TỔNG QUAN VỀ NGÀNH SẢN XUẤT GIẦY DÉP
1. Thực trạng tình hình sản xuất giầy dép của Việt Nam
Nền kinh tế của một quốc gia có thể tăng trưởng nhanh hay chậm trong
thời đại ngày nay phụ thuộc vào sự phát triển của từng ngành sản xuất và dịch
vụ. Mỗi ngành có một thế mạnh dựa vào đặc tính và khả năng tiêu thụ của sản
phẩm. Với tiến trình hội nhập kinh tế, hàng hoá Việt Nam đang ngày càng có
chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên việc làm thế nào để đứng vững và
tiến lên trong điều kiện cạnh tranh gay gắt đang là yêu cầu đặt ra với mỗi
ngành sản xuất. Trong nhóm ngành lớn là sản xuất hàng tiêu dùng, ngành giầy
dép đang ngày càng có vị trí quan trọng không những chỉ hoạt động trong
nước mà vị thế xuất khẩu cũng nâng lên rõ rệt.
Ngành công nghiệp giầy dép của Việt Nam trong 7 năm trở lại đây tăng
trưởng rất nhanh, đặc biệt là sản lượng và xuất khẩu. Giai đoạn từ 1997 -
2000 đã tăng từ 206 triệu đôi lên đến 303 triệu đôi. Hiện nay, năng lực sản
xuất của chúng ta có thể sản xuất được khoảng 400 triệu đôi. Phần lớn các sản
phẩm này đều được xuất khẩu, trung bình mỗi năm tổng giá trị giầy dép xuất
khẩu của Việt Nam đạt 1,5 tỷ USD. Trong đó, châu Âu là thị trường hàng đầu,
chiếm khoảng 65% lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam, sau đó là thị trường
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay tốc độ
tăng trưởng của ngành đã bắt đầu chững lại và có dấu hiệu giảm dần bởi sức
cạnh tranh ngày càng mạnh từ phía các nhà sản xuất giầy dép Trung Quốc.
Tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của cả nước năm 2002 đạt 1,82 tỷ
đô la, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2001. Năm 2002, mặc dù tình hình kinh
tế toàn cầu có ổn định hơn trước, một số nền kinh tế đã dần được phục hồi, sức
mua của các thị trường chủ yếu từng bước được ổn định, thị trường Mỹ được
mở… song ngành giầy lại tiếp tục gặp phải những thách thức mới: Tốc độ thay
đổi mẫu mốt của khách hàng tăng trong khi quy mô của các đơn đặt hàng bị
thu nhỏ lại rất nhiều, sức ép đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất
lượng, đảm bảo trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường từ khách hàng tăng.
Đặc biệt, việc Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại thế giới đã làm cho
cạnh tranh giữa giầy dép nước ta sản xuất và giầy dép Trung Quốc càng trở
nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Trước những khó khăn thách thức mới, toàn
ngành đã phải dốc sức điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh, tăng đầu tư
chiều sâu nhằm đáp ứng nhanh các đơn hàng khó, từng bước hướng một từng
bộ phận sản xuất từ chủ yếu làm gia công cho đối tác nước ngoài sang phương
thức tự sản xuất, tự tiêu thụ nhằm tăng tính chủ động trong sản xuất kinh
doanh, chiếm lĩnh thị trường và tăng kết quả kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp
có những bước đầu tư đột phá khâu thiết kế mẫu mốt thời trang, ứng dụng tin
học trong thiết kế mẫu và quản lý sản xuất: Cty Hữu Nghị Đà Nẵng, Cty An Lạc,
Cty Phú Lâm ….Một số công ty đã xây dựng và khẳng định được những thương
hiệu của mình trong và khu vực như : Cty Bitis, Vina Giầy…
Bảng 1.1 Sản lượng sản xuất da - giầy của Việt Nam 2001 - 2003
Đơn vị tính: triệu đôi
TT Sản phẩm 2001 2002 2003
1 Giầy vải 37,79 189,43 192,354
2 Các loại khác 76,43 71,71 68,364
3 Giầy thể thao 138,30 31,43 40,15
4 Giầy nữ 69,50 67,43 70,215
Tổng số: 322,02 360,00 371,083
Nguồn: Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam
Bảng 1.2 Kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chủ yếu 2001-
2003
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003
1. Kim ngạch XKCN Triệu USD 10615 10610 14101
Hàng CN nặng và KS ,, 5247 5210 6150
Hàng CN nhẹ và TTCN ,, 5368 6400 7951
2. Mặt hàng XK chủ
yếu
Hàng dệt may Triệu USD 1975 2752 3600
Hàng giày dép ,, 1560 1867 2217
Hàng thủ công mỹ nghệ ,, 235 329 367
Than đá Nghìn .Tấn 4290 5870 6200
Dầu thô ,, 16732 16879 17169
Hàng điện tử & linh kiện Triệu USD 595 492 680
Nguồn: Bộ Kế hoạch đầu tư
Đến năm 2010, ngành giầy da Việt Nam đạt mục tiêu sẽ trở thành ngành
công nghiệp xuất khẩu trọng yếu. Kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 3300 triệu vào
năm 2006 và tăng lên đạt 6200 triệu USD năm 2010. Mục tiêu phát triển
ngành da giầy cũng được xác định cụ thể: đến năm 2006 sản xuất được 470
triệu đôi giầy dép các loại; 51,7 triệu chiếc cặp, túi xách các loại; 40 triệu feet
vuông da thuộc thành phẩm. Năm 2010, tương ứng sẽ là 720 triệu đôi; 80,7
triệu chiếc và 80 triệu feet vuông. Theo dự báo của thế giới, từ nay đến 2007
sản lượng giầy dép của toàn thế giới tăng bình quân 3 - 3,2%/năm và thực tế
hiện nay ngành da giầy Việt Nam vẫn đang phải trực diện với không ít thách
thức từ sản xuất đến thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường xuất khẩu.
Bảng 1.3 Giá trị xuất khẩu giầy dép giai đoạn 2000 - 2004 (triệu
USD)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004
Giá trị 1,464 1,559 1,667 2,268 2,610
Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thương mại
Đến hết ngày 10/12/2004, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành đạt
2,61 tỷ USD (Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu cặp, túi xách đạt 0,16 tỷ USD),
tăng 22% so với năm 2003.
Năm 2004, sản xuất kinh doanh của toàn ngành có phần biến động so
với năm 2003, các doanh nghiệp sản xuất giầy vải tiếp tục gặp khó khăn, với
yêu cầu mẫu mã đa dạng và phức tạp hơn, đơn hàng giầy vải ngày càng thu
hẹp (chỉ các loại giầy vải có mũ từ da thuộc, vải cao cấp được các khách hàng
lựa chọn nhiều hơn). Các doanh nghiệp có khách hàng tiềm năng, đơn hàng
nhiều tiếp tục gia tăng và phát triển sản xuất, đặc biệt các doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài và liên doanh. Một số doanh nghiệp thực sự khó khăn do không
có khách hàng thường xuyên, thu hẹp sản xuất (phần lớn các doanh nghiệp này
là doanh nghiệp Nhà nước: Công ty giầy Hiệp Hưng, Công ty Giầy Thăng Long,
Công ty Giầy Vĩnh Yên…). Khu vực phía Bắc khó thu hút khách hàng hơn phía
Nam (trừ khu vực Hải Phòng). Phần giá trị gia tăng trong nước của các sản
phẩm da giầy hiện mới chỉ ở mức rất thấp (35 - 40%), do phần lớn các doanh
nghiệp sản xuất gia công, nhiều nguyên liệu vẫn tiếp tục phải nhập ngoại và do
các đối tác chỉ định.
* Về đầu tư:
Năm 2004, ít doanh nghiệp đầu tư mới cho sản xuất giầy, riêng phần
nguyên phụ liệu và thuộc da tiếp tục được đầu tư mạnh hơn: Công ty thuộc da
Hào Dương bắt đầu đi vào hoạt động, một số cơ sở nhỏ tại khu thuộc da Phú
Thọ Hoà ra đời, công ty thuộc da Primer Vũng Tàu (Chuyên cung cấp các loại
da thuộc thành phẩm cho công ty PouYuen đã đi vào sản xuất từ quý II/2004,
công ty thuộc da Samwoo, công ty Green Tech đã đi vào sản xuất ổn định… Các
cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu (đế giầy, da tráng PU, keo, phụ liệu…) có quy
mô không lớn được hình thành để phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp giầy.
Tuy nhiên, nhiều loại nguyên phụ liệu sản xuất trong nước có giá bán cao hơn
nhập khẩu nên các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghệp gia công) vẫn
lựa chọn nhập khẩu hơn là mua trong nước.
* Về thị trường và hoạt động xúc tiến thương mại:
Sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ tiếp tục gia tăng (năm 2004
chiếm 14 - 15% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành), chủ yếu do các công ty
100% vốn nước ngoài, liên doanh, một vài công ty lớn của Việt Nam như: Công
ty Sao Vàng, Công ty TNHH Duy Hưng… thực hiện. Thị trường EU (chiếm 73 -
75%) có những biến động nhất định với các yêu cầu ngày càng cao về sản
phẩm không sử dụng hoá chất độc hại, doanh nghiệp thực hiện tốt các tiêu
chuẩn về nhãn mác v.v… Đồng thời chịu tác động do vừa qua EU ban hành một
số quy định mới về hệ thống ưu đãi thuế quan (GSP) và xem xét lại 8 nước có
kim ngạch xuất khẩu lớn vào EU (trong đó có Việt Nam) để tiếp tục cho thực
hiện quy chế ưu đãi thuế quan. Bộ Thương mại và Hiệp hội Da - Giầy đã kiến
nghị Chính phủ đàm phán và tác động để Việt Nam tiếp tục được hưởng ưu đãi
thuế quan. Kết quả phần lớn các nước EU ủng hộ để Việt Nam tiếp tục được
hưởng GSP. Nếu có biến động, việc xuất khẩu giầy dép sang EU sẽ gặp khó khăn
hơn. Thị trường Nhật chiếm mức 2,5% và các nước khác duy trì ở mức như
những năm trước đây.
Năm 2004, Hiệp hội tiếp tục được giao nhiệm vụ đầu mối thực hiện
chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp trong ngành tiếp cận, khảo sát thị trường, giới thiệu quảng bá sản
phẩm của doanh nghiệp trực tiếp tới các khách hàng nhập khẩu tiềm năng
* Về chi phí cho sản xuất
Tiếp tục có sự biến động, các chi phí đầu tư vào gia tăng cao (các dịch
vụ, điện nước, sinh hoạt, tiền lương và bảo hiểm), các doanh nghiệp chịu nhiều
sức ép trong bối cảnh công phí và giá bán không tăng, các yêu cầu khách hàng
phải đáp ứng đầy đủ hơn.
Theo các chuyên gia trong ngành xác nhận, phần giá trị gia tăng trong
kim ngạch xuất khẩu của ngành còn rất khiêm tốn, mới chỉ chiếm khoảng 15 -
20%, trong đó chưa loại trừ giá trị thương hiệu. Bởi lẽ, hầu hết các doanh
nghiệp trong ngành vẫn đang thực hiện phương thức sản xuất gia công cho
các hãng giầy nổi tiếng thế giới. Nếu loại bỏ yếu tố thương hiệu của sản phẩm,
giá trị gia tăng này sẽ còn thấp hơn.
Từ đầu năm đến nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giầy đạt 1,36 tỷ
USD. Với đà này, năm 2005, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành sẽ đạt khoảng 2,7
- 2,8 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng được đo ở mức 18 - 19%. Trong bối cảnh của
cạnh tranh thị trường thì sự tăng trưởng đó là rất đáng kể. Hiệp hội Da - giầy
Việt Nam đã cho biết các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam đang bị cạnh
tranh dữ dội từ phía Trung Quốc. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư
vào sản xuất giầy cấp thấp do những sản phẩm này chỉ cần công nghệ đơn
giản, cơ cấu sản xuất gọn nhẹ, chi phí đầu tư ít, lại có thị trường rộng. Trước
đây giầy cấp thấp có tỷ trọng chiếm tới 40% trong cơ cấu giầy xuất khẩu của
ngành da giầy Việt Nam. Nhưng hai năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam đã
mất dần thị trường bởi sự cạnh tranh rất mạnh của các nhà sản xuất Trung
Quốc. Do đó, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng
chuyển hướng sản xuất các mặt hàng tung và cao cấp do những sản phẩm này
đang có xu hướng tiêu dùng mạnh. Nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp
FDI, liên doanh và doanh nghiệp trong nước đã chuyển hướng hiệu quả. Hiện
nay, để sản xuất giầy cao cấp, các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế
như trình độ công nghệ rất thấp, khả năng phát triển sản phẩm gần như
không có, việc xây dựng mối quan hệ với khách hàng rất lỏng lẻo, năng suất
lao động chỉ bằng một nửa so với các doanh nghiệp Trung Quốc. Để phát triển,
không còn cách nào khác là các doanh nghiệp phải đẩy mạnh đầu tư công nghệ
mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và chú trọng đến
khâu thiết kế sản phẩm, phát triển thị trường.
Dự báo nhu cầu trong nước một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
năm 2005
Các sản phẩm công
nghiệp
Đơn vị
tính
2000 2005
Nhu cầu Năng lực
sản xuất
Nhu cầu Năng lực
sản xuất
Dầu thô Triệu tấn 0 15,4 0 18
Xi măng Triệu tấn 13,5 18,6 29-30 29
Thép xây dựng “ 1,67 2,5 3,3-3,6 3,5
Than sạch “ 7,6 12-13 12-13,5 22
Hàng may sẵn Triệu SP 64 540 83-88 800
Giày dép Triệu đôi 80 360 160 390-450
Giấy 1000 tấn 480 377 800 670
Bia Triệu lít 800 800 970-970 1150
Nguồn: Bộ Kế hoạch đầu tư