Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

thực trạng lạm phát việt nam từ 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.46 KB, 46 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TPHCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH & DU LỊCH
  
MÔN: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT
NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY
DANH SÁCH NHÓM
HỌ VÀ TÊN MSSV HỌ VÀ TÊN MSSV
Đinh Thị Thanh Hoa 2007110278 Tôn Thị Huệ 2013110298
Nguyễn Tấn Liêm 2013110299 Nguyễn Thị Khánh Linh 2023110377
Lê Thanh Nguyên 2007110165 Tống Thanh Phương 2023110225
Đinh Đắc Thắng 2013110131 Nguyễn Văn Thông 2013110321
Nguyễn Phú Thuận 2007110071 Trấn Thanh Trà 2007110115
Ninh Quốc Trí 2013120271 Đặng Phương Trúc 2013110154
TP. HCM, 03 TP. HCM, 03/20/2013
TPHCM, 4/2013
TP. HCM, 03/2013
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 4
1.1. Khái niệm lạm phát 4
1.2. Phân loại lạm phát 6
1.3. Hậu quả của lạm phát 7
1.3.1. Tác động phân phối lại thu nhập và của cải 7
1.3.2. Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm 7
1.3.3. Các tác động khác 8
1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát 9


1.4.2. Nguyên nhân do tổng cung ngắn hạn giảm (lạm phát chi phí đẩy) và giải pháp
khắc phục 16
1.4.3. Lạm phát do yếu tố tiền tệ và giải pháp khắc phục 18
1.4.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát do sự mất cân đối trong quan hệ tổng cung - tổng
cầu trong trung và dài hạn và giải pháp khắc phục. 21
1.4.5. Lạm phát do mất đối trong cán cân thu - chi ngân sách và giải pháp khắc phục 25
1.4.6. Lạm phát do mất cân đối trong cán cân thương mại và giải pháp khắc phục. 26
1.4.7. Lạm phát từ những hạn chế trong quản lý giá cả và hệ thống phân phối hàng hoá
và giải pháp khắc phục 27
1.4.8. Lạm phát do yếu tố tâm lý và giải pháp khắc phục 28
1.4.9. Một số nguyên nhân khác 30
2. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ LẠM
PHÁT 30
2.1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng 30
2.2. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách nhà nước 31
2.3. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu,
sử dụng tiết kiệm năng lượng 31
2.4. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo 32
2.5. Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội 32
2.6. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền 33
3. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ỡ VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY 33
3.1. Lạm phát 2008 33
3.1.1. Tình hình kinh tế và xã hội 33
3.1.2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam 2008 36
3.1.3. Kiềm chế lạm phát năm 2008 37
3.2. Lạm phát 2009 37
3.3. Lạm phát 2010-2011 39
3.3.1. Diễn biến lạm phát trong năm 2010 39
3.3.2. Diễn biến lạm phát 2011 40

3.3.3. Nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam 41
3.3.3.1. Nguyên nhân khách quan 41
3.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan 43
3.3.3. Chi tiêu công và sự độc lập của NHNN 44
3.3.4. Khả năng điều hành nền kinh tế 45
3.3.5. Giải pháp của chính phủ 47
3.4. Lạm phát 2012 50
3.5. Lạm phát năm 2013: Kỳ vọng một con số 51
4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 52
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
MỞ ĐẦU
Việt Nam đã đi qua hơn 20 năm đổi mới một cách ấn tượng với những thành tựu quan
trọng. Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, Việt Nam đã chuyển từng bước chắc chắn sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam cũng đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng
kinh tế để tự tin bước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Việc gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã khẳng định mức độ tiến bộ mà chúng ta đạt
được trong hơn 20 năm qua.
Đến nay, Việt Nam đã vượt qua ngưỡng nước có thu nhập thấp và đang nỗ lực theo đuổi mục tiêu trở
thành nước công nghiệp vào năm 2020. Làm thế nào để chúng ta có thể đạt được mục tiêu này trong hơn
10 năm nữa, khi mà kinh tế vĩ mô của chúng ta trở nên bất ổn, sự ổn định của nền kinh tế đang
trở nên rất mong manh? Lạm phát đang đã có dấu hiệu quay trở lại từ năm 2004 và tăng tốc từ giữa
năm 2007. Thêm vào đó, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ thế giới, khởi đầu từ Mỹ,
đã làm cho nền kinh tế Việt Nam chao đảo mạnh hơn. Từ chỗ phải trải qua tình trạng lạm phát bùng lên
dữ dội và cối năm 2007 đầu năm 2008, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một tình huống rất khó
khăn: lạm phát có nhiều nguy cơ quay trở lại, song chúng ta lại mong muốn tăng tốc độ để đạt mục tiêu
của năm 2020 và mục tiêu phát triển trong tương lai xa hơn nữa.
Vấn đề đặt ra là nguyên nhân nào gây ra tình trạng lạm phát và bất ổn kinh tê vĩ mô ở Việt Nam hiện
nay? Ngoài tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ toàn cầu còn có những nguyên nhân nào
khác nữa? Làm thế nào để tăng trưởng cao và vững chắc trong dài hạn? … Thực tế đó đang đặt ra

yêu cầu cần phải có những nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về những nguyên nhân gây ra lạm phát và
những bất ổn kinh tế vĩ mô. Điều đó cũng cho thấy ý nghĩa lý luận, thực tiễn và tính cấp thiết của đề tài:
"Lạm phát ở Việt Nam hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp” trong bối cảnh kinh tế hiện nay.
1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một phạm trù kinh tê khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông tiền giấy. Điểu này xuất
phát từ chỗ tiền giấy chỉ là một loại tiền dấu hiện giá trị được phát hành vào lưu thông để thay thế cho
tiền đủ giá nhắm thực hiện vai trò trung gian trao đổi. Như vậy, thực chất tiền giấy không có giá trị nộ
tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta
không có xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền vị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát, về cơ bản có thể thấy có ba khái niệm sau:
Thứ nhất, lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung trong nền kinh tế và
nguyên nhân chủ y ếu dẫn đến lạm phát là y ếu tố tiền tệ. Đây là khái niệm lạm phát do các nhà kinh
tế học trường phái cổ điển và tân cổ điển đưa ra. Đại diện tiêu biểu của nhóm này là nhà kinh tế học
Milton Friedman.
Thứ hai, lạm phát là sự gia tăng mức giá chung của nền kinh tế và nguyên nhân của lạm phát không
chỉ do yếu tố tiền tệ mà còn bao gồm cả những nguyên nhân khác như sự biến động giá cả của nguyên
liệu đầu vào quan trọng như giá năng lượng, vật liệu. Khái niệm này là của các nhà kinh tế học hiện đại -
đại diện tiêu biểu là nhà kinh tế học Paul. A. Samuelson. Với khái niệm này, Paul.
A.Samuelson không đề cập trực tiếp đến sự tăng lên liên tục của mức giá chung như các nhà kinh tế học
trường phái tiền tệ. Tuy nhiên, khi nói đến lạm phát ông cũng đã đặt nó trong mối quan hệ so sánh các
chỉ số giá quá các thời kỳ, các năm khác nhau. Do đó, không thể đi đến kết luận rằng quan niệm của
Samuelson là mức giá cả chỉ tăng lên một lần đã được coi là lạm phát như một số tác giả Việt Nam đã
từng phê phán.
Thứ ba, lạm phát là hiện tương tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng vị mất
giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt Đây là khái niệm hiện nay của hầu hết các
tác giả trong và ngoài nước.
Khái niệm lạm phát thứ ba sẽ được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của đề tài. Bởi lẽ, nó đề cập
đầy đủ bản chất của lạm phát. Lạm phát không phải là hiện tượng giá cả của một vài hàng hóa hay vài

nhóm hàng hóa nào đó tăng lên mà là sự tăng lên của mức giá chung của nền kinh tế. Khi mức giá chung
tăng lên mọi người phải trả nhiều tiền hơn cho giỏ hàng hóa và dịch vụ mà họ mua. Hơn nữa, có thể coi
mức giá là thước đo giá trị của đồng tiền. Sự gia tăng của mức giá có nghĩa là giá trị của đồng tiền bị suy
giảm bởi vì khi đó mỗi đơn vị tiền tệ (VNĐ,USD…) sẽ mua được một lượng hàng hóa ít hơn.
Chính vì vậy, khi tính mức độ lạm phát, các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá cả. Chỉ số giá cả thường
được sủ dụng nhất là chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index – CPI). Chỉ số này phản ánh mức thay
đổi giá cả của một giỏ hàng hóa tiêu dùng so với năm gốc cụ thể. Thông thường các nhóm chính trong giỏ
hàng hóa là thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vận tải và y tế. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ số CPI để
đo lường lạm phát kkhong phải là không có những hạn chế:
CPI phản ánh tỷ lệ cố định của mỗi mặt hàng theo ý nghĩa kinh tế của nó. Nhiều lúc, khi giá 
cả những nhóm mặt hàng tiêu dùng bị tăng giá quá cao thì người tiêu dùng có khuynh hướng sử dụng
những hàng hóa khác thay thế cho những hàng hóa có mức giá tươnng đối đắt đỏ.
CPI không phản ánh chính xác những thay đổi về chất lượng hàng hóa. Nhiều công trình 
nghiên cứu cho thấy nếu những thay đổi về chất lượng hàng hóa được tính đến một các thích đáng thì tốc
độ tăng của CPI không tăng lên với tốc độ nhanh trong năm vừa qua.
Ngoài CPI được sử dụng rộng rãi nhất để tính chỉ số lạm phát người ta còn sử dụng các chỉ số giá
khác như chỉ số giá cả sản xuất, chỉ số “giảm phát GNP”. Chỉ số giá cả sản xuất là chỉ số bán buôn, nó
được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên và được tính rất chi tiết vì nó bao gồm rất nhiều sản
phẩm được lựa chọn. Chỉ số “giảm lạm phát GNP” là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, nó chính là tỷ lệ của
GNP danh nghĩa so với GNP thực tế. Chỉ số “giảm lạm phát GNP bao gồm tất cả các loại hàng hóa dịch
vụ trong GNP, do đó nó phảm ánh khá toàn diện hơn chỉ số giá tiêu dùng.
Cần phân biệt rõ hai khái niệm sau đây có liên quan đến lạm phát.
- Giảm lạm phát là sự sụt giảm tỷ lệ lạm phát, tức là mức giá chung của nền kinh tế vẫn gia tăng
song mức độ tăng mức giá chung có xu hướng chậm lại. Chẳng hạn, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm
1993 là 5,2% trong khi năm 1992 tỷ lệ đó là 17,6% có thể nói năm 1993 nền kinh tế Việt Nam có giảm
lạm phát so với năm 1992 vì tốc độ tăng lạm phát của năm 1993 là 5,2% < 17,6% của năm 1993.
- Thiểu phát là khi mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống bằng 0 hoặc dưới 0. Chẳng hạn, năm
2000 nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng thiểu phát, với tỷ lệ lạm phát -0,6%.
1.2. Phân loại lạm phát
Có rất nhiều cách phân loại lạm phát và trong mỗi cách lại có nhiều cách phân chia khác nhau tùy

vào mục đích nghiên cứu. Sau đây là một số cách phân loại cơ bản:
- Căn cứ vào mức độ (tỷ lệ) lạm phát chia thành 3 cấp độ cơ bản:
Lạm phát vừa phải (Normal inflation): loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm 
ở mức độ một con số hàng năm (< 10%/năm). Trong điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng chậm,
thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương hoặc cao hơn chút ít. Do vậy giá trị tiền tệ tương đối ổn định,
tạo thuận lợi cho môi trường kinh tế xã hội. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất
xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Lạm phát phi mã (High inflation): loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng 
ở mức độ hai con số hàng năm (từ 10% - 100% một năm) còn được gọi là lạm phát phi mã. Cũng có một
số nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số
( như 100%, 200% ).
Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Siêu lạm phát: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm. 
Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi nền kinh tế rơi vào tình trạng
siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác hại
rất lớn đến kinh tế - xã hội. Lịch sử lạm phát của thế giới đã ghi nhận tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở
Đức sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ lệ lạm phát lên đến trên 10 chữ số (năm 1924 là
10.000.000.000); Việt Nam năm 1986 (774,76%/năm); ở Nga sau Cách mạng tháng 10, ở Trung Quốc và
Hungary sau thế chiến thứ hai, ở Mỹ vào thời kỳ nội chiến,…
Ngoài ra cũng theo cách phân loại trên còn có một số tác giả chia lạm phát thành 6 cấp độ: lạm phát
ỳ (dưới 3%/năm), lạm phát nhẹ (dưới 8%/năm); lạm phát vừa phải (8 – 12%/năm); lạm phát cao (hai con
số và < 50%/năm); lạm phát phi mã (2 con số và > 50%/năm) và siêu lạm phát (từ ba chữ số trở lên/năm).
1.3. Hậu quả của lạm phát
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo mức độ của nó. Nhìn
chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể, còn lạm
phát cao thường gây những tác hại đến nền kinh tế và đời sống, không có điều gì lá tốt gắn với siêu lạm
phát. Mặt khác, tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không,
nghĩa là nhân dân vá các thể chế có tiên tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là
một điều bất ngờ. Nếu tất cả các đợt lạm phát đều hoàn toàn dự đoán trước được thì lạm phát không
gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát

không dự đoán trước được sẽ đãn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu
nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.
1.3.1. Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những sự khác nhau trong các loài tài sản
và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản nói chung đều tăng lên, còn
giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những làm công ăn lương, những người gửi tiền, những
người cho vay là bị thiệt hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra các thức giải quyết đơn giản là lãi suât cần được điều
chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực là 3%, tỷ lệ tăng giá là 9%, thì lãi suất danh
nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh lãi suất cho phù hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được
trong điều kiện lạm phát ở mức độ thấp.
1.3.2. Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phát thúc đẩy sự phát triển
kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị
sản xuất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm
xuống và ngược lại khi lạm phát giảm xuống thì thất nghiệp tăng lên. Nhà kinh tế học A.W.Philips đã đưa
ra “Lý thuyết trao đổi về lạm phát”, theo đó một nước có thẻ mua một mức độ thất nghiệp thấp hơn nếu
sẵn sang trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
1.3.3. Các tác động khác
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán trước được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị
mất cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những ngành sản xuất có chu kỳ
ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu
hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh
thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm
cho lưu thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra
làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tề tạo điều kiện tăng cường tính cạnh
tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm
phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền gửi trong xã
hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán. Lạm phát phát triển

nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm trong giá cả bị phá hủy, các
tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho cấc hoạt động đầu tư.
Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trji thực của những khoản công
phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho nguồn thu ngân
sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số
thuế nhà nước cao hơn, và như vậy người ta nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy
chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Trong thời kì lạm phát giá cả
hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng
theo xu hướng tăng len, vì vậy thu nhập thực tế cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của
người lao động nói chung có thể giữ vững, hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy
giảm.
Như vậy, lạm phát đã ảnh hưởng đén mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và nhà nươc phải áp
dụng những biện pháp tích hợp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát.
1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.4.1. Lạm phát do tổng cầu tăng mạnh (lạm phát cầu kéo) và giải pháp khắc phục
Khi tổng cầu tăng mạnh có thể làm cho sản lượng thực tế vượt quá mức sản lượng tiềm năng của
một nước, làm cho giá cả tăng lên để cân bằng tổng cung và tổng cầu (xem hình 1.1.)
Biểu đồ 1.1. Lạm phát do tổng cầu tăng mạnh
Y p : Sản lượng tiềm năng của nền kinh tế
AD1 , AD2 là đường tổng cầu ở những mức khác nhau của nền kinh tế. Khi sản lượng thực tế nền
kinh tế (Y1 ) vượt quá mức sản lượng tiềm năng (Yp ), nếu tổng cầu tiếp tục tăng mạnh (từ AD 1
→ AD2 ), sản lượng thực tế Y1 tăng không nhiều (tới Y2 ) nhưng giá cả tăng nhanh từ P 1 → P 2. Nền
kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cầu kéo.
Tổng cầu AD = C + I + G + X - IM tăng có thể do các yếu tố sau :
(i). Tiêu dùng của hộ gia đình tăng
* Tiêu dùng của hộ gia đình quyết định tiêu dùng quốc gia và ảnh hưởng tới tổng cầu của nền kinh
tế.
Tiêu dùng của hộ gia đình do thu nhập khả dụng hiện tại tăng.
Thu nhập khả dụng hiện tại tăng có thể do chính sách giảm thuế của Chính phủ, chính sách tăng các
khoản chi chuyển nhượng của Chính phủ tới các hộ gia đình và các khoản thu nhập khác mà các hộ gia

đình nhận được và có thể chi tiêu cho tiêu dùng.
Lý thuyết Keynes cho rằng, tiêu dùng của hộ gia đình tăng là do thu nhập khả dụng hiện tại của
họ tăng. Phân tích sâu hơn thu nhập khả dụng hiện tại, Millon Friedman cho rằng thu nhập
(khả dụng hiện tại) là tổng của thu nhập
thường xuyên Yp và thu nhập tạm thời Y t .
* Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét có ý nghĩa đối với chính sách
của Chính phủ khi tác động làm thay đổi tiêu dùng của các hộ gia đình.
Một là, để giảm mức tiêu dùng của hộ gia đình, chính sách của Chính phủ có thể làm giảm thu nhập
khả dụng hiện tại của họ. Các chính sách đó có thể là tăng thuế thu nhập cá nhân, cắt giảm các
khoản chi chuyển nhượng, giảm mức lương tối thiểu
Hai là, chính sách cắt giảm tiêu dùng của các hộ gia đình cần chú ý tới tập quán, thói quen tiêu dùng
của người dân. Đối với những nước mà ở đó, người dân có thói quen chi tiêu tiết kiệm, như Nhật Bản
chẳng hạn (MPC nhỏ), chính sách cắt giảm tiêu dùng bằng cách cắt giảm thu nhập khả dụng hiện tại sẽ
không khó khăn bằng chính sách của những nước có thói quen tiêu dùng cao, ví dụ như Mỹ (MPC lớn).
Ba là, nếu người tiêu dùng tuân theo lý thuyết thu nhập thường xuyên và kỳ vọng hợp lý thì chỉ
những thay đổi chính sách bất ngờ mới tác động tới tiêu dùng (làm tăng hoặc giảm tiêu dùng).
Do người tiêu dùng sẽ tiêu dùng ít hơn (tiết kiệm nhiều hơn) đối với những thu nhập tạm thời và
tiêu dùng nhiều hơn đối với thu nhập thường xuyên. Do đó, các chính sách tăng thuế giảm lương tối
thiểu sẽ có tác động tức thời làm cho người tiêu dùng điều chỉnh kỳ vọng của họ và giảm mức tiêu
dùng. Nhưng sau một thời gian áp dụng chính sách này, mức tiêu dùng của hộ gia đình sẽ không có gì
thay đổi do không có thông tin mới nào làm thay đổi kỳ vọng của họ. Mức thu nhập thấp hơn của họ lúc
này trở thành mức thu nhập thường xuyên.
Bốn là, các chính sách tạm thời làm giảm thu nhập của người dân sẽ không có tác động giảm tiêu
dùng của họ mà chỉ có chính sách làm giảm thu nhập thường xuyên của họ mới làm giảm tiêu dùng của
người dân.
Chẳng hạn, nếu Chính phủ công bố tăng thuế và áp dụng lâu dài mức thuế này, dân chúng sẽ giảm
tiêu dùng mạnh hơn so với trường hợp Chính phủ thông báo biện pháp tăng thuế thu nhập (chỉ là biện
pháp tạm thời).
Như vậy, có thể thấy rằng, mức tiêu dùng của hộ gia đình chịu tác động chi phối của nhiều yếu tố. Chính
sách của Chính phủ làm giảm tiêu dùng của hộ gia đình không hề đơn giản vì phải chú ý tới nhiều yếu tố,

trong đó có nhiều yếu tố Chính phủ khó có thể kiểm soát được.
(ii). Đầu tư tư nhân tăng
Đầu tư ở đây là đầu tư phát triển. Nó bao gồm đầu tư cố định vào sản xuất kinh doanh, đầu tư vào
nhà ở và đầu tư vào hàng tồn kho. Đầu tư tư nhân tăng là do một trong ba loại đầu tư này tăng hay hai
hoặc cả ba loại đầu tư này tăng.
Như vậy, để thay đổi đầu tư tư nhân, Chính phủ có thể tác động tới 3 loại đầu tư trong đầu tư tư nhân
này. Chính sách của Chính phủ cần chú ý tới những điểm sau đây: Một là, chính sách Chính phủ có thể
thay đổi đầu tư cố định vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách tác động tới chi phí đầu tư,
sản phẩm cận biên của vốn MPK. Hai là, để điều chỉnh đầu tư vào nhà ở, chính sách của Chính phủ có
thể tác động vào giá nhà ở tương đối ( PH/P , đó là tỷ số giữa giá nhà PH và mức giá chung). Chính sách
làm tăng giá nhà tương đối sẽ làm tăng đầu tư vào nhà ở mới và ngược lại. Ba là, chính sách của chính
phủ có thể làm thay đổi đầu tư hàng tồn kho bằng cách tác động vào lãi suất thực mà các doanh
nghiệp phải gánh chịu khi dự trữ hàng tồn kho. Bốn là, đầu cơ đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc vào
kỳ vọng vào sự tăng trưởng, mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. Chính phủ điều chỉnh đầu tư tư nhân
không chỉ thông qua những quyết định tạo môi trường đầu tư mà còn có thể tác động gián tiếp thông qua
điều tiết sản lượng nền kinh tế bằng các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Những nhận xét trên đây cho thấy chính sách của Chính phủ điều chỉnh đầu tư tư nhân là vấn đề
không hề đơn giản. Bởi lẽ, đầu cơ đầu tư của doanh nghiệp chịu tác động đồng thời của nhiều yếu tố. Do
đó, phản ứng của doanh nghiệp rất có thể không diễn ra theo những dự kiến của Chính phủ về những
quyết định chính sách mà Chính phủ đưa ra.
(iii). Xuất khẩu ròng thay đổi
Xuất khẩu ròng thay đổi (tăng hoặc giảm) do những yếu tố nào?
Nhập khẩu của một nước tăng/giảm do sản lượng, thu nhập của nước đó tăng/giảm. Khi thu
nhập tăng lên, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư trong nước tăng và làm cho nhập khẩu tăng.
Thêm vào đó, giá tương đối giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu cũng làm thay đổi khối lượng và
kim ngạch nhập khẩu của một nước. Khi giá hàng trong nước tăng cao tương đối so với hàng nhập
khẩu, người dân và doanh nghiệp sẽ chọn mua hàng nhập khẩu nhiều hơn và do đó nhập khẩu sẽ tăng.
Cuối cùng, tỷ giá nội tệ giảm sẽ làm cho giá hàng nhập khẩu đắt tương đối so với hàng trong nước và
giá hàng xuất khẩu rẻ hơn so với hàng nước ngoài trên thị trường thế giới, hàng xuất khẩu nước đó có
khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Trong trường hợp đó, nhập khẩu giảm, xuất khẩu ròng

tăng.
Cũng như nhập khẩu, xuất khẩu thay đổi (tăng hoặc giảm) còn phụ thuộc vào giá tương đối của
hàng xuất khẩu của nước đó và giá hàng hoá cạnh tranh của chúng trên thị trường quốc tế. Nếu giá hàng
xuất khẩu của nước đó rẻ tương đối so với hàng hoá xuất khẩu của nước khác, người nước ngoài sẽ nhập
khẩu hàng nước đó nhiều hơn và do đó, nước đó sẽ xuất khẩu được nhiều hơn. Mặt khác, xuất khẩu của
một nước còn phụ thuộc vào thu nhập và sản lượng của các nước bạn hàng. Khi kinh tế các nước bạn
hàng tăng trưởng cao, sản lượng và thu nhập tăng, nhu cầu nhập khẩu của họ tăng và do đó xuất khẩu của
những nước này có thể gia tăng.
Như vậy, nhập khẩu của một nước tỷ lệ thuận với thu nhập và sản lượng của nền kinh tế, với giá
tương đối giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu, tỷ lệ nghịch với tỷ giá ngoại tệ.
Trong khi đó, xuất khẩu không phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của nền kinh tế mà tỷ lệ
thuận với tỷ giá ngoại tệ, thu nhập và sả lượng của nước bạn hàng và với giá tương đối giữa hàng hoá
xuất khẩu của nước đó và giá hàng hoá mà nó phải cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Từ đây, chúng ta có thể thấy xuất khẩu ròng chịu tác động tổng hợp của các yếu tố tác động tới cả
xuất khẩu và nhập khẩu. Xuất khẩu ròng dương và tăng, tức là xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu, làm cho
tổng cầu tăng nhanh. Do vậy, xuất khẩu ròng tăng sẽ góp phần làm cho lạm phát gia tăng. Tuy nhiên, trên
thực tế, người ta thấy rằng, trong nhiều trường hợp xuất khẩu ròng dương nhưng nền kinh tế vẫn rơi vào
tình trạng suy thoái. Nhiều trường hợp xuất khẩu ròng âm, nền kinh tế vẫn có lạm phát cao. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, trong đó có nguyên nhân cơ cấu hàng nhập khẩu (cơ cấu hàng tiêu
dùng và hàng trung gian nguyên liệu nhập khẩu) vấn đề này sẽ được phân tích sâu hơn trong phần sau.
Những phân tích trên đây giúp chúng ta có một số nhận xét về chính sách của Chính phủ có thể tác động
tới xuất nhập khẩu và xuất khẩu ròng như thế nào.
Một là , về lý thuyết, do xuất nhập khẩu và xuất khẩu ròng phụ thuộc vào tỷ giá, do đó chính sách
của Chính phủ có thể làm giảm xuất khẩu ròng thông qua tỷ giá. Tuy nhiên, chính sách tác động tới xuất
nhập khẩu, xuất khẩu ròng trong các chế độ tỷ giá khác nhau sẽ khác nhau.
Trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, để giảm xuất khẩu ròng, Chính phủ có thể sử dụng chính sách
mở rộng tài khoá để làm tăng tỷ giá nội tệ. Trong trường hợp này sản lượng nền kinh tế sẽ không thay
đổi. Chính phủ cũng có thể giảm xuất khẩu ròng bằng cách thắt chặt tiền tệ làm tăng tỷ giá.
Trong trường hợp này, sản lượng nền kinh tế giảm.
Trong chế độ tỷ giá thả nổi, chính sách thương mại (khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất

khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu) không làm thay đổi xuất khẩu ròng và sản lượng
nền kinh tế vì nó chỉ làm thay đổi tỷ giá (giảm hoặc tăng tỷ giá nội địa)
Trong chế độ tỷ giá cố định, tỷ giá sẽ được duy trì không đổi. Do đó chính sách tiền tệ và chính sách
tài khoá của Chính phủ không tác động làm giảm (hoặc tăng) xuất khẩu ròng được. Tuy nhiên, Chính phủ
có thể sử dụng chính sách nâng giá nội tệ, bãi bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu để làm giảm xuất
khẩu ròng. Chính sách nâng giá nội tệ còn làm giảm được mức nợ Chính phủ tính bằng nội tệ.
Hai là, chính sách giảm xuất khẩu ròng có thể chống lạm phát trong ngắn hạn song những chính
sách này có thể làm cho đất nước sẽ bị mất các bạn hàng truyền thống để xuất khẩu trong dài hạn, ảnh
hưởng đến tăng trưởng, việc làm của nền kinh tế trong dài hạn.
Ba là, trong trường hợp kinh tế các nước tăng trưởng mạnh, nhu cầu xuất khẩu tăng cao, theo đó giá
hàng hoá xuất khẩu trên thị trường thế giới tăng, chính sách hạn chế xuất khẩu để giảm xuất khẩu ròng và
giảm tổng cầu, chống lạm phát sẽ khiến cho nước đó bị bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu với giá trị cao, gây thiệt
hại cho lợi ích quốc gia. Trong trường hợp này, chính sách khuyến khích nhập khẩu để hạn chế tổng cầu
tăng thì chính nước đó đã nhập khẩu lạm phát, do giá hàng hoá nhập khẩu cao làm cho giá hàng hoá tiêu
dùng và giá hàng hoá trung gian nhập khẩu tăng, sẽ làm cho lạm phát gia tăng (lạm phát giá cả và lạm
phát chi phí đẩy - điều này sẽ được bàn thêm trong phần sau).
Bốn là, trong trường hợp lạm phát tăng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, theo đó nhu cầu nhập khẩu
tăng cao. Điều đó làm cho tổng cầu giảm và lạm phát được tự động điều chỉnh. Đây là một công cụ tự ổn
định để hạn chế lạm phát.
Năm là , chính sách của Chính phủ giảm xuất khẩu ròng cần phải chú ý tới tương quan tỷ lệ lạm
phát giữa trong nước và nước ngoài để nâng cao hiệu quả tác động của chính sách. Khi tỷ lệ lạm
phát ở trong nước cao hơn nước ngoài, giá tương đối giữa hàng hoá trong nước sẽ cao do đó xuất
khẩu sẽ giảm, nhập khẩu sẽ tăng, xuất khẩu ròng sẽ giảm. Trong trường hợp ngược lại, xuất khẩu ròng sẽ
tăng. Do đó, chính sách giảm xuất khẩu ròng chỉ nên thực hiện trong trường hợp tỷ lệ lạm phát trong
nước thấp hơn ở nước ngoài.
Sáu là, những phân tích trong 5 điểm trên đây cho thấy xuất khẩu ròng chịu tác động của nhiều
biến số ngoại sinh. Do vậy chính sách của Chính phủ trong việc giảm xuất khẩu ròng rất khó đạt
được mục tiêu mà Chính phủ mong đợi. Hơn nữa, việc giảm xuất khẩu ròng đưa lại những hệ quả không
có lợi cho nền kinh tế trong dài hạn. Do đó, trên thực tế, Chính phủ các nước ít sử dụng biện pháp hạn
chế nhập khẩu để chống lạm phát. Tuy nhiên, đối với một số mặt hàng thiết yếu nằm trong giới hạn tính

lạm phát của quốc gia, chính sách Chính phủ có thể hạn chế xuất khẩu để hạn chế việc tăng giá những
mặt hàng này ở trong nước và hạn chế lạm phát.
(iv). Chi tiêu Chính phủ tăng
Khi sản lượng nền kinh tế đã vượt quá mức sản lượng tiềm năng, Chính phủ tăng chi tiêu quá mạnh
sẽ làm cho tổng cầu tăng nhanh, gây nên lạm phát.
Chi tiêu của Chính phủ bao gồm chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên và chi chuyển nhượng.
Tăng chi cho đầu tư phát triển là chi cho xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (đường sá, cầu cống,
trường học, bệnh viện, cảng khẩu, nhà ga, sân bay ). Chi thường xuyên bao gồm chi cho việc duy trì
hoạt động của bộ máy công quyền bao gồm mua sắm hàng hoá dịch vụ, thiết bị quân sự , lương công
chức, chi duy tu, bảo dưỡng các công trình đầu tư của Nhà nước Chi chuyển nhượng bao gồm các
khoản chi bảo hiểm xã hội, chi hỗ trợ người nghèo, chi khắc phục hỗ trợ thiên tai, dịch bệnh
Chi đầu tư phát triển không chỉ làm tăng tổng cầu trong ngắn hạn mà còn làm tăng năng lực sản xuất
của nền kinh tế, tăng tổng cung trong dài hạn.
Chi thường xuyên làm tăng tổng cầu trong ngắn hạn và góp phần bảo đảm nâng cao hiệu quả của các
công trình đầu tư công.
Chi chuyển nhượng làm tăng tổng cầu một cách gián tiếp thông qua việc tăng thu nhập khả dụng
của hộ gia đình, theo đó làm tăng chi tiêu cho tiêu dùng.
Chi tiêu của Chính phủ tăng làm tăng tổng cầu và gây ra lạm phát. Mặt khác, sự mất cân
đối trong cơ cấu thu chi của Chính phủ cũng gây ra lạm phát (phần này sẽ được phân tích kỹ hơn trong
phần sau).
Như vậy, có thể thấy rằng, để giảm tổng cầu, Chính phủ cần cắt giảm chi tiêu của mình. Khi đó, có
một số điểm cần chú ý:
Thứ nhất, việc cắt giảm chi tiêu đầu tư phát triển có thể làm giảm tổng cầu và kiềm chế được lạm
phát trong ngắn hạn. Tuy nhiên, biện pháp này có thể làm giảm tổng cung trong dài hạn và làm cho việc
kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế trong dài hạn khó khăn hơn.
Thứ hai, đổi mới cơ cấu chi tiêu của Chính phủ cũng có thể góp phần hạn chế lạm phát.
Thứ ba, cắt giảm chi thường xuyên, chi chuyển nhượng sẽ làm giảm tổng cầu và hạn chế lạm phát
trong ngắn hạn. Tuy nhiên, biện pháp này có thể sẽ làm giảm phúc lợi xã hội do vấn đề an sinh xã hội bị
thu hẹp. Theo đó, hạn chế sự ổn định xã hội trong dài hạn.
Đến đây chúng ta có một số nhận xét về giải pháp giảm tổng cầu để chống lạm phát của chính phủ.

Một là , việc cắt giảm tổng cầu bằng cách giảm xuất khẩu ròng dường như là biện pháp mang lại lợi
ích ít hơn những biện pháp cắt giảm các yấu tố khác của tổng cầu.
Hai là, tiêu dùng, đầu tư tư nhân, xuất khẩu ròng chịu nhiều tác động của rất nhiều các biến số ngoại
sinh. Do đó, giảm các yếu tố cấu thành này của tổng cầu để chống lạm phát là rất khó. Chính sách của
Chính phủ sẽ rất khó đạt được mục tiêu như Chính phủ đặt ra.
Chẳng hạn, Chính phủ muốn các doanh nghiệp giảm đầu tư hàng tồn kho và đầu tư nhà ở, trong khi
không muốn họ giảm đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ. Song, quyết định của các doanh nghiệp,
đôi khi lại không như mong muốn của Chính phủ.
1.4.2. Nguyên nhân do tổng cung ngắn hạn giảm (lạm phát chi phí đẩy) và giải pháp khắc
phục
Khi có những cú sốc bất lợi đối với tổng cung ngắn hạn, nó sẽ giảm xuống và làm cho đường tổng
cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái. Điều đó làm cho giá cả tăng lên và sản lượng nền kinh tế giảm
xuống, (xem biểu đồ 1.2). Nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát đình trệ, vừa có lạm phát vừa suy thoái.
Lạm phát này còn gọi là lạm phát do chi phí đẩy.
Những cú sốc bất lợi đối với tổng cung ngắn hạn có thể là sự tăng đột biến của giá các yếu tố đầu
vào. Chẳng hạn, giá dầu mỏ tăng mạnh, giá than, điện tăng. Giả sử mức tiền công không đổi, giá các yếu
tố đầu vào này tăng, các hãng phải định mức giá sản phẩm cao hơn để trang trải cho những chi phí
nguyên liệu, năng lượng đã tăng lên này. Cung ngắn hạn giảm, giá tăng lên nhưng sản lượng và mức
việc làm giảm xuống. Giá cao hơn làm giảm mức cung tiền thực tế và tổng cầu
Biểu đồ 1.4. Lạm phát do cú sốc bất lợi đối với tổng cung ngắn hạn
AD, SAS1 , P1 , Y1 , lần lượt tương ứng là đường tổng cầu, đường tổng cung ngắn hạn, giá cả và số
lượng ban đầu của nền kinh tế. (Giả sử sản lượng nền kinh tế lúc đầu đạt mức sản lượng tiềm năng Y
p ). Khi có cú sốc bất lợi đối với tổng cung ngắn hạn, đường SAS1 dịch chuyển sang trái (đến SAS2 ).
Giá tăng lên, từ P1 đến P2 . Số lượng giảm từ Y1 xuống Y 2 .
Sự tăng lương không hợp lý cũng dẫn tới bất lợi đối với cung ngắn hạn tương tự như
trường hợp giá nguyên liệu đầu vào, giá nhiên liệu, năng lượng tăng đột biến.
Bên cạnh đó, thiên tai, dịch bệnh bất ngờ xảy ra trên diện rộng cũng có thể làm sụt giảm cung ngắn
hạn. Chẳng hạn, lũ lụt, mưa bão làm cho mùa màng thất bát, sản lượng lương thực, thực phẩm suy
giảm Tất cả những điều đó làm cho tổng cung ngắn hạn giảm, đẩy giá cả tăng cao.
Giải pháp khắc phục lạm phát trong trường hợp này rất khó khăn và thường gây tranh cãi. Ở đây có

hai quan điểm về giải pháp khắc phục lạm phát.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, chính phủ không nên can thiệp mà để cho thị trường tự điều chỉnh.
Khi có lạm phát đình trệ xảy ra, nền kinh tế có thất nghiệp tự nguyện, điều đó làm giảm tiền lương hoặc
làm chậm việc tăng lương. Mức cung tiền thực tế tăng dần trở lại và làm cho lãi suất giảm và tổng
cầu tăng lên. Sản lượng tăng và cuối cùng nền kinh tế trở về mức thất nghiệp tự nhiên với mức lạm phát
cũ (do mức cung tiền danh nghĩa không đổi).
Mặt khác, theo quan điểm này cùng thực tế ở một số nước cho thấy, trong thời kỳ lạm phát như vậy,
tiền lương thực tế bị giảm sút. Điều đó khiến đời sống người lao động khó khăn. Họ thường đưa ra
yêu sách đòi tăng lương. Trong trường hợp này, Chính phủ cần thuyết phục người lao động và làm
cho họ có niềm tin vào chính sách. Chính phủ cần phải làm cho họ thấy rằng việc tăng lương trong thời
kỳ lạm phát có thể tạm thời làm cho tiền lương thực tế cao hơn song nó lại làm cho mức cung tiền thực
tế giảm xuống, lãi suất sẽ tăng và tổng cầu càng giảm. Khi đó thất nghiệp càng gia tăng, kinh tế càng suy
thoái. Khi đã tạo được niềm tin vào chính sách trong dân chúng điều đó cũng có nghĩa là Chính phủ loại
bỏ được một yếu tố gây ra áp lực lạm phát chi phí đẩy, Chính phủ sẽ có điều kiện hơn để thực thi các
chính sách của mình, bảo đảm việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp được duy trì trong dài hạn.
Tuy nhiên, chính sách chống lạm phát trên đây lại khiến cho nền kinh tế phải trải qua một thời
kỳ suy thoái, thất nghiệp cao.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Chính phủ cần phải can thiệp để tăng cung ngắn hạn, để tăng
sản lượng và giảm lạm phát. Theo quan điểm này, chính sách của Chính phủ có thể tác động làm
giảm chi phí đầu vào sản xuất. Chẳng hạn, Chính phủ có thể giảm thuế nhập khẩu các hàng trung
gian, trợ giá xăng dầu, Biện pháp này sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm được chi phí nguyên liệu,
nhiên liệu cho sản xuất. Theo đó cung tăng, sản lượng tăng và giá giảm. Lạm phát sẽ được khống chế.
Tuy nhiên, giá hàng hoá có thể giảm song điều đó lại kích thích hộ gia đình tăng chi tiêu cho tiêu
dùng. Doanh nghiệp có thể tăng đầu tư hàng tồn kho. Phản ứng này của doanh nghiệp và hộ gia đình đều
làm cho tổng cầu tăng và làm gia tăng lạm phát.
Mặt khác, doanh nghiệp có thể quyết định không như dự tính của Chính phủ. Họ có thể
không giảm giá mặc dù họ được giảm thuế các nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào nhập khẩu hoặc được hỗ
trợ giá xăng dầu. Bởi lẽ, trong thời kỳ lạm phát, tiền công thực tế giảm khiến cho đời sống người lao
động giảm. Áp lực đòi tăng lương khiến doanh nghiệp phải tăng lương cho người lao động. Do vậy chi
phí sản xuất không tăng và giá không giảm.

Hơn nữa, việc Chính phủ bù giá xăng cũng có nghĩa là Chính phủ phải tăng chi tiêu ngân sách. Điều
đó làm tổng cầu tăng và lạm phát tăng cao hơn.
Như vậy, chính sách này có thể có tác động làm cho sản lượng nền kinh tế đạt tới mức sản lượng
tiềm năng nhanh hơn. Nền kinh tế không phải trải qua thời kỳ suy thoái lâu với mức thất nghiệp không
tự nguyện cao, đồng thời, lạm phát cũng ở mức cao hơn. Chính sách này cũng có thể không gây ra hiệu
ứng giảm lạm phát.
1.4.3. Lạm phát do yếu tố tiền tệ và giải pháp khắc phục
Để xác định nguyên nhân lạm phát do yếu tố tiền tệ, chúng ta hãy bắt đầu từ phương trình số lượng
tiền tệ.
M x V = P x Y (1)
Trong đó, M là khối lượng tiền tệ (mức cung tiền); V là tốc độ lưu thông tiền tệ (hay tốc độ quay
vòng tiền tệ); P là mức giá chung, Y là sản lượng của nền kinh tế (GDP thực tế của nền kinh tế, được
quyết định bởi các yếu tố sản xuất và hàm sản xuất công nghệ, tạm coi là cho trước).
Từ (1) ta có: P=MV/Y
Ở đây, Y tạm coi là cho trước và là xác định.
Trong dài hạn, V được coi là không đổi. Vì các nhân tố sản xuất và hàm sản xuất quyết định mức GDP
thực tế nên mọi sự thay đổi của GDP danh nghĩa (P.Y) phải thể hiện ở sự thay đổi của mức giá. Do vậy,
phương trình (2) cho chúng ta biết khi cung tiền tăng sẽ làm giá cả tăng. Hay giá cả tỷ lệ thuận với mức
cung tiền. Nói cách khác, khi mức cung tiền tăng, lạm phát sẽ gia tăng.
Trong ngắn hạn, V thay đổi. Giả sử M không đổi, Y vẫn được coi là xác định thì khi V tăng, giá sẽ
tăng. Hay tốc độ quay tiền tệ tăng là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Trong ngắn hạn, cung tiền tăng
cùng với sự gia tăng tốc độ quay tiền tệ càng làm cho lạm phát tăng mạnh hơn.
Vấn đề đặt ra là, mức cung tiền M và tốc độ quay tiền tệ tăng trong trường hợp nào?
Cung tiền tăng khi ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Chính phủ tài trợ
cho thâm hụt ngân sách dai dẳng bằng cách in tiền sẽ làm cung tiền tăng liên tục. Việc duy trì tỷ giá cố
định cũng có thể làm tăng cung tiền.
Đó là khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng nội tệ lên giá, ngân hàng Trung ương bơm nội tệ để mua ngoại tệ
nhằm nâng giá ngoại tệ và duy trì tỷ giá ở mức cố định cũng làm mức tiền cho nền kinh tế tăng.
Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống ngân hàng thương mại làm cho khả năng tạo tiền của chúng
tăng lên và làm cung tiền tăng.

Tốc độ quay vòng tiền tệ tăng có thể do các lý do sau đây. Cách thức tổ chức của nền kinh tế ảnh
hưởng tới cách dân chúng thực hiện các giao dịch làm cho tốc độ quay vòng tiền tệ thay đổi. Chẳng hạn,
nếu trong nền kinh tế sử dụng sổ ghi nợ và thẻ tín dụng để giao dịch, thì tiền sử dụng cho giao dịch do
thu nhập danh nghĩa mang lại, sẽ ít đi (tức là M giảm so với PY) và tốc độ quay tiền tăng lên. Mặt khác,
nếu dùng tiền mặt và séc để thanh toán thì lượng tiền cần cho các giao dịch mà thu nhập quốc dân hiện
có mang lại sẽ nhiều hơn, theo đó, tốc độ quay vòng tiền tệ giảm xuống. Trong trường hợp ngược lại, tốc
độ quay vòng tiền tệ tăng lên.
Khi nền kinh tế sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch thì lượng nội tệ cần cho giao dịch do thu nhập
danh nghĩa mang lại ít đi và do đó tốc độ quay vòng tiền tệ tăng.
Ngoài ra, sự phát triển quá nhanh của hệ thống ngân hàng thương mại cùng với việc ứng dụng
rộng rãi các công nghệ tiên tiến trong hệ thống ngân hàng thương mại sẽ rút ngắn thời gian
giao dịch. Điều đó cũng làm cho tốc độ quay vòng tiền tệ tăng.
Giải pháp khắc phục lạm phát do nguyên nhân tiền tệ, nhìn chung, được các nhà kinh tế, các nhà
hoạch định chính sách thống nhất. Đó là ngân hàng Trung ương phải giảm bớt mức cung tiền và
giảm tốc độ quay vòng tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý
hoạt động của hệ thống tài chính, trong đó có hệ thống các ngân hàng thương mại.
Ở đây có điểm cần nói thêm. Theo quan điểm của các nhà kinh tế theo trường phái tiền tệ, mà đại
diện tiêu biểu là Milton Friedman, lạm phát luôn luôn có nguyên nhân từ yếu tố tiền tệ. Friedman khẳng
định: "Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ". Theo quan điểm của phái tiền tệ, mức
cung cấp tiền tăng liên tục và kéo dài sẽ gây ra lạm phát. Đây là lý do duy nhất gây ra lạm phát. Điều này
có mâu thuẫn với quan điểm lạm phát do tổng cầu tăng mạnh hay lạm phát do giá các yếu tố đầu vào
tăng?
Các nhà kinh tế tiền tệ đã chúng minh rằng không có nguyên nhân nào khác ngoài việc tăng cung
tiền liên tục, đã gây ra lạm phát.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế tiền tệ, tổng cầu tăng mạnh và những cú sốc bất lợi từ phía cung
cũng không gây ra lạm phát nếu mức cung tiền không tăng.
Keynes cho rằng chi tiêu của Chính phủ làm tăng tổng cầu và gây ra lạm phát. Tuy nhiên phái tiền
tệ lại cho rằng, việc tăng chi tiêu từng đợt của Chính phủ chỉ làm tăng giá từng đợt chứ không làm tăng
giá cả liên tục, kéo dài và do đó không gây ra lạm phát. Nếu Chính phủ tăng chi tiêu liên tục, kéo dài
thì sẽ làm tăng giá cả kéo dài và khi đó lạm phát mới xảy ra. Tuy nhiên, việc Chính phủ tăng chi tiêu liên

tục, kéo dài là điều không thể xảy ra. Bởi lẽ, Chính phủ không thể chi tiêu 100% GNP. Hơn nữa, trong
thực tế, giới hạn tăng chi tiêu của Chính phủ bị hạn chế bởi các quá trình chính trị, sức ép của công
chúng, của Quốc hội Trường hợp Chính phủ cắt giảm thuế cũng có thể gây tác động tới mức giá tương
tự như chi tiêu của Chính phủ. Song quá trình này cũng không thể diễn ra liên tục và kéo dài. Bởi lẽ việc
cắt giảm thuế sẽ phải dừng lại khi mức thuế = 0. Lập luận tương tự với chi tiêu của hộ gia đình và các
doanh nghiệp, chúng ta cũng có thể thấy sự lạc quan có thể thúc đẩy chi tiêu của họ, làm cho đường tổng
cầu và giá tăng tạm thời chứ không làm cho tổng cầu tăng liên tục và kéo dài, gây ra lạm phát được. Bởi
lẽ, chi tiêu của họ không thể vượt qua 100% GNP.
Chính vì vậy, những người theo trường phái tiền tệ cho rằng cách phân tích của Keynes cho thấy
lạm phát cao không thể chỉ do một mình chính sách tài khoá gây ra.
Những người theo trường trái tiền tệ cũng phân tích và chỉ ra rằng "lạm phát chi phí đẩy
cũng là một hiện tượng tiền tệ vì nó không thể xảy ra mà không có chính sách điều hoà được các nhà
chức trách tiền tệ đồng ý một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn".
Như vậy, có thể thấy rằng, theo quan điểm của phái tiền tệ, lạm phát chỉ xảy ra trong dài hạn, khi
tiền lương có thể được điều chỉnh, những biến động giá cả trong ngắn hạn không phải là lạm phát. Bởi lẽ,
họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá liên tục kéo dài. Tỷ lệ lạm phát lớn hơn 1% mỗi tháng trong nhiều
năm thì các nhà kinh tế mới nói rằng lạm phát là cao. Những biến động giá cả trong ngắn hạn được coi
là lạm phát tạm thời. Trong khi đó, cách phân tích của Keynes xem xét lạm phát xảy ra trong ngắn hạn.
Khi sản lượng nền kinh tế trên mức tiềm năng, sự tăng chi tiêu mạnh của Chính phủ, sự lạc quan
trong chi tiêu của hộ gia đình, doanh nghiệp trong thời hạn ngắn (1-2 năm) làm cho tổng cầu tăng
mạnh và mức giá chung tăng nhanh. Tương tự với trường hợp lạm phát xảy ra do cú sốc bất lợi từ phía
cung, nó cũng xảy ra trong ngắn hạn.
Trong dài hạn, sự tăng tổng cầu thường xuyên từng đợt của Chính phủ hay những cú sốc bất lợi của
cung không thể gây ra lạm phát nếu mức cung tiền không tăng lên. Trong trường hợp này, phân tích của
trường phái tiền tệ là hoàn toàn phù hợp.
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá tác động tới lạm phát trong ngắn hạn và trong
dài hạn (đối với chính sách tiền tệ), nên trong đó còn gây ra kỳ vọng về lạm phát trong dân chúng. Kỳ
vọng đó được hình thành như thế nào, chúng ta xem xét tiếp trong mục 1.2.7.
1.4.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát do sự mất cân đối trong quan hệ tổng cung - tổng
cầu trong trung và dài hạn và giải pháp khắc phục.

Ngoài nguyên nhân gây ra lạm phát do tổng cầu tăng nhanh và tổng cung tăng chậm trong ngắn hạn, sự
mất cân đối cung cầu trong trung và dài hạn cũng là một nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát.
Trong trung và dài hạn nếu nền kinh tế không bị rơi vào suy thoái hoặc khủng hoảng thì xu
thế chung là tổng cung và tổng cầu tăng liên tục kéo theo mức giá gia tăng theo thời gian. Nếu sự tăng
lên của hai thành tố trên không quá chênh lệch thì mức độ tăng giá không quá lớn và xu thế chung
là ở mức 3-5%. Tuy nhiên, khi tốc độ tăng của tổng cung quá chậm so với tốc độ tăng của tổng cầu,
gây mất cân đối lớn trong cung - cầu ở trung và dài hạn thì lạm phát sẽ bị đẩy lên ở mức cao. Sự mất cân
đối này chủ yếu là do năng lực sản xuất của nền kinh tế tăng chậm hơn so với mức tăng của đầu tư.
Có thể thể hiện nguyên nhân này theo sơ đồ sau đây:
Biểu đồ 1.5. Quan hệ giữa mức giá với tổng cung và tổng cầu trong dài hạn
- Ở trạng thái ban đầu tổng cầu của nền kinh tế là AD1 và tổng cung là AS1 với mức giá P1 .
- Trong trung và dài hạn tổng cung và tổng cầu tăng lên chuyển dịch đến vị trí AS2 và AD2 với mức
giá P2 .
Do tốc độ tăng của tổng cung chậm hơn đáng kể so với tốc độ tăng của tổng cầu( thể hiện trên biểu
đồ 1.5 là sự dịch sang bên phải của tổng cầu AD lớn hơn đáng kể so với tổng cung AS) nên mức giá P2
tăng lên đáng kể so với mức giá ban đầu P 1 .
- Giả sử năng lực sản xuất của nền kinh tế tăng nhanh, khi đó tổng cung trong trung và dài hạn
tăng cao hơn và đạt ở vị trí AS3 và rõ ràng mức giá P3 của nền kinh tế không quá cao so với mức giá P1
, lạm phát sẽ thấp hơn nhiều so với mức giá P 2 .
Tổng cung (năng lực sản xuất) trong trung hạn và dài hạn tăng chậm chủ yếu là do hiệu quả đầu tư
thấp, do trình độ khoa học công nghệ, chất lượng của nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng kỹ thuật thấp và
chậm được cải thiện. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển sự bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế là một
nguyên nhân quan trọng làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế yếu kém.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận (ngành, lĩnh vực, thành phần, vùng lãnh thổ) của nền kinh tế
với vị trí, tỷ trọng tương ứng và mối quan hệ hợp thành của các bộ phận đó. Ở góc độ bao quát nhất, cơ
cấu kinh tế bao gồm 3 nội dung chủ yếu. Đó là cơ cấu ngành lĩnh vực, cơ cấu thành phần (gắn với sở
hữu) và cơ cấu vùng lãnh thổ (gắn với vị trí địa lý). Ở góc độ từng bộ phận của nền kinh tế, có cơ cấu
nội bộ ngành, lĩnh vực, cơ cấu nội bộ thành phần và cơ cấu nội bộ vùng, lãnh thổ kinh tế. Gắn với từng
nội dung trên là cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động, cơ cấu trình độ công nghệ…
Trước đây, đối với các nước phát triển, các nhà kinh tế thường không đề cập đến các nội dung của

cơ cấu kinh tế khi nghiên cứu những vấn đề của nền kinh tế. Bởi vì, họ cho rằng quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở các nước này khi vận động theo tín hiệu giá cả của thị trường thì tự bản thân nó có khả năng
khai thác có hiệu quả các nguồn để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý và tăng trưởng kinh tế cao mà không
cần đến vai trò can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đang buộc
các nhà kinh tế cần xem xét lại quan điểm trên.
Riêng đối với các nước đang phát triển, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng nền kinh tế thường
không có khả năng tự hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà quá trình hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế thực tế cần có sự điều tiết của Nhà nước. Vì vậy, cơ cấu kinh tế được coi là một nộ i dung rất
quan trọng khi nghiên cứu kinh tế của các nước đang phát triển, trong đó có sự nghiên cứu về ảnh hưởng
của cơ cấu kinh tế đối với lạm phát.
Tuy nhiên, cho đến nay việc phân tích ảnh hưởng của nhân tố cơ cấu kinh tế đối với lạm phát
chưa có một khung lý thuyết rõ ràng vì nó không phải là nguyên nhân trực tiếp, tức thời như
nguyên nhân từ tiền tệ hoặc nguyên nhân do biến động của giá cả các mặt hàng năng lượng trên thị
trường. Nhưng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, theo chúng tôi đây là một nguyên
nhân rất quan trọng gây lạm phát trong trung và dài hạn. Tác động của nó đến lạm phát có thể xem xét
trên các góc độ sau đây:
Một là, cơ cấu kinh tế là biểu hiện của sự phân bố nguồn lực phát triển, do đó nó có khả năng thay
đổi năng lực sản xuất của nền kinh tế. Hay nói cách khác cơ cấu kinh tế tác động đến tổng cung của nền
kinh tế, qua đó làm thay đổi quan hệ tổng cung – tổng cầu, dẫn đến thay đổi mặt bằng giá cả của nền kinh
tế.
Hai là, cơ cấu kinh tế là biểu hiện của tỷ trọng, vị trí và mối quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh
tế. Do đó, khi cơ cấu giữa các ngành, lĩnh vực, giữa các thành phần kinh tế thay đổi sẽ có ảnh hưởng
quan trọng đến giá cả của hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Xét ở góc độ ngành, lĩnh vực cơ cấu
kinh tế bao gồm 3 bộ phận đó là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Nếu quá trình hình thành và dịch
chuyển vị trí, tỷ trọng của ba bộ phận này không hợp lý sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của từng bộ
phận và của nền kinh tế. Đặc biệt, trong từng giai đoạn cụ thể, bộ phận nào trong cơ cấu kinh tế trên đóng
vai trò là động lực thì tác động lan tỏa đối với các bộ phận khác, đến nền kinh tế là rất lớn, trong đó bao
gồm cả mặt bằng giá cả của nền kinh tế. Chẳng hạn, trường hợp nền kinh tế Việt Nam trong
nhiều năm nay công nghiệp có thể coi là lĩnh vực chủ đạo trong cơ cấu ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế. Do cơ cấu công nghiệp tồn tại nhiều bất hợp lý (cơ cấu nội bộ ngành không cân đối, cơ cấu

trình độ công nghệ lạc hậu…) đã không chỉ làm tăng chi phí của sản xuất công nghiệp mà còn làm
tăng chi phí đầu vào, đầu ra của sản xuất nông nghiệp và dịch vụ.
Nguyên nhân của những bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển chủ yếu là do
chính sách của chính phủ không có định hướng đúng và không sử dụng các biện pháp hỗ trợ kịp thời cho
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nhiều trường hợp, chính sách can thiệp của Chính phủ còn
làm cản trở quá trình chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả. Vì vậy, các giải pháp
khắc phục lạm phát gây ra do nhân tố cơ cấu kinh tế chủ yếu là sự điều chỉnh trong chính sách của Chính
phủ.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, để làm rõ nguyên nhân gây ra lạm phát do cơ cấu kinh tế chúng tôi sẽ
phân tích ảnh hưởng của cơ cấu ngành, lĩnh vực và tập trung vào trọng tâm cơ cấu nội bộ ngành công
nghiệp đã tác động đến mặt bằng giá cả của nền kinh tế nước ta trong nhiều năm qua.
1.4.5. Lạm phát do mất đối trong cán cân thu - chi ngân sách và giải pháp khắc phục
Từ lý thuyết tế học vĩ mô và thực tiễn của nhiều nền kinh tế cho thấy tồn tại mối quan hệ chặt chẽ
giữa thu chi ngân sách của nhà nước và lạm phát. Khi cán cân ngân sách của Nhà nước mất cân đối lớn
thì tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế sẽ tăng cao. Tác động của mất cân đối của cán cân ngân sách đối vớ lạm
phát có thể nhìn nhận qua ba khía cạnh sau:
Trước hết, bội chi ngân sách cao thường là do mức chi ngân sách cao. Điều đó sẽ làm tăng tổng
phương tiện thanh toán, tổng đầu tư xã hội, trực tiếp làm tăng tổng cầu của nền kinh tế, gây ra lạm phát
cầu kéo (xem phân tích ở 1.2.2).
Thứ hai, mức chi ngân sách cao thường do hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước thấp, khi đó, như
đã phân tích ở 1.2.4.1. sẽ làm tăng thêm mất cân đối trong quan hệ tổng cung - tổng cầu trong trung và
dài hạn.
Thứ ba, khi thâm hụt ngân sách đồng thời với thâm hụt trong cán cân thương mai lớn sẽ
vừa là nguyên nhân làm mất giá đồng tiền trong nước so với ngoại tệ vừa kích thích lạm phát kỳ vọng
trong dân chúng.
Điều đó xẩy ra do hai lý do: Một là , khi cả hai cán cân trên đều trên đều thâm hụt thì sức ép phá
giá đồng tiền trong nước thường là rất lớn (sẽ được dẫn chứng ở thực tế của một số nước ở nội dung 1.3
khi phân tích kinh nghiệm quốc tế chống lạm phát); hai là, khi ngân sách thâm hụt lớn dân chúng sẽ kỳ
vọng là Nhà nước sẽ in tiền để bù đắp ngân sách vì điều đã xẩy ra trong quá khứ.
Để khắc phục nguyên nhân gây ra lạm phát do mất cân đối trong cán cân ngân sách thông thường

các nước đều phải giảm chi ngân sách, tăng thu ngân sách bằng cách tăng thuế và các khoản thu khác,
cân nhắc điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong trường hợp thâm hụt kép (thâm hụt ngân sách đồng thời với
thâm hụt thương mại). Đối với các nước đang phát triển theo nhiều nghiên cứu thực tiễn cho thấy, để
giảm thâm hụt ngân sách thì vấn đề nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư công nhiều khi còn quan trọng
hơn cả những giải pháp khác. 1.4.6. Lạm phát do mất cân đối trong cán cân thương mại và giải pháp
khắc phục.
Cán cân thương mại của một quốc gia là một bảng kết toán ghi chép về mặt giá trị các giao dịch
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa một nước với phần còn lại của thế giới trong một khoảng
thời gian nhất định và thường là một năm.
NX = X - IM
Trong đó NX – xuất khẩu ròng, X và IM lần lượt là tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và tổng giá trị
kim ngạch nhập khẩu.
NX > 0 cán cân thương mại thặng dư
NX < 0 cán cân thương mại bị thâm hụt
Tác động của thâm hụt cán cân thương mại lên lạm phát được biểu hiện như sau:
Một là, với tư cách là một thành tố của tổng cầu khi NX tăng sẽ gây áp lực lên lạm phát, khi NX
giảm sẽ làm giảm áp lực lạm phá (xem phân tích ở 1.2.1).
Hai là, với tư cách là một cấu thành của cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại có ảnh
hưởng rất quan trọng đến tỷ giá hối đoái. Khi cán cân thương mại bị rơi vào tình trạng thâm hụt sẽ làm
tăng thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế, giảm tỷ giá hối đoái, hay đồng tiền nội tệ sụt giảm giá trị.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, tác động này là rất đáng kể. Có thể thấy tác
động đó trong sơ đồ sau đây:
Biểu đồ 1.6. Quan hệ giữa tỷ giá với cung cầu ngoại tệ
Khi cán cân thanh toán uốc tế rơi vào thâm hụt lớn, để giảm bớt tình trạng mất cân đố cung cầu
trên thị trường ngoại tệ buộc phải phá giá đồng tiền. Đồng tiền trong nước mất giá so với ngoại tệ .
Ba là, khi đồng tiền trong nước mất giá liên tục và ở mức độ lớn, người dân sẽ ồ ạt rút tiền nội tệ để
chuyển sang ngoại tệ mạnh và vàng. Điều đó càng làm cho đồng tiền trong nước mất giá thêm. Đây là
thời cơ để các nhà đầu cơ tiến hành trục lợi, gây hỗn loạn thị trường, vừa làm cho mặt bằng giá cả của
nền kinh tế tăng lên vừa đẩy tỷ giá lên cao hơn.
Để khắc phục nguyên nhân gây ra lạm phát do mất cân đối trong cán cân thương mại thường phải

tập trung điều chỉnh chính sách đối với hoạt động xuất, nhập khẩu và chính sách tỷ giá theo hướng có lợi
cho xuất khẩu. Tuy nhiên, đối với cac nước mà đầu vào của sản xuất phụ thuộc vào nhập khẩu từ thị
trường nước ngoài thì vấn đề đó cần phải cân nhắc cụ thể hơn.
1.4.7. Lạm phát từ những hạn chế trong quản lý giá cả và hệ thống phân phối hàng
hoá và giải pháp khắc phục
Trong các giáo trình kinh tế học vĩ mô, các nhà kinh tế thường ít đề cập đến nguyên nhân gây ra
lạm phát do quản lý giá và hệ thống phân phối. Bởi đây là những vấn đề thuộc kinh tế học vi mô. Ở Việt
Nam, trong một số công trình được đăng tải trên các tạp chí, các tác giả có bàn đến vấn đề này
nhưng chưa nhiều, chưa có hệ thống. Qua quá trình quan sát thực tiễn của nước ta, chúng tôi thấy rất
cần thiết phải nghiên cứu các nhân tố trên như một nguyên nhân cơ bản góp phần quan trọng vào sự gia
tăng mức giá chung của nền kinh tế.
Khi quản lý giá và hệ thống phân phối hợp lý sẽ giúp cho lưu thông hàng hoá từ người sản xuất
đến người tiêu dùng được thông suốt, ổn định được cung cầu cũng như hạn chế được tình trạng các
doanh nghiệp liên kết tăng giá. Qua đó, ổn định được giá cả, góp phần gián tiếp làm giảm lạm phát.
Ngược lại, nếu quản lý giá và hệ thống phân phối không hợp lý, làm tăng chi phí trung gian, qua đó, giá
cả hàng hoá bị đội lên nhiều, thậm chí rất nhiều lần so với chi phí thực, điều này góp phần làm gia tăng
lạm phát . Tác động của quản lý giá và hệ thống phân phối đối với lạm phát được thể hiện ở 3 góc độ cơ
bản sau đây:
Một là, nếu quản lý gíá cả và hệ thống phân phối hàng hoá yếu kém có thể sẽ dẫn đến rối loạn thị
trường gây ra biến động lớn về giá cả.
Khi thị trường hàng hoá, dịch vụ thiết yếu có những cú sốc về nguồn cung như thiên tai, dịch bệnh
hay biến động trong nhập khẩu các doanh nghiệp có thể lợi dụng thực hiện hành vi “tát nước theo mưa”,
thao túng thị trường hình thành nên mặt bằng giá mới .
Hai là, nếu các quy định về luật pháp quản lý thị trường bị buông lỏng, luật pháp chống độc quyền
không được thực hiện, giá cả của nhiều mặt hàng thiết yếu thể bị đẩy lên cao, khi đó mặt bằng giá của
nền kinh tế bị đội lên đáng kể.
Ba là, khi hệ thống phân phối kém sẽ gây ách tắc, ứ đọng, thậm chí làm giảm hoặc làm mất giá trị
sử dụng của hàng hoá. Hạn chế này đã dẫn đến tình trạng, một mặt, làm cho sản xuất và tiêu dùng không
khớp nhau, mặt khác, làm tăng chi phí trung gian nên giá thành hàng hoá bị đội lên rất nhiều và làm gia
tăng lạm phát.

Để khắc phục các lạm phát do các nguyên nhân trên gây ra thường phải tập trung vào các giải
pháp sau: thực hiện cơ chế quản lý giá phù hợp với cơ chế thị trường, thực thi có hiệu quả Luật cạnh
tranh hạn chế độc quyền, xây dựng các biện pháp phòng ngừa rủi ro về giá trên thị trường và xây dựng hệ
thống phân phối theo hướng hiệu quả.
1.4.8. Lạm phát do yếu tố tâm lý và giải pháp khắc phục
Yếu tố tâm lý của dân chúng có thể gây ra lạm phát trong cả ngắn hạn và dài hạn. Lạm phát trong
trường hợp này gọi là lạm phát kỳ vọng.
Trong ngắn hạn, kỳ vọng lạm phát của dân chúng khiến cho quyết định của họ làm gia tăng
lạm phát. Khi quan sát giá cả nhiều mặt hàng tăng, các nhà buôn, giới đầu cơ cho rằng giá đang tăng và
tiếp tục sẽ tăng, họ đẩy mạnh mua hàng để tích trữ. Điều đó làm cho giá cả tăng trong ngắn hạn. Tuy
nhiên khi giá tăng đến một mức nào đó, các nhà đầu cơ sẽ phải xả hàng để chốt lời, giá cả có thể tạm
thời giảm xuống. Nếu kỳ vọng tăng giá vẫn tồn tại, các nhà đầu cơ lại tiếp tục chu kỳ đầu cơ mới.
Quá trình đó làm cho giá cả tăng lên liên tục.
Đối với các nhà sản xuất, mô hình thông tin không hoàn hảo và mô hình giá cả cứng nhắc đều cho
phương trình đường tổng cung . Trong đó,
Y là sản lượng nền kinh tế, Y là mức sản lượng tiềm năng, P là mức giá chung, Pe là mức giá kỳ vọng
(giá dự kiến của người sản xuất), α > 0 là tham số cho biết sự nhạy cảm của sản lượng đối với những biến
động bất ngờ của giá cả.
Khi mức giá dự kiến (kỳ vọng lạm phát) của người sản xuất cao hơn mức giá chung, họ sản xuất ít
đi, làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái trong mô hình tổng cung và tổng cầu, làm
giá tăng giá cả.
Trong dài hạn, kỳ vọng về lạm phát của dân chúng cũng dựa trên tình hình quan sát được trong
quá khứ. Kỳ vọng về lạm phát này được đưa vào các hợp đồng lao động, hợp đồng dài hạn giữa
doanh nghiệp và khách hàng về giá bán. Nếu thất nghiệp ở mức tự nhiên và nếu không có cú sốc cung,
giá cả sẽ tiếp tục tăng với tỷ lệ phổ biến. Trong mô hình tổng cung và tổng cầu, lạm phát do kỳ
vọng được minh họa bằng sự dịch chuyển lên trên, liên tục của cả đường tổng cung và tổng cầu.
Xét đường tổng cung, nếu giá cả tăng lên nhanh chóng, mọi người sẽ dự kiến nó sẽ tiếp tục tăng
nhanh. Như trên đã nói, vị trí đường tổng cung ngắn hạn phụ thuộc vào mức giá dự kiến. Nó sẽ dịch
chuyển lên trên theo thời gian và cho đến khi có cú sốc cung làm thay đổi lạm phát và qua đó làm thay
đổi kỳ vọng về lạm phát. Đường tổng cầu cũng phải dịch chuyển lên trên để xác nhận kỳ vọng về lạm

phát. Sự dịch chuyển này sẽ ngưng lại khi có một sự kiện nào đó, chẳng hạn ngân hàng Trung ương
không tăng thêm khối lượng tiền tệ. Sự dịch chuyển lên trên của đường tổng cung gây ra suy thoái. Thất
nghiệp cao kèm suy thoái sẽ làm giảm lạm phát và lạm phát dự kiến. Theo đó kỳ vọng lạm phát sẽ giảm.
Kỳ vọng lạm phát trong ngắn hạn hình thành có thể do các yếu tố ngoại sinh như thiên tai,
lũ lụt, mất mùa, dịch bệnh Nó cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ và chính sách hiện hành.
Để khắc phục lạm phát do yếu tố tâm lý, kỳ vọng, về nguyên tắc cần giải toả yếu tố tâm lý, tạo ra cú
sốc hay những biến động trong tổng cung, tổng cầu, làm giảm lạm phát và theo đó, lạm phát dự kiến sẽ
giảm.
Chẳng hạn, Chính phủ có thể tác động tới tổng cung, tổng cầu bằng các chính sách tài
khoá và chính sách thương mại. Những cam kết chắc chắn và rõ ràng của Chính phủ về chính
sách cũng có thể tạo niềm tin cho người dân và chấm dứt được lạm phát kỳ vọng một cách không đau
đớn. Giải pháp này được dựa trên quan điểm về kỳ vọng hợp lý. Kỳ vọng hợp lý giả định mọi người sử
dụng tối ưu tất cả thông tin hiện có, trong đó có thông tin về các chính sách hiện tại để dự báo về tương
lai. Theo lý thuyết kỳ vọng hợp lý, sự thay đổi trong chính sách tiền tệ hoặc chính sách tài khoá làm thay
đổi kỳ vọng. Vì vậy, khi đánh giá ảnh hưởng của bất kỳ chính sách nào, người ta cũng phải tính
đến tác động của nó tới kỳ vọng. Do đó, Chính phủ có thể sử dụng sự thay đổi chính sách của mình
để khắc phục lạm phát do yếu tố tâm lý, kỳ vọng.
1.4.9. Một số nguyên nhân khác
Lạm phát, suy cho cùng là do yếu tố tiền tệ hay do chính sách tiền tệ. Chính sách là sản phẩm của
chủ thể quản lý điều hành. Do đó, năng lực chính sách của các nhà hoạch định chính sách (hay năng lực
quản lý kinh tế vĩ mô của chủ thể quản lý) có thể là nguyên nhân gây ra lạm phát. Đó là những hạn chế

×