Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

phân tích tình hình kinh tế, xã hội hiện nay của nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.58 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề bài: Phân tích tình hình kinh tế, xã hội hiện nay của nước ta…
Bài làm
I. MỞ ĐẦU
Từ lịch sử xa xưa, trải qua bao thời gian nay dù ở thời gian đến nay dù ở thời
đại nào, xã hội nào thì hình thái kinh tế xã hội cũng luôn tồn tại và phát triển hoặc
tụt lùi theo sự phát triển của xã hội đó. Khi ta nhìn vào vấn đề hình thái kinh tế - xã
hội của một nước nào đó ta sẽ thấy xã hội đó lớn mạnh và phát triển hoặc ngược
lại. Nói đến hình thái kinh tế xã hội là ta phải nói đến một chính thể toàn vẹn cơ
cấu phức tạp chứ không thể nói đến những thứ riêng lẻ được, nó phải đan xen
nhau, có quan hệ không thể tách rời nhau được và chính mặt toàn vẹn này thì ta
mới có được một hình thái kinh tế - xã hội cần có và phải có hình thái kinh tế - xã
hội vạch rõ kết cấu cơ bản, phổ biến của mọi xã hội, quy luật vận động và phát
triển tát yếu của xã hội đó, vậy ta phải nghiên cứu sâu về những vấn đề tác động
trực tiếp là yếu tố chính để xây dựng lên hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản
xuất ấy. Với từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định thì ở những giai đoạn đó sẽ
tồn tại các mặt đối lập, các quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, lực lượng lao
động sinh hoạt khác nhau với phong tục tập quán của các nước khác nhau. Trình
độ phát triển khác nhau, mỗi nước có một nền sản xuất, kinh tế khác nhau. Nhưng
cuối cùng thì đó sẽ là một kiến trúc thượng tầng được hình thành trong hình thái
kinh tế - xã hội.
Xã hội không phải là tổng hợp của những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những
cá nhân riêng lẻ mà xã hội là một chính thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó
có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên
sự vận động của xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng tổng thể các
mặt của hình thái kinh tế - xã hội.


Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có những
thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó để nghiên cứu, tìm tòi và
phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi hình thành đến nay đã trải qua
các giai đoạn phát triển cao thấp khác nhau, tương ứng với mỗi giai đoạn đó là một
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, sự vận động và thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế xã hội trong lịch sử là do các quy luật khách quan chi phối đặc biệt là bị chi
phối bởi quy luật về sự phù hợp của ưuan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, Do đó C.Mác viết “ Tôi coi sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
Trong đời sống hàng ngày những điểu tất yếu mà xã hội nào cũng cần có đó
là các sản xuất vật chất, sản xuất vật chất có vai trò rất lớn trong cuộc sống con
người, nó là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên,
cải biên các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho đời sống xã
hội. Đó là quá trình hoạt động có mục đích, nhằm cải biến những vật liệu tự nhiên
làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người, sản xuất vật chất thực hiện trong
quá trình lao động, chính trong quá trình lao động mà mỗi người phải liên kết với
nhau để làm và mọi người làm là lực lượng sản xuất sinh ra từ đây. Quan hệ sản
xuất cũng sinh ra khi mọi người dựa vào nhau để làm ra của cải vật chất. Các nhà
triết học của xã hội duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội
từ ý thức tư tưởng của con người hay từ một lực lượng siêu tự nhiên nào đó. Trình
độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, lực
lượng sản xuất bao gồm:
- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.
- Người lao động với kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử dụng
tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Đối tượng lao động không phải toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có bộ phận của
giới tự nhiên được đưa và sản xuất, được con người sử dụng mới là đối tượng lao
động trực tiếp. Con người không chỉ tìm trong tự nhiên những đối tượng lao động
có sẵn mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất

có liên quan với việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản
xuất. Tư liệu lao động là vật thể hay là phức hợp vật thể mà con người đặt giữa
mình và đối tượng lao động, chúng dẫn truyền sự tích cực sự tác động của con
người vào đối tượng lao động.
Vì vậy những tư liệu đó là kế tục của lịch sử chính những tính chất và trình
độ kỹ thuật của lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và
trình độ quan hệ sản xuất, do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá
trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như một quá trình lịch sử
- tự nhiên.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước nhảy
vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
là điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuất, tạo ra những
ngành sản xuất mới, kết hợp khoa học kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến
những phương pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao trong sản xuất. Do khoa
học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần người cấu thành lực
lượng sản xuất cũng thay đổi. Người lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ
bao gồm lao động chân tay mà bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và cán bộ khoa học
phục vụ trực tiếp vào quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người và người trong quá trình sản
xuất được gọi là quan hệ sản xuất. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội , tính vật chất của quan hệ sản xuất
được biểu hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan
hệ xã hội khác, không có những mối quan hệ đó thì không thành xã hội và không
có quy luật xã hội . Mỗi hình thái kinh tế lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó
tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là
bộ xương của cơ thể xã hội nó bao gồm các mối quan hệ của quan hệ sản xuất là
quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản
xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây:

- Các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
- Các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
- Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Trải qua quá trình lịch sử thì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai
mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện
chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người,
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Quy luật vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản
xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình quan hệ sản xuất tác
động trở lại đối với lực lượng sản xuất .
Xã hội dưới bất kỳ hình thái nào đều là sản phẩm của quan hệ giữa người
với người. Quan hệ xã hội của con người rất đa dạng phong phú, vận động biến
đổi không ngừng. Công lao to lớn là Mác và Ăng -ghen là từ những quan hệ xã
hội hết sức phức tạp đó phân biệt, những quan hệ vật chất của xã hội với những
quan hệ tinh thần tư tưởng của xã hội, nêu bật cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất
hợp thành giữa vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm
tư tưởng và những thiết chế tương ứng với nó.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá
trình lịch sử , xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Nhưng nhân tố
kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định, các nhân tố khác nhau của kiến
trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếukhông tính đến sự tác
động lẫn nhau của các nhân tố đo thì không thấy hàng loạt những sự ngẫu nhiên
mà tính tất yếu kinh tế xuyên qua để tự vạch đường đi của mình. Từ những nhân
tố trên hình thành nên cơ sở hạ tầng.
+ Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội
của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội.
- Cơ sở hạ tầng của một xã hội bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, những
quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước và những quan hệ mầm mống của xã
hội sau. Những đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản

xuất thống trị quy định. Trong cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều
kiểu quan hệ sản xuất thì kiểu quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò
chủ đạo.
- Trong xã hội thì có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do
kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung
đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong cơ sở hạ tầng, là toàn bộ các quan hệ để hình
thành nên kiến trúc thượng tầng .
+ Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết
chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành nên một cơ sở
hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm
riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác
động qua lại, lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2012
Bước vào năm 2012 kinh tế thế giới nói chung đang trên đà phục hồi nhưng
còn diễn biến khó lường; thị trường thế giới khó khăn, giá lương thực, thực phẩm
và nguyên vật liệu cơ bản biến động phức tạp. Trong nước, kinh tế vĩ mô gặp nhiều
khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, thị trường trong nước thu hẹp, sức mua giảm mạnh,
hàng tồn kho lớn, lãi suất còn cao; số doanh nghiệp bị giải thể, đình đốn sản xuất
tăng cao (đặc biệt là khối doanh nghiệp liên quan đến xây dựng, bất động sản),
nhiều lao động mất việc làm. Bên cạnh đó rét đậm, rét hại kéo dài ở miền Bắc và
Bắc Trung Bộ đã tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân.
Ngay từ đầu năm, triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 về những giải pháp chủ
yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán
ngân sách nhà nước năm 2012 với mục tiêu tổng quát là: Ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân
dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc

tế. Trong đó, trọng tâm chỉ đạo điều hành là thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm
phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, bắt đầu từ tái
cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng.
Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các doanh
nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội nước ta trong 4 tháng đầu năm 2012
đã có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả bước đầu.
Lạm phát được kiềm chế. Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) đã giảm từ giữa
năm 2011 và giảm mạnh trong những tháng gần đây, CPI tháng 1 tăng 1%, tháng 2
tăng 1,37%, tháng 3 tăng 0,16% và tháng 4 tăng 0,05%, 4 tháng đầu năm CPI chỉ
tăng 2,6%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước. Các giải pháp tài khoá
thắt chặt, tiền tệ chặt chẽ; tăng cường quản lý chi tiêu công; công tác quản lý giá
cả, thị trường được tập trung chỉ đạo đã góp phần kiềm chế lạm phát.
Mặt bằng lãi suất đã giảm dần, tỷ giá ổn định, cán cân thanh toán được cải
thiện. Trần lãi suất tiền gửi đã được điều chỉnh giảm từ 14% xuống còn 12%; lãi
suất vay tín dụng đã giảm so với đầu năm, xu thế này đang được chỉ đạo đẩy nhanh
và linh hoạt theo biến động của thị trường và diễn biến của lạm phát. Chính phủ
đang chỉ đạo thực hiện chính sách tín dụng hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn, doanh
nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, doanh nghiệp
sử dụng nhiều lao động, chương trình đầu tư nhà ở xã hội, qua đó góp phần giảm
bớt khó khăn cho doanh nghiệp, cải thiện niềm tin của thị trường. Vốn tín dụng
chính sách đã được thực hiện đến các xã, phường trên toàn quốc, tổng dư nợ các
chương trình tín dụng chính sách đến ngày 30 tháng 4 năm 2012 đạt gần 107.000
tỷ đồng, tăng 2,9% so với cuối năm 2011, trong đó chương trình cho vay học sinh,
sinh viên tăng trên 2.000 tỷ đồng, chương trình cho vay hộ nghèo tăng gần 540 tỷ
đồng.
Việc tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại đang được triển
khai khẩn trương, đã phân nhóm để có biện pháp quản lý thích hợp; mức độ an
toàn và thanh khoản của hệ thống ngân hàng bước đầu được cải thiện. Tình trạng
“đô la hóa” và “vàng hóa” đã được kiềm chế.
Xuất khẩu tăng cao, nhập siêu giảm mạnh. Tổng kim ngạch xuất khẩu 4

tháng đầu năm ước đạt trên 33,4 tỷ USD, tăng 22,1%; kim ngạch nhập khẩu ước
33,6 tỷ USD, tăng 4,4%; nhập siêu 176 triệu USD, bằng khoảng 0,53% tổng kim
ngạch xuất khẩu, thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ những năm qua, góp phần tăng
dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức khoảng 9 tuần nhập khẩu. Đạt được kết quả này
trong bối cảnh suy giảm về giá và sức mua trên thị trường thế giới càng thể hiện nỗ
lực, cố gắng của các doanh nghiệp, người sản xuất và các ngành, các cấp.
Sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng trở lại. Chỉ số sản xuất công nghiệp
(IIP) 4 tháng đầu năm tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2011, đặc biệt 2 tháng gần
đây sản xuất công nghiệp đang có xu hướng phục hồi tích cực (tháng 3 tăng 6,5%,
tháng 4 tăng 7,5%, riêng công nghiệp chế biến tăng lần lượt là 8,6% và 9,3%).
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định. Giá trị sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản quý I năm 2012 tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Chính
phủ đã chỉ đạo mua tạm trữ 1 triệu tấn lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long để hỗ trợ
sản xuất và giảm bớt khó khăn cho nông dân. Sản lượng thủy sản 4 tháng tăng
3,7%; việc tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ các tàu công suất lớn đánh bắt xa bờ
đã góp phần giúp ngư dân bám biển, tăng sản lượng khai thác.
Khu vực dịch vụ phát triển khá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng 4 tháng đầu năm ước tăng 21,6% so với cùng kỳ. Lượng khách quốc tế
đến Việt Nam đạt khoảng 2,5 triệu lượt người, tăng 22,9%. Bưu chính viễn thông tiếp
tục phát triển mạnh. Việc phóng thành công vệ tinh Vinasat 2 đánh dấu thêm một
bước phát triển mới, góp phần hiện đại hóa hạ tầng viễn thông của nước ta.
An sinh xã hội, ưu đãi người có công tiếp tục được quan tâm chỉ đạo với
nhiều biện pháp thiết thực. Nhiều chính sách xã hội tiếp tục được thực hiện như:
Hỗ trợ các hộ thiếu đói; hỗ trợ về bảo hiểm y tế, về giá điện, về nhà ở, về tín dụng
cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ hộ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển sản xuất; hỗ
trợ các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn; đào tạo và dạy nghề cho lao động
nông thôn; tích cực triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới…; tăng mức lương tối thiểu cho cán bộ, công nhân viên chức và lực
lượng vũ trang, quy định về chế độ phụ cấp, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo
hiểm xã hội cho cán bộ xã đã nghỉ việc; tiếp tục đổi mới các chính sách về y tế dự

phòng, bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh và viện phí. Chính sách ưu đãi người có
công tiếp tục được hoàn thiện, nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh.
Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo được quan tâm chỉ đạo,
thực hiện theo các chương trình kế hoạch đã đề ra từ đầu năm và đạt kết quả khả
quan. Nhiều chương trình văn hoá, thể dục thể thao, lễ hội được tổ chức tốt hơn,
theo hình thức xã hội hoá thu hút được sự đóng góp tích cực của cộng đồng doanh
nghiệp và dân cư, góp phần quảng bá du lịch và hình ảnh của đất nước. Tiếp tục
triển khai Chiến lược và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của cả nước và của
các ngành, địa phương, đào tạo nghề cho lao động nông thôn; phổ cập mầm non
cho trẻ 5 tuổi. Tập trung đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, bồi dưỡng phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục (thực hiện phụ cấp thâm niên cho nhà
giáo, bảo lưu chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo được điều động làm công tác
quản lý giáo dục). Đã tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh các cơ sở đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo đại học. Chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ
công tác phòng chống ma túy, mại dâm, HIV/AIDS, đấu tranh ngăn chặn tội phạm
buôn bán, vận chuyển tàng trữ ma túy; chú trọng điều trị cho người nghiện các chất
ma túy dạng thuốc phiện bằng Methadone.
Trật tự an toàn giao thông được tập trung chỉ đạo với nhiều giải pháp đồng
bộ, quyết liệt nên tình hình quý I năm 2012 đã được cải thiện trên cả ba tiêu chí: Số
vụ tai nạn giao thông giảm 22,8%, số người chết giảm 19,2% và số người bị
thương giảm 26,3% so với cùng kỳ năm 2011.
Công tác thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh, nhất là thông tin về tình
hình kinh tế - xã hội, các chủ trương, chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của
Đảng và Nhà nước. Các thành viên Chính phủ đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại
với nhân dân. Chương trình Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời được thực hiện thường kỳ
trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, cùng nhiều hình thức đối thoại khác được
tổ chức, góp phần giải đáp kịp thời những băn khoăn lo lắng của nhân dân, tạo
đồng thuận xã hội.
Công tác cải cách hành chính, tin học hóa quản lý nhà nước được đẩy mạnh.
Việc tổng kết Hiến pháp 1992 của Chính phủ được thực hiện đúng chương trình và

yêu cầu đề ra. Công tác phòng chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại tố cáo,
thanh tra chuyên đề về đất đai, doanh nghiệp nhà nước được tập trung chỉ đạo
gắn với việc khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI.
Bên cạnh những kết quả trên đây, tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn
còn nhiều khó khăn, thách thức lớn.
Đã xuất hiện những dấu hiệu suy giảm tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng
trưởng GDP quý I năm 2012 chỉ đạt 4%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2011
(5,57%) và năm 2010 (5,84%). Trong đó công nghiệp, xây dựng chỉ tăng 2,94%.
Việc thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, chính sách tiền tệ chặt chẽ đã
góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nhưng cũng để lại hệ quả là làm cho
doanh nghiệp gặp khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lãi suất vay còn
cao, nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận và hấp thụ vốn; chi phí đầu vào lớn, sản
phẩm tiêu thụ chậm, tồn kho cao, dẫn đến quy mô sản xuất phải thu hẹp, nhiều
doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc phá sản, giải thể, lao động mất việc làm
tăng, gây sức ép lớn đến ổn định xã hội và đời sống của nhân dân. Trong 4 tháng
đầu năm 2012, cả nước có trên 17,7 nghìn doanh nghiệp đã làm các thủ tục giải thể
và ngừng hoạt động, tăng khoảng 9,5% so với cùng kỳ.
Tuy lạm phát giảm mạnh nhưng lãi suất vay ngân hàng vẫn còn cao. Nợ xấu
của hệ thống ngân hàng gia tăng. Nhập khẩu giảm mạnh, nhất là khối doanh nghiệp
trong nước. Việc giảm nhập khẩu nguyên liệu, vật tư sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến
đầu tư và phát triển sản xuất, kinh doanh trong thời gian tới, nhất là sản xuất hàng
xuất khẩu.
Buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất và tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất
lượng chưa giảm, làm thất thu ngân sách, gây thêm khó khăn cho sản xuất, xâm
phạm lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Đời sống nhân dân ở nhiều vùng vẫn còn khó khăn, tình hình an ninh, trật tự
xã hội ở nhiều nơi vẫn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Công tác bảo đảm an toàn
vệ sinh thực phẩm chưa được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý vi phạm chưa
nghiêm.
Tình hình tệ nạn xã hội, tội phạm còn nghiêm trọng, nhất là tội phạm có tổ

chức, tội phạm chống người thi hành công vụ. Tình trạng tham nhũng, lãng phí
chưa được đẩy lùi; xuất hiện nhiều vụ khiếu kiện đông người phức tạp, nhất là về
đất đai; việc bảo đảm an toàn các công trình thủy điện, tai nạn giao thông và ùn tắc
giao thông ở một số thành phố lớn, vẫn là những vấn đề bức xúc xã hội.
III. VẤN ĐỀ CẦN XÂY DỰNG HÌNH THÁI KT - XH Ở VIỆT NAM
1) Vấn đề xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam
+ Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học, học thuyết Mác - Lê nin về hình
thái kinh tế - xã hội vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã hội,
tìm ra những nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của những hiện
tượng xã hội, đặt cơ sở khoa học cho xã hội học, nâng xã hội học lên thành một
khoa học thật sự, chống lại quan điểm duy tâm về lịch sử, coi xã hội học là sự kết
hợp có tính chất máy móc của nhiều cá nhân và gia.đình, coi sự vận động phát triển
của xã hội là do ý chí của những nhà cần quyền chi phối. Coi kỹ thuật là cái
chung quyết định tính chất chế độ xã hội là tiêu chuẩn khách quan phân biệt các
hình thái kinh tế kinh tế - xã hội.
- Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa , không có nghĩa là gạt bỏ tất cả quan hệ sử hữu cá thể, tư nhân chỉ còn
lại chế độ công hữu và tập thể, trái lại tất cả những gì thuộc về sở hữu tư nhân
góp phần vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ phận tự nhiên của
quá trình kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội, khuyến khích mọi hình thức kinh tế để
phát triển sản xuất và nâng cao cuộc sống của nhân dân.
- Vậy nước ta chọn lựa con đường xã hội chủ nghĩa không qua giai đọan
phát triển tư bản với ý nghĩa là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt là về mặt
chính trị của chế độ đó- tức không thể hình thành một hệ thống chính trị của giai
cấp tư sản, trong đó đa số sống phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực của thiểu số.
Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương một nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, từng bước
xã hội hoá xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế nền sản xuất đi lên sản xuất lớn xã hội

chủ nghĩa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển. Qúa trình đó được thực hiện
không phải bằng sự tước đoạt, gò ép theo chủ nghĩa hình thức như trước đây mà
được thể hiện từng bước thông qua hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ
phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã để dần hình thành các
tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị quốc doanh là nòng cốt. Tức là chúng
ta chỉ bỏ qua những gì mà xã hội mới có thể thay thế vào những quan hệ xã hội cũ
đem laị hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn. Chúng ta không chủ trương gạt bỏ cái cũ
để có cái mới mà thực hiện chuyển hoá cái cũ thành cái mới.
+ Muốn làm được như trên ta phải định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế như sản
xuất hàng hoá nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa thì nhà nước phải
sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục trong đó các biện
pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất
với những hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được
củng cố và phát triển ở những vị trí nòng cốt. Kinh tế tập thể dưới hình thức thu
hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí
nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh. Kinh tế tư nhân và gia đình phát huy
được mọi tiềm năng, các tập đoàn kinh doanh lớn có sức chi phối trong nền kinh tế
được hình thành.
+ Vì cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế - xã hội
được biểu hiện theo những kiểu riêng biệt trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ
thể ( cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa). Ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể những quy luật phổ
biên đó lại thể hiện theo những hình thức đặc thù thì ở những nước khác nhau.
Điều đó cho phép chúng ta có thể vận dụng những quy luật phổ biến để nghiên cứu
một hình thái kinh tế xã hội cụ thể.
2/ Các hình thức đổi mới
+ Muốn xây dựng hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì phải coi thực
hiện công cuộc đổi mới là quá trình vừa làm việc vừa học tập vừa rút kinh nghiệm
bởi vì chưa bao giờ có sẵn một mô hình để căn cứ vào đó mà chủ động vạch ra một
chương trình đổi mới cụ thể, chi tiết trên từng lĩnh vực.

- Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
xây dựng và quản lý nhà nước. Ngày nay chỉ có phát huy sức mạnh làm chủ của
nhân dân mới có thể chống tiêu cực , chống suy thoái, chống tham nhũng có hiệu
quả nhằm củng cố Đảng làm trong sạch bộ máy nhà nước lành mạnh hoá các quan
hệ xã hội.
- Xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng
bước kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể sẽ chiếm ưu thế về năng suất chất lượng
hiệu quả qua đó giữ vị trí chi phối.
- Tiếp tục thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước chuyển đổi căn bản
toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và
phương pháp tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao .
- Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về
xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản
xuất có hiệu quả.
- Phát triển nền giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt,sử dụng nhân lực
một cách đầy đủ, hiệu quả với những chính sách đãi ngộ thoả đáng, tạo môi
trường môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo cho mọi sáng kiến cá nhân, khai
thác triệt để yếu tố con người vì con người.
+ Xâydựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng đã khẳng
định lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin là kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng
Hồ Chí Minh. Ta phải xây dựng hệ thống chính trị - xã hội chủ nghĩa mang bản
chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản lãnh đạo, đảm
bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc
về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phát huy mọi khả
năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của của mọi cá nhân mọi tầng lớp xã hội
trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn đời sống
của nhân dân.
+ Các tổ chức, thiết chế, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã

hội chủ nghĩa cùng các mối quan hệ qua lại giưã chúng với nhau do cùng một
mục tiêu chung, lợi ích chung tạo nên sự hoạt động cùng chiều phối hợp đoàn kết
và hợp tác, tạo thành một lực lượng chung hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý kinh tế- xã hội
và mọi lĩnh vực hoạt động khác.
+ Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như một
mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lực
của nhân dân lao động .
+ Khái quát lại , xây dựng hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
xâydựng một hệ thống quan hệ xã hội theo yêu cầu phát triển không ngừng của lực
lượng sản xuất hiện đại. Xây dựng một hệ thống chính trị làm chủ của nhân dân lao
động hoạt động theo nguyên tắc tất cả từ con người và vì con người.
+ Tất cả các vấn đề trên đều có ý nghĩa quan trọng để xây dựng hình thái kinh tế-
xã hội ở nước ta. Từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng
tầng đều có hướng phát triển riêng của nó với quy mô và kết quả thu được sao
cho tốt nhất để đưa nền kinh tế nước ta ngày một phát triển xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 mà các
Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra đồng thời xuất phát từ tình
hình thực tiễn khó khăn của nền kinh tế trong những tháng gần đây, Chính phủ xác
định nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới là: Tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời tiếp tục thực hiện nhất quán chủ
trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô để tạo nền tảng cho tăng trưởng
bền vững; từng bước thực hiện có kết quả chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Trong đó tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư, đồng thời

tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô.
Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện có hiệu quả các giải pháp thiết
thực, phù hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy sản xuất phát
triển, nhất là về vốn, mặt bằng, nhân lực, thị trường tiêu thụ trong nước và xuất
khẩu theo các cơ chế, chính sách đã ban hành, tập trung thực hiện tốt Nghị quyết số
13/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2012 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Đặc biệt cần điều chỉnh giảm lãi suất vay
phù hợp với mức giảm của lạm phát; tăng khả năng vay vốn cho doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công
nghiệp phụ trợ và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện việc kéo dài thời
hạn nộp thuế, giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài đối với một số đối tượng
doanh nghiệp; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư nhà nước; đồng thời trình Quốc hội
xem xét miễn giảm thêm một số loại thuế. Tăng cường thu hút, giải ngân các
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA). Triển khai áp dụng các giải pháp xử lý nợ phù hợp đối với các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển
nhưng đang gặp khó khăn tạm thời (cơ cấu lại nợ, giãn nợ, thay đổi thời hạn, lãi
suất…). Xoá bỏ các rào cản đầu tư bất hợp lý, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, thực hiện chính
sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa để bảo đảm lạm phát mục tiêu năm 2012 khoảng 8 - 9%, tạo tiền đề
cho việc kiềm chế lạm phát xuống mức thấp hơn trong những năm sau, bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô vững chắc và sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước
trong trung và dài hạn. Cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo quan trọng này trong hành
động của mỗi cấp, mỗi ngành. Thực hiện lành mạnh hoá tài chính quốc gia theo
hướng: Phấn đấu thực hiện bội chi ngân sách nhà nước năm 2012 theo đúng Nghị
quyết của Quốc hội và giảm dần trong những năm tiếp theo; tiếp tục quản lý, giám
sát chặt chẽ nợ Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn bảo

đảm an ninh tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp tục có giải pháp hỗ trợ
phù hợp đối với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực, có lợi thế, có thị trường và có
khả năng cạnh tranh; tăng cường kiểm định chất lượng hàng xuất khẩu… đồng thời
có các giải pháp linh hoạt nhằm tranh thủ cơ hội tăng xuất khẩu sang các thị trường
tiềm năng và thị trường đang có triển vọng phục hồi. Tập trung phát triển thị
trường trong nước, nhất là hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng
tồn kho, đổi mới hệ thống thu mua, tiêu thụ, đưa hàng hóa về nông thôn. Tiếp tục
thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số mặt hàng Nhà nước còn quản lý giá
đi đôi với việc tăng cường quản lý thị trường, giá cả, đẩy mạnh công tác thanh tra,
kiểm tra, kiên quyết xử lý các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với nguyên
vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; ngăn chặn tình trạng
chuyển giá, trốn, lậu thuế, găm hàng và thao túng thị trường giá cả. Thực hiện tiết
kiệm nguyên liệu, năng lượng để giảm giá thành sản phẩm, thay đổi mẫu mã phù
hợp, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tập trung nguồn lực phát triển nông nghiệp,
nông thôn, đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới. Chuẩn bị tốt các yếu tố giống, phân bón, thuốc trừ sâu, phổ biến kỹ thuật
nuôi trồng mới, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ các công trình phòng chống lụt bão,
thiên tai, tăng cường các biện pháp phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi,
kết hợp với bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hai là, thực hiện tốt nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Thực hiện chủ trương tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế phân cấp quản lý
đầu tư theo hướng vừa bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội của cả nước, của ngành,
vùng, vừa bảo đảm lợi ích của địa phương cả trong ngắn, trung và dài hạn. Chính
phủ đang khẩn trương xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn để trình Quốc hội tại
kỳ họp cuối năm 2012.
Thực hiện có kết quả lộ trình cơ cấu lại hệ thống tài chính, ngân hàng mà

trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, nâng cao chất lượng dịch
vụ, hiệu quả kinh doanh và bảo đảm an toàn của cả hệ thống; thực hiện các giải
pháp xử lý phù hợp đối với nhóm ngân hàng yếu kém, đồng thời bảo đảm quyền
lợi của người gửi tiền. Thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường chứng
khoán và các dịch vụ tài chính, đảm bảo công khai, minh bạch, tạo kênh huy động
vốn dài hạn, bền vững cho nền kinh tế.
Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của doanh nghiệp nhà nước để khu vực doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức
hợp lý, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện tốt hơn vai trò, nhiệm vụ
được giao. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tập trung vào ngành nghề kinh
doanh chính; công khai, minh bạch kết quả kinh doanh, tình hình tài chính. Tăng
cường trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, chức
năng giám sát của chủ sở hữu. Đổi mới phương thức quản lý, thực hiện có hiệu quả
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện tốt tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước cũng góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế.
Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cần
tập trung rà soát, hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả,
tính đồng bộ và liên kết giữa các loại quy hoạch. Tăng cường kiểm tra, giám sát và
quản lý phát triển theo quy hoạch của các ngành, địa phương, bảo đảm sự kết hợp
giữa quy hoạch ngành với quy hoạch vùng. Rà soát, đánh giá thực trạng để có giải
pháp khai thác và phát huy hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế cửa khẩu.
Quan tâm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh việc đào tạo theo nhu
cầu xã hội, nâng cao hiệu quả chuyển dịch lao động gắn với tăng năng suất lao
động xã hội. Triển khai quyết liệt các chương trình đổi mới, ứng dụng khoa học
công nghệ, phát triển sản phẩm quốc gia, thị trường khoa học công nghệ để phát
huy vai trò quan trọng của khâu đột phá này trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế,

đổi mới mô hình tăng trưởng.
Ba là, thực hiện tốt hơn việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ
môi trường.
Khẩn trương xây dựng chương trình hành động để triển khai có hiệu quả
Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn
2012 - 2020”. Tập trung nguồn lực thực hiện có hiệu quả, đúng tiến độ các chương
trình mục tiêu quốc gia trong các lĩnh vực xã hội. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
các giải pháp hỗ trợ giảm nghèo bền vững, nhất là đối với các huyện nghèo, các xã,
thôn, bản đặc biệt khó khăn. Thực hiện tốt hơn chính sách đối với người có công.
Tăng cường tạo việc làm cho người lao động, giải quyết kịp thời các chế độ an sinh
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp đối với lao động mất việc làm. Thực hiện tốt các giải
pháp phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hỗ trợ kịp thời nhân dân vùng bị
thiên tai sớm ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất. Tăng cường kiểm tra, giám
sát để bảo đảm sử dụng các nguồn lực đúng mục đích, hiệu quả, tránh lãng phí.
Khẩn trương ban hành và thực hiện Chiến lược giáo dục và Chiến lược dạy
nghề đến năm 2020; tiếp tục thực hiện Chương trình kiên cố hóa trường lớp học,
nhà công vụ cho giáo viên, ký túc xá sinh viên; đẩy mạnh phổ cập mầm non cho trẻ
5 tuổi; triển khai có hiệu quả đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn; xây dựng
các cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao. Tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe nhân dân, chủ động phòng chống kịp thời các dịch bệnh
nghiêm trọng, HIV/AIDS. Tập trung giải quyết có hiệu quả tình trạng quá tải ở các
bệnh viện, nâng diện bao phủ của bảo hiểm y tế gắn với đổi mới phương thức quản
lý. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi
vật thể gắn với phát triển du lịch, tăng cường công tác bình đẳng giới, xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về
khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, về ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp
tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo cho các cơ sở nghiên cứu, dự báo
về thiên tai, biến đổi khí hậu; nâng cao năng lực dự báo thời tiết, khí tượng thủy
văn phục vụ sản xuất và đời sống. Kiểm soát chặt chẽ việc quản lý khai thác tài

nguyên, khoáng sản gắn với các yêu cầu về bảo vệ môi trường; kiên quyết đình chỉ
hoạt động, thu hồi giấy phép, không gia hạn, bổ sung hoặc cấp mới giấy phép khai
thác tài nguyên, khoáng sản đối với các doanh nghiệp vi phạm hoặc không đáp ứng
các yêu cầu quy định về bảo vệ môi trường.
Bốn là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện đồng bộ chương trình cải cách
hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh công cuộc phòng
chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011 – 2020; khẩn trương hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương; nâng cao hiệu quả và
chất lượng hoạt động công vụ; tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý giữa
Trung ương và địa phương, gắn phân cấp với tăng cường kiểm tra, giám sát, nhất là
trong các lĩnh vực quản lý đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách,
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước gắn với
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về một số giải pháp cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ương 3, khóa X, Kết luận của
Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm
pháp luật, nhất là các vụ việc mà dư luận xã hội và cử tri cả nước quan tâm. Tập
trung giải quyết khiếu nại, tố cáo trên tinh thần vừa bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người dân, công khai minh bạch, đúng pháp luật, vừa giữ nghiêm kỷ cương, phép
nước. Xử lý dứt điểm những vụ việc tồn đọng kéo dài, hạn chế để xảy ra những vụ
khiếu kiện mới phức tạp, nhất là trong quá trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư.
Năm là, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là trên các vùng biển đảo của Tổ quốc. Tiếp tục
hợp tác và đấu tranh, giải quyết các khác biệt, tranh chấp trên biển bằng biện pháp
hòa bình theo luật pháp quốc tế. Hợp tác xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị với

các nước láng giềng, gắn với việc phân giới cắm mốc. Thực hiện có hiệu quả công
tác bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, giữ vững an ninh chính trị; đẩy mạnh
thực hiện các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma
tuý, phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em một cách quyết liệt, hiệu quả. Bằng các
giải pháp đồng bộ, phấn đấu thực hiện vượt mức các chỉ tiêu của Năm an toàn giao
thông quốc gia 2012.
Mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới,
tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các diễn đàn, tổ chức quốc tế như Liên
hợp quốc, Diễn đàn hợp tác châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hợp tác Á - Âu
(ASEM), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),… đưa quan hệ hợp tác
với các nước đối tác đi vào chiều sâu, có hiệu quả; triển khai thực hiện các cam kết
quốc tế và tích cực tham gia đàm phán các thỏa thuận thương mại mới (như Hiệp
định thương mại Thái Bình Dương - TPP, Hiệp định thương mại với EU).
Sáu là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội.
Tiếp tục thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền về các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội cao trong việc thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với
Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp trong việc tuyên truyền và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác,
kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan
tâm. Xử lý nghiêm minh các hành vi đưa tin sai sự thật, gây tâm lý bất ổn trong xã
hội, làm phương hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân.
Làm tốt công tác thông tin đối ngoại để xây dựng hình ảnh quốc gia, tranh
thủ sự ủng hộ quốc tế, tăng cường hợp tác thu hút các nguồn lực đầu tư, thu hút du
lịch và chủ động đấu tranh với những thông tin sai lệch, luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc, không đúng sự thật.
Tập trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất
kinh doanh đồng thời tiếp tục thực hiện nhất quán mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý là nhiệm vụ rất khó khăn; vừa là cần

thiết, cấp bách trong năm 2012, vừa là yếu tố quan trọng để bảo đảm ổn định và
phát triển bền vững trong trung và dài hạn.
Trong điều kiện khó khăn, thách thức còn nhiều, nhưng với sự quyết tâm
cao, đoàn kết, đồng thuận trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị,
cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta tin
tưởng sẽ thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2012 mà Quốc hội
đã đề ra, gắn với việc triển khai thực hiện các nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, lần
thứ 5 khóa XI của Đảng, tạo tiền đề phát triển nhanh hơn, bền vững hơn trong
những năm sau.

×