoạt động:
 Tôn – thép

Sản xuất thép cuộn cán nguội
Sản xuất tôn lạnh (tôn mạ hợp kim nhôm kẽm), tôn mạ kẽm, tôn lạnh phủ
sơn, tôn kẽm phủ sơn.
Sản xuất xà gồ thép, ống thép mạ kẽm, ống thép mạ các loại hợp kim
khác.
 Vật liệu xây dựng
Sản xuất vật liệu xây dựng bằng nhựa: ống nhựa, tấm trần nhựa, hạt
nhựa, ...
 Cảng biển và Logistic
Kinh doanh cảng biển và dịch vụ logistic
8
 Bất động sản:
Kinh doanh bất động sản
Xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật
Sản xuất cấu kiện thép dùng trong xây dựng
4. Chiến lược kinh doanh của công ty (tựa đề này ko đúng cho lắm,
mọi người nghĩ ra jùm nha)
 Tầm nhìn
Trở thành một tập đoàn kinh tế đa ngành tại Việt Nam
 Sứ mệnh
Tạo ra giá trị cao nhất cho khách hàng và cổ đông
Đem lại một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần cho
mỗi thành viên
Chia sẻ thành quả cho cộng đồng
Góp phần phát triển cho đất nước
 Giá trị cốt lõi
Tạo ra giá trị đích thực bằng nỗ lực lao động cần cù và sáng tạo
 Triết lý kinh doanh
Trung thực - Cộng đồng – Phát triển
 Định hướng phát triển

Tập trung nguồn lực vào lĩnh vực kinh doanh chủ yếu gồm tôn –
thép, vật liệu xây dựng, cảng biển, logistics, và bất động sản.
Phát triển năng lực cạnh tranh bền vững của quy trình sản xuất kinh
doanh khép kín để đảm bảo sản phẩm có chất lượng cao và giá thành
thấp nhất trong lĩnh vực kinh doanh tôn – thép, vật liệu xây dựng.
Khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh vượt trội của hệ thống chi nhánh
phân phối – bán lẻ để giữ vững vị thế doanh nghiệp có thị phần lớn
nhất Việt Nam trong lĩnh vực tôn – thép.
9
Đa dạnh hoá sản phẩm kinh doanh, phấn đấu trở thành nhà sản xuất
và phân phối hàng đầu các sản phẩm vật liệu xây dựng cơ bản tại
Việt Nam.
Xây dựng và phát triển thương hiệu mạnh và thân thiện.
Phát triển hệ thống chi nhánh bán lẻ lên 200 chi nhánh trên cả nước
và 10 trung tâm kinh doanh vật liệu xây dựng tổng hợp.
Hợp tác chiến lược với đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
trong việc đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực.
Với phương châm kinh doanh “Trung thực – Cộng đồng – Phát
triển”, Hoa Sen thật sự là đại gia đình với đội ngũ cộng sự năng động,
chuyên nghiệp, làm cầu nối với các đối tác trong và ngoài nước.
Phương châm ấy không chỉ có giáo dục nhân cách, mà còn là triết lý
chỉ đạo xuyên suốt cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty.
Để chuẩn bị cho việc hình thành và phát triển lớn mạnh theo mục tiêu trở
thành tập đoàn kinh tế năng động, bền vững, tập trung chủ yếu trên các
lĩnh vực: tôn – thép, vật liệu XD, bất động sản, đầu tư tài chính, cảng
biển và logistics, công ty
đã tiến hành thành lập công ty con đầu tiên mang tên Công ty cổ phần
Tôn Hoa Sen vào tháng 11 năm 2006, khai trương văn phòng đại diện tại
TP.HCM vốn điều lệ 320 tỷ đồng và hoàn chỉnh hệ thống phân phối trực

tiếp đến người tiêu dùng tại trên 70 chi nhánh trải dài từ Bắc – Trung –
Nam.
Đây được xem là một lợi thế quan trọng trong bối cảnh Việt Nam gia
nhập WTO. Trong tương lai, Hoa Sen sẽ mở rộng và nâng cấp hệ thống
này thành những “Trung tâm thép hoặc Siêu thị VLXD” để đáp ứng tốt
nhất nhu cầu xây dựng ngày càng cao của khách hàng.. Và mở rộng thị
10
trường xuất khẩu để đưa các sản phẩm mang thương hiệu Hoa Sen khẳng
định vị trí trên trường quốc tế.
Hiện nay, Hoa Sen Group là doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tiên
tại Việt Nam đầu tư xây dựng Nhà máy thép cán nguội (công suất 180.000
tấn/năm) nhằm chủ động sản xuất tôn có độ dày đáp ứng nhu cầu từng khách
hàng trong thời gian ngắn nhất; 01 Nhà máy Tôn mạ hợp kim nhôm kẽm
công nghệ NOF (công suất 150.000 tấn/năm), 02 dây chuyền tôn mạ màu
(công suất 90.000 tấn/năm), 2 dây chuyền tôn mạ kẽm (công suất 100.000
tấn/năm) đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản phẩm của thị trường.
Với những bước phát triển mạnh mẽ và sự đóng góp tích cực vào sự phát
triển kinh tế cũng như xã hội của đất nước, Hoa Sen đã nhận được nhiều
giải thưởng cao quý: Sao Vàng Đất Việt năm 2005, Cúp vàng vì sự tiến
bộ xã hội và phát triển bền vững năm 2006, Cúp vàng ISO năm 2006,
Thương hiệu hàng đầu về XD - VLXD – nhà ở và trang trí năm 2006,
Hàng Việt Nam chất lượng cao năm 2006 - 2007… Đây là sự khích lệ để
Hoa Sen tiếp tục gặt hái những thành công mới, trở thành một tập đoàn
kinh tế vững mạnh, có năng lực cạnh tranh cao, sẵn sàng chủ động bước
vào hội nhập.
5. Kết quả kinh doanh năm 2009 của Hoa Sen Group:
Theo tin từ CTCP Tập đoàn Hoa Sen (HSG), lợi nhuận sau thuế quý IV năm
2009 ước đạt 154 tỷ đồng, trong đó tháng 12/2009 ước đạt 48 tỷ đồng.
Tại thời điểm quý IV năm 2008 do tình hình kinh tế đi xuống đã làm cho
Hoa Sen gặp vô vàn khó khăn. Các công trình xây dựng đình đốn, thị trường

thu hẹp, nhu cầu giảm mạnh đã buộc doanh nghiệp phải giảm mạnh giá bán,
11
thậm chí chấp nhận bán dưới giá thành, tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt. Nhiều
công trình đầu tư dở dang, do kinh tế suy thoái không triển khai tiếp được vì
thiếu vốn. Việc vay vốn ngân hàng thương mại không thực hiện được do lãi
suất quá cao và ngân hàng sợ rủi ro nên kiểm soát chặt chẽ việc cho các
doanh nghiệp thép vay vốn đầu tư. Tiêu thụ thép của các doanh nghiệp sản
xuất thép trong những tháng cuối năm 2008 và 2 tháng đầu năm năm 2009
giảm sút mạnh. Và Hoa Sen cũng không ngoại lệ, quý IV, Hoa Sen đã lỗ hơn
116 tỷ đồng.
Bước vào năm 2009 ngành thép Việt Nam gặp khó khăn hơn năm 2008,
cũng như nhiều doanh nghiệp cùng ngành thì Hoa Sen còn tồn kho số
lượng lớn các nguyên liệu như phôi thép, thép phế, cuộn cán nóng với giá
cao gấp 3 lần so với thời giá của 2009, nếu tiếp tục sản xuất thì buộc phải
bán dưới giá thành và chịu lỗ lớn (thép xây dựng từ mức giá bán xấp xỉ 20
triệu đ/tấn ở thời điểm giữa năm 2008 đã giảm xuống còn 7 – 9 triệu đ/tấn
trong những tháng đầu năm 2009).
Ngay trong giai đoạn khó khăn nhất, nhờ chính sách hỗ trợ lãi suất đã giúp
các doanh nghiệp ngành thép được tiếp cận nguồn vốn rẻ để duy trì sản xuất,
triển khai các công trình đầu tư trong ngành thép, tạo điều kiện phát triển ổn
định. Chính sách miễn giảm 50% thuế VAT từ mức 10% xuống 5%, có hiệu
lực từ 1/2/2009 đến hết 31/12/2009 cũng giúp các doanh nghiệp có điều kiện
giảm giá bán sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Trong khi
đó, gói kích cầu trị giá khoảng 6 tỷ USD có tác động rất tốt đến sức tiêu thụ
sản phẩm thép, khiến thị trường thép trong nước mở rộng đáng kể. Nhiều dự
án xây dựng hạ tầng cơ sở, xây dựng nhà ở nông thôn, nhà ở cho công nhân
khu công nghiệp, nhà ở cho người thu nhập thấp và nhà ở cho sinh viên
được tiếp thêm vốn đã được triển khai.
Vào thời điểm giá thép hạ, ban giám đốc Hoa Sen đã mạnh dạn nhập
về một lượng lớn phôi thép dự trữ. Và khi tác động của các chính

sách hỗ trợ của chính phủ được phát huy thì giá thép cũng như sản
12
lượng tiêu thụ liên tục tăng. Nhờ đó đã mang về cho Hoa Sen một
khoảng lợi nhuận lớn. Với sự quyết đoán trong kinh doanh của Ban
lãnh đạo Tập đoàn Hoa Sen đã tạo nên một sự thành công vượt quá
mong đợi trong năm 2009
Đạt được kết quả kinh doanh tốt trong năm 2009 ta phải nói đến chiến lược
kinh doanh thành công cũng như sự uyển chuyển, nhạy bén của Ban Giám
đốc công ty đã góp thành chuyển tình huống khó khăn một cách ngoạn mục
như thay đổi kế hoạch kinh doanh phù hợp với tình hình lúc bấy giờ quyết
định giãn tiến độ đầu tư 2 dự án: Cảng biển quốc tế Hoa Sen – Gemadept và
dự án mở rộng hệ thống phân phối; tạm dừng triển khai 3 dự án lớn để thực
hiện nhiệm vụ trước mắt là phải tập trung nguồn lực tài chính, nhân sự cho
lĩnh vực SXKD các loại sản phẩm: tôn lạnh, tôn lạnh màu, ống thép, xà gồ,
ống nhựa,…với phương châm “làm tốt những gì hiện có”.
Việc khẩn trương khánh thành đưa vào hoạt động Nhà máy Tôn mạ hợp
kim nhôm kẽm - công nghệ NOF, công suất 150.000 tấn/năm và dây
chuyền Tôn mạ màu II, công suất 50.000 tấn/năm vào cuối tháng 3/2008
đã giúp Hoa Sen Group tăng cường năng lực cạnh tranh với các dòng sản
phẩm mới có tính năng vượt trội, giá thành hợp lý như: tôn lạnh, tôn lạnh
màu,… đã được người tiêu dùng trong cả nước tín nhiệm và đón nhận
một cách nồng nhiệt.
Trong tình hình giá cả nguyên vật liệu biến động, lãi suất vay ngân hàng
gia tăng, sự bất ổn của tỷ giá hối đoái VND/USD... Ban Tổng Giám Đốc
đã có những dự báo chính xác tình hình gia tăng giá thép nhập khẩu trên
thị trường thế giới, biến động của lãi suất và tỷ giá VND/USD trong nước
để có những quyết định về dự trữ nguyên liệu, vật liệu hợp lý, kiểm soát
chặt chẽ chi phí sản xuất kinh doanh, về vay trả nợ ngân hàng linh hoạt,
điều chỉnh chính sách công nợ với khách hàng cho phù hợp với tình hình
thị trường diễn ra hàng tuần. Điều đó đã thật sự phát huy hiệu quả định

13

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×