Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Đánh giá tình hình kinh tế - xã hội 7 tháng đầu năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.83 KB, 9 trang )

Câu 1:
Nghị quyết:
Về việc tiếp tục thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vi mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững trong những
thắng cuối năm 2008 theo kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị và kết luận
của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X).
I. Đánh giá tình hình kinh tế - xã hội 7 tháng đầu năm 2008
Trong 7 tháng đầu năm 2008, phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức lớn do những biến động của kinh tế thế giới và khó khăn, yếu kém nội tại
của nền kinh tế, song với sự phấn đấu quyết liệt cảu toàn Đảng toàn dân, toàn
quân thực hiện đồng bộ các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô đảm
bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, tình hình kinh tế - xã hội đã có
những chuyển biến theo hướng tích cực.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá: giá trị sản xuất công nghiệp
tăng 16,4% si với cùng kỳ.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tốt, xuất khẩu tiếp tục tăng cao so với
cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ tăng cao. Thị trường chứng khoán thời gian gần
đây đã có dấu hiệu phục hồi.
Đầu tư nước ngoài tăng 4 lần. Đồng thời kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô. Trật tự giao thông có tiến bộ, số thứ vụ tai nạn giao thông, số
người chết.
II. Các nhiệm vụ trọng tâm thực hiện trong những tháng cuối năm 2008
1. Tiếp tục thực hiện giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mô. Ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ động thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt nhưng linh hoạt trong điều hành để giảm lạm phát. Thực hiện kiên quyết
việc tiết kiệm cho các ngân hàng nhỏ nâng cao yêu cầu về quy mô vốn.
1
Thực hiện kiên quyết việc tiết kiệm chi tiêu của các cơ quan đơn vị nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước.
Bộ Tài chính chỉ đạo, nắm vững tình hình hoạt động của thị trường
chứng khoán, thúc đẩy tự phát triển ổn định.


- Tập trung thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập
siêu đảm bảo cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu, tăng cường quản lý
thị trường.
Bộ Công thương chỉ đạo các tập đoàn, Tổng Công ty lớn đẩy mạnh
xuất khẩu các mặt hàng nông lâm.
2. Đảm bỏ an ninh xã hội
Các Bộ, ngành và địa phương chú trọng thực hiện quy chế về thông tin,
chủ động cung cấp thông tin và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tấn,
báo chí.
III. Thực hiện:
Từ nay đến hết năm 2008 nhiệm vụ đặt ra còn nặng nề, đòi hỏi sự quyết
tâm, nỗ lực rất lớn của các cấp các ngành, địa phương, doanh nghiệp để hoàn
thành tốt nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
NGHỊ QUYẾT
Về việc bổ sung một số giải pháp chủ yếu thực hiện nhiệm vụ ngành
kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh 6 tháng cuối năm 2008.
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá,
ngày 17 tháng 10 năm 2010. Công nghệ thông tin là một trong các động lực
quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ thông tin
trong một số lĩnh vực. Làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế văn hoá xã hội
của thế giới hiện đại. Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta
nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tình hình của toàn
2
dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các
ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
I. Tình hình phát triển công nghệ thông tin ở nước ta
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30 tháng 03 năm 1991 của Bộ Chính trị
về Khoa học Công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đã nêu “Tập trung sức phát
triển một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn như điện tử , tin học”.

II. Mục tiêu, chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp
Đến năm 2010, công nghệ thông tin Việt Nam đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực với một số mục tiêu cơ bản sau đây:
Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, trở
thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
1) Ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả công nghệ thông tin trong toàn xã hội.
2) Tạo môi trường thuận lợi cho ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển
công nghệ thông tin
3) Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin
4) Đẩy nhanh việc xây dựng mạng thông tin quốc gia, bao gồm hệ thống viễn
thông và Internet Việt Nam.
5) Tăng cường đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công nghệ
thông tin.
3
Câu 2 : Hệ thống An sinh Xã hội hiện nay bao gồm rất nhiều các thành tố
và nhiểu chương trình khác nhau : Bảo hiểm Xã hội , Trợ cấp Xã hội , Ưu
đãi Xã hội , Xóa đói giảm nghèo …. Tuy nhiên , có thể khẳng định Xóa đói
giảm nghèo đã góp phần rất lớn đảm bảo An sinh Xã hội bền vững. Để làm
rõ vấn đề này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những khía cạnh sau đây:
Các chương trình An sinh xã hội với nhiệm vụ đảm bảo An sinh xã
hội bền vững và ưu điềm của chương trình Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) :
Các chương trình An sinh xã hội (ASXH) có diện bảo vệ rộng lớn trong
xã hội. Chính sách ASXH nói chung tạo nên tấm lưới che chắn cho các thành
viên cộng đồng khỏi rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống. Các chương trình chính
của hệ thống ASXH phải kể đến đó là: Bảo hiểm xã hội, Cứu trợ xã hội, Ưu
đãi xã hội và Xóa đói giảm nghèo. Các chương trình này góp phần to lớn vào
việc đảm bảo ASXH bền vững, phát triển một xã hội hài hòa, bảo vệ quyền
lợi của cộng đồng, của các thành viên xã hội, coi đó như những ưu tiên hàng

đầu.
Với bảo hiểm xã hội (BHXH), đây là trụ cột chính trong hệ thống An
sinh xã hội của mỗi nước, nó là mảng chính sách An sinh xã hội cơ bản nhất
của các quốc gia. Diện bảo vệ của các chương trình BHXH rất rộng và có xu
hướng rộng hơn một khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, do đó nó bảo
đảm được tính lâu dài, thường xuyên nhằm thực hiện an sinh xã hội bền vững.
Mặt khác cơ chế hoạt động của bảo hiểm đã tạo ra cho nó khả năng đảm bảo
nguồn tài chính hết sức dồi dào, đủ khả năng thực hiện trong dài hạn. Bởi lẽ
nhiều loại hình bảo hiểm mang tính bắt buộc do đó nguồn quỹ hình thành có
tính chắc chắn. Đây là điều kiện tiên quyết không chỉ giúp BHXH bền vững
mà còn giúp hệ thống An sinh xã hội bền vững.
Cứu trợ xã hội (CTXH) là khái niệm dùng để chỉ mọi hình thức và biện
pháp giúp đỡ của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống
khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bị bất hạnh,
rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo liệu cuộc sống tối thiểu của bản
thân và gia đình. Có thể nói, CTXH một hoạt động mang tính chất từ thiện,
tương thân tương ái giúp đỡ nhau của con người trong các giai đoạn lịch sử
khác nhau. Mọi người dân trong cộng đồng xã hội nhận thức được tính nhân
đạo, nhân văn ấy từ đó giúp cho họ tích cực tham gia vào công tác xã hội hóa
hoạt động CTXH. Những người dân trong xã hội cũng sẽ cảm thấy rằng: họ
không bị bỏ rơi trong mọi hoàn cảnh. Đây là yếu tố hết sức quan trọng trong
4
chiến lược đảm bảo không chỉ an sinh xã hội bền vững mà còn giúp xã hội
phát triển một cách hài hòa, ổn định.
Bên cạnh đó chúng ta cũng phải kể tới ưu đãi xã hội (ƯĐXH), đó là sự
đãi ngộ đặc biệt về cả về mặt vật chất và tinh thần của Nhà nước, xã hội nhằm
ghi nhận, đền đáp công lao to lớn của của những cá nhân, tập thể có cống hiến
đặc biệt cho cộng đồng, xã hội. ƯĐXH không phải là sự ban ơn mà thực chất
là thực hiện công bằng xã hội. Chính sách này giúp tái sản xuất ra những giá
trị tinh thần cao đẹp của xã hội, giáo dục truyền thống cho các thế hệ đi sau,

tạo ra sự ổn định về thể chế chính trị cho đất nước. Đây là tiền đề vững chắc
cho phát triển kinh tế nói chung và an sinh xã hội bền vững nói riêng.
Chúng ta nói đến Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) như là một nhiệm vụ
hết sức khó khăn và lâu dài, chương trình XĐGN tập trung vào đối tượng có
thu nhập thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn mà hiện còn chiếm tỷ lệ khá cao
trong xã hội. Các chính sách giúp người nghèo thoát nghèo sẽ giúp họ có điều
kiện vươn lên trong cuộc sống, cải thiện đời sống của mình nói riêng và qua
đó tạo ra những hiệu quả tích cực cho xã hội: giảm chênh lệch giàu nghèo và
bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư, tạo ra điều kiện tốt cho phát triển bền
vững. Chính sách XĐGN thực hiện thành công sẽ giảm đi gánh nặng cho các
chương trình ASXH, tạo điều kiện để các chương trình an sinh xã hội đi vào
chiều sâu.
Giữa các chính sách an sinh xã hội nêu trên, chính sách nào có ưu điểm
hơn trong việc đảm bảo an sinh xã hội bền vững?
Xóa đói giảm nghèo góp phần đảm bảo An sinh xã hội lâu dài và bền
vững hơn cả nhất là khi đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam. Chủ
đề:Có thể thấy, mặc dù BHXH là một chính sách An sinh xã hội lớn, nhưng
thực tế cho thấy đối tượng được hưởng lợi từ BHXH chủ yếu là các tầng lớp
dân cư có thu nhập bậc trung, những người làm công ăn lương chứ chưa thực
sự quen thuộc với người nghèo. Còn với chính sách CTXH, mặc dù người
nghèo là một trong những người được hưởng lợi nhiều, nhưng các trợ giúp
này (trừ một số trợ cấp dài hạn) thường có tính tức thì và ngắn hạn. Với chính
sách ƯĐXH, xã hội hướng tới những người có công với đất nước trong các
cuộc kháng chiến, hoặc những người có cống hiến đặc biệt với đất nước trong
thời bình. Có những người nghèo thuộc diện ƯĐXH tuy nhiên con số đó còn
chiếm tỷ lệ nhỏ trong số người nghèo cả nước. Thực tế cho thấy những bộ
phận người lao động trẻ tuổi lâm vào hoàn cảnh nghèo đói nhưng không
thuộc diện ƯĐXH là khá nhiều. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo được coi là giải
5

×