Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A khoa Giáo dục – Học viện Quản lý Giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.07 KB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống ngày càng có nhiều thay đổi, đặt ra nhiều yêu cầu mới cho mỗi
cá nhân. Để hoàn thiện chính mình và đáp ứng yêu cầu của thời đại, mỗi cá
nhân đều phải trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết.
Sinh viên là lực lượng rất trẻ và chuẩn bị bước vào cuộc sống tự lập, lao
động. Thế nhưng họ đang phải đối mặt với những yêu cầu của hội nhập,
những thay đổi trong phát triển kinh tế và những vấn đề nảy sinh trong đời
sống xã hội. Do đó, việc trang bị những kỹ năng sống cho sinh viên trước khi
họ bước vào đời là một việc làm hết sức cần thiết.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người thường gặp gỡ những người mà
mình chưa quen biết, vậy họ sẽ có những ứng xử như thế nào để phù hợp với
mình và mọi người xung quanh. Nhân dân ta có câu :“ Mất 4 phút để tạo ấn
tượng ban đầu nhưng phải mất 4 năm để xóa đi ấn tượng đó”. Do vậy, tạo ấn
tượng ban đầu với người khác là vô cùng quan trọng. Mặt khác, học để chung
sống là mục tiêu then chốt của giáo dục hiện nay. Đối với sinh viên của thời
đại mới, họ cần phải làm chủ cuộc sống và cần phải có những kĩ năng giao
tiếp cơ bản nhất. Ấn tượng ban đầu là “cửa ngõ” quan trọng của quá trình
giao tiếp, là điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển mối quan hệ lâu dài.
Vì thế, trong giao tiếp nếu ngay từ đầu ta gây được ấn tượng tốt đẹp với đối
phương thì quá trình giao tiếp tiếp theo sẽ diễn ra suôn sẻ, thuận lợi hơn và
ngược lại. Ấn tượng ban đầu tốt đẹp chính là chìa khóa thành công trong quá
trình giao tiếp tiếp theo.
Học viện Quản lí giáo dục mới thành lập và đang trong quá trình hoàn
thiện về mọi mặt.Các hoạt động chính khóa, ngoại khóa nhằm rèn luyện các
kỹ năng mềm cho sinh viên còn hạn chế. Mặt khác, chương trình đào tạo của
Học viện hiện nay còn nặng về lý thuyết, thời gian thực hành các kĩ năng nói
1
chung không nhiều, đặc biệt là kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
cho sinh viên. Ngoài ra, chính bản thân sinh viên cũng chưa đáp ứng được
yêu cầu mà nhà trường và xã hội đề ra.Thực tế đa số sinh viên chưa thực sự


quan tâm đến việc rèn luyện các kĩ năng mềm, trình độ tự rèn luyện chưa tốt.
Đối với kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp thì lại càng đòi hỏi sự tự
rèn luyện, tự bản thân sinh viên phải trau dồi , tích lũy kiến thức. Đặc biệt với
những sinh viên K5 mới bước chân vào giảng đường đại học được tiếp cận
với nhiều cái mới lạ, môi trường học tập và giao tiếp với mọi người xung
quanh thay đổi thì việc tự rèn kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
càng trở nên cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định nghiên cứu đề tài: “Tự rèn
luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A
khoa Giáo dục – Học viện Quản lý giáo dục”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong
giao tiếp của SV lớp K5A khoa Giáo dục – HVQLGD nhằm góp phần tạo nên
sự thành công trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A nói riêng và sinh viên
toàn Học viện nói chung
3. Đối tượng và khách thể của đề tài nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban
đầu trong giao tiếp của SV lớp K5A khoa Giáo dục – Học viện Quản lý giáo
dục.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Quá trình tự giáo dục của sinh viên Khoa Giáo
dục – Học viện Quản lý giáo dục.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng
ban đầu trong giao tiếp của sinh viên
2
4.2. Phân tích thực trạng tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong
giao tiếp của sinh viên lớp K5A khoa Giáo dục – Học viện Quản lý giáo
dục.
4.3. Đề xuất biện pháp tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong
giao tiếp của sinh viên lớp K5A khoa giáo dục – Học viện Quản lý giáo

dục.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tiến hành nghiên cứu tài liệu sách
báo liên quan đến việc tự rèn luyện kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao
tiếp, tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp hệ thống hóa, xây dựng thành cơ
sở lý luận của đề tài.
5.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Điều tra khả năng giao tiếp của
sinh viên lớp K5B nhằm mục đích làm rõ thực trạng việc tự rèn luyện kĩ năng
tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A khoa Giáo dục –
HVQLGD (Tiến hành xây dựng 1 phiếu hỏi cho sinh viên lớp K5A
5.3. Phương pháp quan sát: Quan sát tổng thể về lối sống, học tập, lao động…
của sinh viên lớp K5A nhằm thu thập thông tin cần thiết để đánh giá thực
trạng của việc rèn luyện kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp của sinh
viên lớp đó.
Quan sát, về lối sống, công việc học tập, mối quan hệ, mọi người xung
quanh… củamột số cá nhân cụ thể có khó khăn trong giao tiếp, đặc biệt là khó
khăn về kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu để có những định hướng phù hợp.
5.4. Phương pháp phỏng vấn: Đây là phương pháp được sử dụng trong suốt
quá trình làm đề tài, tiến hành gặp gỡ, trao đổi phỏng vấn sinh viên lớp K5A
Khoa Giáo dục – HVQLGD nhằm tìm hiểu thực trạng việc tự rèn luyện kĩ
năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp, thu thập những thông tin cần thiết
tới vấn đề nghiên cứu
3
5.5. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý
kiến của giảng viên hướng dẫn để hoàn thiện đề tài nghiên cứu.
5.6. Phương pháp thống kê toán học: Dùng phương pháp này để phân tích xử
lý các số liệu điều tra nhằm định hướng các kết quả nghiên cứu, thống kê tần
số, tính tỉ lệ %.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu và sử dụng các số liệu thu được sau khi khảo sát, phân tích

thực trạng của việc tự rèn luyện kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
của sinh viên lớp K5A khoa Giáo dục –Học viện Quản lý giáo dục. Từ đó đề
xuất biện pháp tự rèn luyện kỹ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp của
sinh viên lớp K5A khoa Giáo dục – Học viện Quản lý giáo dục nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả giao tiếp của sinh viên.
CẤU TRÚC CỦA KHÓA LUẬN
Chương 1: Cở lý luận của việc tự rèn luyện kỹ năng tạo ấn tượng
ban đầu trong giao tiếp của sinh viên
1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm giao tiếp
1.1.2. Khái niệm kĩ năng
1.1.3. Khái niệm ấn tượng ban đầu
4
1.1.4. Khái niệm tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong
giao tiếp
1.2. Một số vấn đề chung về giao tiếp
1.2.1. Đặc trưng giao tiếp
1.2.2. Nhu cầu giao tiếp
1.2.3. Đối tượng và phạm vi giao tiếp
1.2.4. Nội dung giao tiếp
1.3.Đặc điểm của ấn tượng ban đầu
1.4. Vai trò của ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
1.5. Nội dung tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng trong giao tiếp
của sinh viên
Chương 2: Thực trạng việc tự rèn luyện kỹ năng tạo ấn tượng ban
đầu trong giao tiếp của sinh viên khoa Giáo dục – Học viện Quản lý Giáo
dục
2.1. Một số đặc điểm khái quát về sinh viên khoa Giáo dục
2.1.1. Sinh viên khoa Giáo dục
2.1.2. Sinh viên lớp K5A

2.2. Thực trạng việc tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu
trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A
2.2.1. Thực trạng nhận thức của sinh viên lớp K5A về vai trò của kĩ năng
tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
2.2.2. Thực trạng trình độ kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong
giao tiếp của sinh viên lớp K5A
2.2.3. Thực trạng việc tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu
trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A
2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
Chương 3: Biện pháp tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu
trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A khoa Giáo dục – HVQLGD
3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban
đầu trong giao tiếp của sinh viên
3.2. Biện pháp tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp của
sinh viên lớp K5A khoa Giáo dục - HVQLGD
3.2.1. Rèn luyện kĩ năng chọn trang phục phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp
5
3.2.2. Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, đặc biệt là giao
tiếp lần đầu
3.2.3.Rèn luyện cách đặt vấn đề khi nói chuyện
3.2.4.Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp
3.2.5. Biện pháp xử lý tốt tình huống nảy sinh trong giao tiếp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỰ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
TẠO ẤN TƯỢNG BAN ĐẦU TRONG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN
1.1.Một số khái niệm công cụ
1.1.1.Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một phương thức tồn tại cơ bản của con người, do đó
những nghiên cứu về giao tiếp rất đa dạng và phong phú, bao trùm một phạm
vi tương đối rộng, từ lý luận đến những nghiên cứu thực nghiệm, xuất phát từ

nhiều quan điểm , quan niệm khác nhau.
Dưới quan điểm của các nhà tâm lý học hoạt động thì giao tiếp là một
quá trình thiết lập và thực thi mối quan hệ giữa người và người và trong quá
trình đó thì con người sáng tạo lẫn nhau.
Như vậy, bất kỳ một hoạt động giao tiếp nào cũng là mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể, trong giao tiếp mỗi người có động cơ
của riêng mình, thông qua các công cụ phương tiện, con người nhận thức
được về nhau, về thế giới xung quanh, tác động qua lại lẫn nhau để sáng tạo
ra nhau. Giao tiếp có bản chất xã hội, suy cho cùng, động cơ mục đích công
cụ, phương tiện giao tiếp đều do xã hội quyđịnh.
6
Ở Việt Nam vấn đề giao tiếp được nghiên cứu vào khoảng những năm
60, 70 của thế kỉ XX.
Tác giả Bùi Văn Huệ trong cuốn “TLH tiểu học” đã viết: Giao tiếp là sự tiếp
xúc giữa người với người, là hoạt động hình thành phát triển, vận hành quan
hệ người – người [12;78].
Trong cuốn “Luyện giao tiếp sư phạm” – Nguyễn Thạc – Hoàng Anh (1991)
sử dụng khái niệm “giao tiếp là sự tác động qua lại giữa con người trong đó
diễn ra sự tiếp xúc tâm lý, biểu hiện ở sự trao đổi thông tin rung cảm hiểu
biết, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau”. Có lẽ quan niệm này đã nêu bật
được bản chất và chức năng giao tiếp một cách rõ nét hơn.
Theo Nguyễn Quang Uẩn thì cho rằng “giao tiếp là hoạt động xác lập và vận
hành các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa
người với người. Các quan hệ này có thể diễn ra giữa hai người, giữa nhiều
người trong một nhóm hoặc cả một cộng đồng người.
Có thể nói đến nay TLH Việt Nam cũng chưa có một định nghĩa chung thống
nhất về giao tiếp. Trên đây là những quan niệm về giao tiếp của các tác giả
nước ngoài và Việt Nam, từ những quan niệm này tôi thấy khi nói về giao tiếp
phải bao hàm các nội dung cơ bản sau:
- Giao tiếp là quá trình con người ý thức được nội dung hình thức và

phương tiện cần đạt được khi tiếp xúc với người khác
- Giao tiếp diễn ra quá trình trao đổi thông tin, tư tưởng tình cảm, thế
giới quan và nhân sinh quan.
- Giao tiếp bao giờ cũng dẫn đến sự nhận thức và hiểu biết lẫn nhau
- Giao tiếp thể hiện mối quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội.
- Giao tiếp được tiến hành trong một thế giới nhất định và các diều kiện
cụ thể. Con người trong giao tiếp vừa là chủ thể, vừa là khách thể cảu giao
tiếp.
Từ cách hiểu về giao tiếp như vậy nên khi nghiên cứu đề tài này tôi đã sử
dụng khái niệm giao tiếp của tác giả B.B.Bogoxlovxki: Giao tiếp là sự tác
động qua lại giữa con người với con người trong đó diễn ra sự tiếp xúc tâm
7
lý, biểu hiện ở sự trao đổi thông tin , rung cảm lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau
và ảnh hưởng lẫn nhau.
Qua định nghĩa này chúng ta thấy giao tiếp là một hoạt động chỉ có ở con
người. Hoạt động này diễn ra trong mối quan hệ người – người nhằm mục
đích thiết lập sự tiếp xúc giữa con người với nhau, tạo sự hiểu biết lẫn nhau
làm thay đổi mối quan hệ giữa con người với con người, đồng thời còn tác
động đến thái độ, tình cảm, tri thức và toàn bộ nhân cách con người. Có thể
nói rằng giao tiếp là một trong những điều kiện thiết yếu cho sự tồn tại của
con người và của cả xã hội loài người.
1.1.2. Khái niệm kĩ năng
• Quan niệm triết học về kỹ năng
Theo quan điểm triết học, kỹ năng có cả ở người và động vật.Cơ chế
tâm lý của sự hình thành kỹ năng ở người và động vật là hoàn toàn tương tự
như nhau. Tuy nhiên kỹ năng của con người là có ý thức còn kỹ năng của
động vật là không có ý thức. Về bản chất, quan điểm Triết học xem xét kỹ
năng nghiêng về mặt kỹ thuật của hành động.Đó là những động tác máy móc,
do được lặp đi lặp lại nhiều lần mà thành. Đồng thời họ cũng khẳng định kỹ
năng chính là kết quả của hành động và có liên quan chặt chẽ với năng lực, là

điều kiện của hoạt động sáng tạo của con người.[1]
• Quan niệm tâm lý học về kỹ năng
Ở góc độ Tâm lý học, có rất nhiều các tác giả có nhiều cách diễn tả khái
niệm kỹ năng khác nhau. Tuy nhiên, có thể quy về hai quan niệm chính như
sau:
- Quan niệm thứ nhất:
Kỹ năng được coi là phương thức thực hiện hành động, phù hợp với mục
đích và điều kiện của hành động mà con người đã nắm vững. Người có kỹ
năng hoạt động nào đó là người nắm vững các tri thức về hoạt động đó và
thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà không tính đến kết quả của
hành động.
- Quan niệm thứ hai:
8
Quan niệm thứ hai xem xét kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của
hành động mà còn là sự biểu hiện năng lực của con người, đồng thời có tính
đến kết quả của hành động
• Các nhà biên soạn từ điển Giáo dục học đã phân biệt rõ kỹ năng
bậc 1 và kỹ năng bậc 2:
Kỹ năng bậc 1 là: “Khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù
hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho dù
hành động đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ.”
Kỹ năng bậc 2 là: “Khả năng thực hiện hành động một cách thành thạo,
linh hoạt, sáng tạo phù hợp với những mục tiêu trong các điều kiện khác
nhau.”[2]
Dù theo quan niệm nào thì khi nói đến kỹ năng đều phải quán triệt một
số điểm sau:
+ Mọi kỹ năng đều phải dựa trên cơ sở là tri thức. Muốn hành động hay
thao tác được trước hết phải có kiến thức về nó.
+ Nói tới kỹ năng của con người là nói tới hành động có mục đích, tức
là khi hành động con người luôn hình dung tới kết quả cần phải đạt được.

+ Để có kỹ năng con người cũng phải biết cách thức hành động trong
những điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự luyện tập nhất
định.
+ Kỹ năng liên quan mật thiết đến năng lực của con người. Nó là biểu
hiện cụ thể của năng lực
Với cách nhìn nhận như trên, có thể đi đến một cách hiểu chung, khái
quát về kỹ năng như sau:
Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng
cách vận dụng những tri thức,kinh nghiệm đã có để thực hiện hành động phù
hợp với những điều kiện nhất định.Kỹ năng không chỉ đơn thuần là mặt kỹ
thuật của hành động mà còn là biểu hiện về năng lực của chủ thể hành động.
[3]
1.1.3. Khái niệm ấn tượng ban đầu
9
Trong quá trình con người hoạt động và liên hệ với nhau thì nhận thức
về nhau là một yếu tố vô cùng quan trọng. Con người nhận thức về nhau nhờ
quá trình tri giác xã hội: họ quan sát, phân tích vẻ mặt, dáng điệu, lời ăn tiếng
nói, hành động… của nhau, để từ đó mà nhận thức được người khác. Từ nhận
thức đó mà chủ thể giao tiếp xác định những phương thức ứng xử của mình:
cách xưng hô, thái độ, cử chỉ hành vi cho phù hợp với đối tượng. Kết quả của
quá trình tri giác bị chi phối bởi nhiều yếu tố như ấn tượng ban đầu, sự quy
gán hành vi, các định kiến định khuôn khác nhau trong mỗi cộng đồng, mỗi
nền văn hóa.
Nói chung, tri giác của chúng ta về người khác thường dựa vào sự tìm
kiếm những ấn tượng phản ánh những đặc tính chủ yếu của nhân cách. Trong
quá trình tri giác đó thì những ấn tượng đầu tiên là rất quan trọng, nó thường
hay kéo dài và chi phối thái độ hành vi của chúng ta trong “phút đầu gặp gỡ”
hay “lần đầu tiên gặp gỡ”. Cần phải xác định rõ ở đây ấn tượng ban đầu là ở
“phút đầu gặp gỡ” hay “lần đầu tiên gặp gỡ”:
- Nếu hiểu ấn tượng ban đầu là ở “phút đầu gặp gỡ “thì có thể nói ở cuộc

gặp gỡ nào cũng có, dù cho hai bên đã quen biết nhau từ lâu, gặp gỡ nhiều lần
vẫn có những “ấn tượng của phút đầu gặp gỡ”, chẳng hạn khi bàn đến một
lĩnh vực mới mà cả hai bên chưa từng bàn, hai bên sẽ có những ấn tượng mới
mẻ về nhau, về sự am hiểu của nhau về lĩnh vực đó.
- Nếu hiểu ấn tượng ban đầu là ở “lần đầu tiên gặp gỡ” thì có thể nói đó
là những nhận xét, những dấu hiệu sơ khai ban đầu mà con người có được về
đối tượng (người khác) trong lần gặp gỡ đầu tiên. Nó là hình ảnh tâm lý về
tổng thể các đặc điểm diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt, nụ cười,
thái độ, trang phục mà con người có được về đối tượng (người khác) trong
lần tiếp xúc đầu tiên.
Có khá nhiều cách hiểu khác nhau về ấn tượng ban đầu. Theo Bùi Tiến Quý
cho rằng: Ấn tượng ban đầu là cái mà “khi gặp nhau đồng thời người ta vừa
10
nhận xét vừa đánh giá vừa có ác cảm hay thiện cảm ngay từ phút đầu tiên
không chờ phải nghiên cứu, khảo sát hay thí nghiệm lại những đánh giá ấy.
Hoặc một định nghĩa khác: “Ấn tượng ban đầu thường là một đánh giá một
hình ảnh, một nhận xét một thái độ về đối tượng được hình thành ngay từ phút
đầu gặp gỡ hay lần đầu tiên gặp gỡ”.
Hai định nghĩa này gần như tương tự nhau, đều chỉ ra nội dung cơ bản của ấn
tượng ban đầu là sự “nhận xét”, “đánh giá” và “thái độ” của chủ thể đối với
đối tượng. Với cách nhìn nhận như trên, có thể đi đến một cách hiểu chung,
khái quát về ấn tượng ban đầu như sau:
Ấn tượng ban đầu thường là một đánh giá một hình ảnh, một nhận xét
một thái độ về đối tượng được hình thành ngay từ phút đầu gặp gỡ hay lần
đầu tiên gặp gỡ. Nó là hình ảnh tâm lý về tổng thể các đặc điểm diện mạo, lời
nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt, nụ cười, thái độ, trang phục mà con người
có được về đối tượng (người khác) trong lần tiếp xúc đầu tiên.
1.1.4. Khái niệm tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao
tiếp
Ở khía cạnh là những người tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi đã tổng hợp

được một số nội dung cơ bản của việc tự rèn luyện như sau:
+ Để tự rèn luyện được thành công bản thân mỗi chủ thể phải thỏa mãn được
những điều kiện cụ thể: nhận thức được vai trò, ý nghĩa của việc cần rèn
luyện, phải thông qua những trải nghiệm khó khăn trong cuộc sống, biết nỗ
lực và vươn lên để đạt được kết quả cao.
+ Quá trình rèn luyện diễn ra từ dễ tới khó, từ đơn giản đến phức tạp, thể hiện
được sự bền bỉ và tập trung vào những vấn đề cốt lõi để đạt được những phẩm
chất hay trình độ ở mức độ nào đó
Từ cách nhìn nhận cụ thể như trên có thể đưa ra khái niệm tự rèn luyện như
sau:
Tự rèn luyện là quá trình tự bản thân tập luyện một cách thường xuyên
liên tục để tạo ra những kĩ năng kĩ xảo trong lĩnh vực, hoạt động nào đó.
Trên cơ sở khái niệm tự rèn luyện có thể đi tới khái niệm tự rèn luyện kĩ năng
tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp như sau:
11
Tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp là quá trình
tập luyện của bản thân một cách thường xuyên liên tục để tạo ra được ấn
tượng ban đầu tốt đẹp với người khác về các mặt: diện mạo, lời nói, cử chỉ,
tác phong, ánh mắt, nụ cười, thái độ, trang phục
1.2. Một số vấn đề chung về giao tiếp
1.2.1.Đặc trưng giao tiếp
- Giao tiếp mang tính bản chất xã hội. Bản chất xã hội thể hiện ở chỗ bất cứ
một giao tiếp nào cũng là một quan hệ xã hội, thông qua sự trao đổi, tiếp xúc
giữa con người với con người. Quá trình tiếp xúc này hình thành nên các
chuẩn mực, các giá trị, các nhu cầu, lợi ích… của xã hội cũng như nhóm xã
hội và cá nhân tham gia.Mặt khác mục đích, động cơ, phương tiện giao tiếp…
của mỗi cá nhân cũng đều do xã hội quy định, chế ước.
- Đặc trưng của giao tiếp xã hội là tính chủ thể trong giao tiếp.Quá trình giao
tiếp được thực hiện bởi những cá nhân cụ thể. Họ là chủ thể của sự trao đổi
hay tác động. Họ là các cặp chủ thể - đối tượng luôn đổi chỗ cho nhau, cùng

chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau, chính vì thế người ta nói giao tiếp là
một dạng đặc biệt của hoạt động, nó là một hoạt động mang cấu trúc kép.
- Trong quá trình giao tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên
cơ sở nhận thức người khác, theo cách này, họ có xu hướng tìm kiếm ở người
khác để xem ý kiến của mình có đúng không, có được thừa nhận không. Trên
cơ sở đó họ có sự điều khiển điều chỉnh hành vi của mình theo hướng tăng
cường hoặc giảm bớt sự thích ứng lẫn nhau.
- Thông qua giao tiếp xã hội, người ta trao đổi các kiến thức sự hiểu biết cho
nhau, truyền đạt các kinh nghiệm riêng của cá nhân cũng như kinh nghiệm
của loài người, như vậy thông qua giao tiếp con người nhận thức về nhau
đồng thời nhận thức về xã hội, nâng cao hiểu biết, phát triển thêm nhân cách
của mình.
- Trong giao tiếp xã hội diễn ra các cơ chế của ảnh hưởng xã hội như bắt
chước, lây lan, ám thị, thoả hiệp đồng nhất hoá, đặc biệt là sự lây lan, lan
12
truyền cảm xúc tâm trạng. Thông qua các cơ chế đó các chủ thể giao tiếp tác
động qua lại lẫn nhau chi phối ảnh hưởng lẫn nhau.
1.2.2. Nhu cầu giao tiếp
Nhu cầu là sự cần thiết tất yếu của con người trong những điều kiện
nhất định cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người
rất phong phú, không cố định luôn luôn phát triển và luôn có tính lịch sử xã
hội. Trong sự phong phú của nhu cầu con người, giao tiếp là một nhu cầu
quan trọng.
Các mác từng nói “nhu cầu vĩ đại nhất, phong phú nhất của con người là nhu
cầu về người khác.Nhu cầu này không ngang hàng với nhu cầu khác, sự phát
triển của nó trong một con người chính là một điều kiện làm cho con người
trở thành người”.Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu được thiết lập các mối quan hệ,
liên hệ với người khác.Những công trình nghiên cứu về giao tiếp trên thực tế
cũng chứng minh rằng sự giao tiếp không đủ về số lượng, nghèo nàn về nội
dung của trẻ nhỏ và người lớn đã để lại những hậu quả rất nặng nề, dẫn đến

bệnh “đói giao tiếp”. Theo M.M Selovannop: Những trẻ em lớn lên trong tình
trạng đói giao tiếp đều bị trì trệ rõ rệt trong sự phát triển tâm lý cũng như thể
chất của mình.
Theo B.Ph Lomov – vấn đề giao tiếp trong TLH: Nhu cầu giao tiếp có
liên quan đến các nhu cầu cơ bản của con người. Nó quy định hành vi của con
người không kém gì cái được gọi là nhu cầu sống. Điều đó là tự nhiên bởi
giao tiếp là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bình thường của con người
như thành viên của xã hội.
Như vậy, nhu cầu giao tiếp là nhu cầu cơ bản của con người. Suốt cuộc đời
con người từ lúc mới sinh ra đến lúc chết con người luôn tồn tại nhu cầu này.
Nó được coi như thuộc tính cơ bản của cá nhân, xác định thái độ của cá nhân
đối với hiện thực và trách nhiệm đối với bản thân.
1.2.3. Đối tượng và phạm vi giao tiếp
Theo PGS.TS Ngô Công Hoàn và PGS.TS Hoàng Anh thì đối tượng
giao tiếp là các thành viên trong nhóm xã hội (gia đình, xóm làng, phố
13
phường, các đoàn thể mà chúng ta tham gia ở đó).Đối tượng giao tiếp rất
rộng, đa dạng và vô cùng phong phú.Ở các lứa tuổi khác nhau, công việc và
hoàn cảnh khác nhau thì đối tượng giao tiếp sẽ khác nhau.Những người tham
gia vào quá trình giao tiếp thường tác động lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của
nhau về tâm lý ý thức.
Đối tượng giao tiếp đã quy định một phần nào đó về phạm vi giao tiếp. Nếu
đối tượng phong phú thì phạm vi sẽ được mở rộng như chúng ta có đối tượng
giao tiếp là bạn bè cùng trường, bạn bè khác trường, banh bè quốc tế thì
phạm vi giao tiếp rất rộng từ môi trường đại học này đến môi trường đại học
khác và xuyên quốc gia. Và ngược lại nếu đối tượng nghèo nàn thì phạm vi
giao tiếp sẽ hẹp lại.
Đối tượng và phạm vi giao tiếp có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu giao tiếp và
sự phát triển hoàn thiện nhân cách con người nói chung và tới sinh viên nói
riêng.

Đối tượng giao tiếp của SV rất rộng, có thể là bạn bè, thầy cô giáo, những
người mình quen và có thể những người mình không quen bởi vậy nên phạm
vi giao tiếp của sinh viên ngày càng được mở rộng: từ tiếp xúc với những
người thân trong gia đình đến thầy cô giáo, bạn bè ở trường học, các đồng
nghiệp trong một lĩnh vực ngành nghề nhất định.
Thực tế đã chứng minh: Giao tiếp trong môi trường nhà trường, môi trường
giáo dục giữa thầy với trò, giữa nhà giáo dục với người được giáo dục, giữa
những người được giáo dục với nhau giúp cho các cá nhân có thể lĩnh hội
được những tri thức cần thiết bằng con đường nhanh nhất trong khoảng thời
gian ngắn và đỡ tốn kém nhất từ đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự hình
thành và phát triển nhân cách.
1.2.4. Nội dung giao tiếp
Nội dung giao tiếp là những vấn đề mà chủ thể đề cập đến khi giao tiếp
với người khác. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình giao tiếp thể
hiện thông tin cần truyền đạt. Trong nội dung giao tiếp người ta thường chia
ra làm 2 loại: Nội dung tâm lý và nội dung công việc
14
 Nội dung tâm lý trong giao tiếp chia làm 3 thành phần cơ bản: nhận
thức, thái độ cảm xúc và hành vi
- Nhận thức: Ở bất kì cuộc giao tiếp nào giữa con người với con người
đều để lại trong chủ thể và đối tượng giao tiếp một phẩm chất nhất định về
nhận thức. Nội dung nhận thức trong giao tiếp rất phong phú, đa dạng và sinh
động. Thông qua giao tiếp người ta trao đổi vốn kinh nghiệm, tranh luận về
quan điểm thái độ. Sau mỗi lần giao tiếp mọi thành viên đều nhận thức thêm
được những điều mới mẻ, truyền đạt và lĩnh hội những tri thức về tự nhiên,
kinh tế - xã hội
- Thái độ cảm xúc: Từ thời điểm bắt đầu, diễn biến rồi kết thúc của quá
trình giao tiếp đều biểu hiện một trạng thái cảm xúc nhất định của chủ thể và
đối tượng giao tiếp. Trong giao tiếp ngoài sự định hướng về hình thức, nội
dung giao tiếp, con người bao giờ cũng thể hiện thái độ của mình trước khi

bắt đầu tiếp xúc như thiện chí, hữu nghị hay lãnh đạm, quan tâm hay thiếu
quan tâm.
- Hành vi là một nội dung tâm lý quan trọng trong quá trình giao tiếp. Nó
được biểu hiện qua hệ thống những vận động của đầu, chân tay, nét mặt, ngôn
ngữ, ánh mắt sự vận động của toàn bộ những bộ phận trên hợp thành hành
vi giao tiếp
 Nội dung công việc trong giao tiếp chỉ tính chất mối quan hệ xã hội.
nội dung công việc mang tính chất tạm thời, xảy ra trong mối quan hệ người –
người.
Như vậy, nội dung giao tiếp luôn được thể hiện ở bất kì một quá trình giao
tiếp nào, đó là một trong những đặc trưng của giao tiếp. Nội dung giao tiếp
chịu ảnh hưởng của lứa tuổi, nghề nghiệp giới tính của các chủ thể giao tiếp,
ngoài ra nó còn chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, điều kiện giao tiếp cũng như
trạng thái tâm lý của chủ thể.
1.3. Đặc điểm của ấn tượng ban đầu
Đặc điểm nổi bật của ấn tượng ban đầu là nó có được sau lần tiếp xúc
đầu tiên. Nghĩa là trong hoàn cảnh hai bên chưa hề quen nhau, chưa hề gặp gỡ
15
nhau một lần nào cả, có thể đã có một số thông tin về nhau hoặc thậm chí
chưa hề có một thông tin gì về nhau. Những thông tin này có được có thể
thông qua bạn bè, từ những người xung quanh (đôi khi có những trường hợp
hai bên đã biết khá rõ về nhau qua nghiên cứu hồ sơ). Trên cơ sở những thông
tin ấy, họ sẽ dùng làm cơ sở để đánh giá phân tích tổng hợp về đối tượng.Vì là
buổi tiếp xúc đầu tiên, thời gian chỉ giới hạn trong một buổi tiếp xúc mà chủ
thể có những ấn tượng rõ nét hay mơ hồ về đối tượng.
Ấn tượng ban đầu là những là những ấn tượng chung, tổng thể về đối
tượng, là những nét khái quát nhất về đối tượng chứ không phải là những nét
riêng lẻ về đối tượng, chẳng hạn đó không phải là một nụ cười rạng rỡ hay
một bộ dạng lôi thôi, mà là những nét khái quát nhất trên cơ sở ta nhìn nhận
toàn diện về họ, ví dụ như đó là một người cởi mở hay lạnh lùng, điềm đạm

hay nóng nảy, thông minh hay ngốc nghếch…Như vậy có thể nói ấn tượng
ban đầu mang tính khái quát cao, là những hình ảnh chung nhất về đối tượng
sau lần tiếp xúc đầu tiên.
Ấn tượng ban đầu mang tính chủ quan cảm tính. Đây cũng là một
nhược điểm khó tránh khỏi của ần tượng ban đầu. Do điều kiện thiếu thông
tin, thời gian tiếp xúc lại quá ngắn, cả hai bên sẽ không thể bộc lộ hết mọi tính
cách của mình, sẽ khó khăn hơn khi nhận diện đối tượng . Chỉ dựa vào sự
quan sát bề ngoài như trang phục, tác phong, cử chỉ, lời nói…. Rồi dựa vào
kinh nghiệm để phán đoán đối tượng sẽ không trách khỏi sự chủ quan phiến
diện. Trong khi đó đối tượng ở đây lại là con người, hết sức phức tạp, hành
động với những động cơ khác nhau, lời nói và suy nghĩ đôi khi không khớp
nhau, hòng đánh lừa sự cảm nhận của người khác, nhằm những mục đích này
hay mục đích khác. Do đó việc đưa ra những đánh giá về người khác tốt hay
không tốt, người này thông minh hay người kia ngây thơ… ngay từ buổi tiếp
xúc đầu tiênmột cách chính xác quả thật là rất khó. Cái khó không chỉ nằm
trong điều kiện chủ quan của người tri giác: kém nhạy cảm, ít kinh nghiệm, bị
16
chi phối bởi những động cơ khác nhau…nó còn nằm ở hoàn cảnh thiếu hụt
thông tin về đối tượng, gò bó về thời gian để quan sát đối tượng, và còn khó
hơn ở chỗ các đối tượng thường cố tình ngụy trang những khuyết điểm của
mình. thông thường những người nhạy cảm, những người có nhiều kinh
nghiệm trong giao tiếp thường có những ấn tượng ban đầu khá chính xác ,
hơn là những người ít va vấp từng trải trong giao tiếp.
Ấn tượng ban đầu thể hiện sự đánh giá, thái độ của chủ thể về đối
tượng. Thông thường ấn tượng ban đầu mang đậm màu sắc chủ quan, vì chủ
thể không có điều kiện soi xét đối tượng từ nhiều phía. Ấn tượng ban đầu
chứa đựng sự nhận thức về đối tượng, kèm theo đó là những xúc cảm, tình
cảm: quý mến hay gét, thích hay không thích, hài lòng hay không hài lòng.
Thì thái độ đó sẽ chi phối cách ứng xử của những quá trình giao tiếp về sau.
Nếu có ấn tượng ban đầu là tốt thì họ sẽ hào hứng tiếp tục quan hệ còn nếu

không thì quan hệ tiến triển sẽ rất khó khăn, hoặc không quan hệ nữa, vì
người ta thường tìm kiếm những thông tin phù hợp với thái độ sẵn có về đối
tượng
1.4. Vai trò của ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
Như đã phân tích, ấn tượng ban đầu là một hình ảnh tổng thể về người
khác trên cơ sở nhìn nhận họ một cách toàn diện từ hình dáng tác phong bề
ngoài cho tới đặc điểm nhân cách bên trong có được từ buổi tiếp xúc đầu tiên.
Do vậy ấn tượng ban đầu có vai trò rất quan trọng trong giao tiếp:
Thứ nhất: Ấn tượng ban đầu là những dấu hiệu sơ khai và chủ yếu là những
dấu hiệu bề ngoài nhưng chính nó lại là những tiền đề để hiểu, để phán đoán
và hành động với nội dung tâm lý bên trong của đối tượng giao tiếp.
Ấn tượng ban đầu là “cửa ngõ” quan trọng của quá trình giao tiếp. Trong cuộc
sống hàng ngày có vô số các cơ hội để gặp gỡ người này hay người khác, cho
nên nếu trong lần tiếp xúc đầu tiên mà đối tượng không gây được cảm tình
đối với ta thì sẽ khó có thể có lần giao tiếp tiếp theo và như vậy mối quan hệ
giữa hai người sẽ không thể thiết lập, nhưng nếu có ấn tượng tốt, người ta sẽ
17
có mong muốn được gặp lại đối tượng và như thế là một yếu tố quan trọng để
người ta xây dựng các mối quan hệ với nhau.
Thứ hai: Nó định hướng cho việc tìm kiếm những những thông tin về đối
tượng trong những cuộc giao tiếp tiếp theo, vì ấn tượng ban đầu cho ta ý niệm
chặt chẽ về đối tượng, nó là cơ sở để cho ta chọn lọc những thông tin phù hợp
với những gì ta đã biết về đối tượng và định giá những thông tin không phù
hợp
Thứ ba: Ấn tượng ban đầu giúp ta nắm bắt được những đặc trưng của người
khác, nắm bắt được những phản ứng của chúng ta và quyết định những hành
vi sắp tới mà không sợ mắc quá nhiều sai lầm. Ấn tượng ban đầu là hình ảnh
về đối tượng giao tiếp cho nên trước hết nó phụ thuộc vào đặc điểm của đối
tượng giao tiếp, đặc biệt là những đặc điểm bề ngoài như : đầu tóc, ăn mặc,
ánh mắt nhìn, nét mặt, nụ cười, tư thế, cử chỉ, điệu bộ, nói năng…

Thứ tư: Ấn tượng ban đầu bị chi phối bởi cảm xúc, do vậy nó ảnh hưởng đến
cách ứng xử về sau. Ấn tượng ban đầu mang đậm màu sắc chủ quan, kèm
theo đó là những xúc cảm, tình cảm: quý mến hay gét, thích hay không thích,
hài lòng hay không hài lòng. Thì thái độ đó sẽ chi phối cách ứng xử của
những quá trình giao tiếp về sau. Nếu có ấn tượng ban đầu là tốt thì họ sẽ hào
hứng tiếp tục quan hệ còn nếu không thì quan hệ tiến triển sẽ rất khó khăn,
hoặc không quan hệ nữa, vì người ta thường tìm kiếm những thông tin phù
hợp với thái độ sẵn có về đối tượng.
Thứ năm: Nếu như ấn tượng ban đầu không tốt, sẽ mất công sức để lấy lại
thiện cảm từ đối tượng giao tiếp.
1.5. Nội dung tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
của sinh viên
- Rèn luyện kĩ năng chọn trang phục phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể khi giao tiếp: ánh mắt, nụ
cười, nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, tác phong
18
- Rèn luyện kĩ năng bắt tay
- Rèn luyện kĩ năng lắng nghe
- Rèn luyện kĩ năng kiềm chế cảm xúc
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài chúng tôi nhận thấy:
Ấn tượng ban đầu thường là một đánh giá một hình ảnh, một nhận xét,
một thái độ về đối tượng được hình thành ngay từ phút đầu gặp gỡ hay lần
đầu tiên gặp gỡ. Nó là hình ảnh tâm lý về tổng thể các đặc điểm diện mạo, lời
nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt, nụ cười, thái độ, trang phục mà con người
có được về đối tượng (người khác) trong lần tiếp xúc đầu tiên.
Kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp nằm trong hệ thống các kĩ
năng giao tiếp nhưng lại là tiền để, cửa ngõ quan trọng của quá trình giao tiếp.
Muốn có một kĩ năng thành thạo để thiết lập nhiều mối quan hệ với người

khác thì cần phải có ý thức tự rèn luyện. Do vậy, tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn
tượng ban đầu trong giao tiếp là quá trình tập luyện của bản thân một cách
thường xuyên liên tục để tạo ra được ấn tượng ban đầu tốt đẹp với người khác
về các mặt: diện mạo, lời nói, cử chỉ, tác phong, ánh mắt, nụ cười, thái độ,
trang phục
Hiện nay, việc ứng dụng kĩ năng mềm vào trong cuộc sống cũng như
học tập đang rất được gia đình, nhà trường và xã hội coi trọng, kĩ năng tạo ấn
tượng ban đầu trông giao tiếp không là ngoại lệ. Tuy nhiên, việc tiếp cận và
19
nghiên cứu vấn đề này còn chưa được đầy đủ, toàn diện và sâu sắc.Học viện
Quản lý giáo dục đang trong những năm đầu đào tạo, đã đưa những phương
pháp dạy và học tích cực, lấy người học làm trung tâm, tuy vậy vẫn chưa đạt
kết quả cao.
Chính vì vậy, có thể nhận thấy một điều rằng công tác giáo dục và rèn
luyện kĩ năng sống, đặc biệt là kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
cho sinh viên là hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn và rất cần thiết, nhất là
những sinh viên năm thứ nhất. Trong chương 1 của đề tài, tác giả đã trình bày
một số vấn đề liên quan đến kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp làm
cơ sở lý luận. Trong chương 2 tiếp theo đây, tác giả sẽ trình bày thực trạng
việc tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp của sinh viên
lớp K5A – Học viện Quản lý Giáo dục.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC TỰ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TẠO ẤN TƯỢNG
BAN ĐẦU TRONG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN LỚP K5A – HỌC
VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
2.1. Một số đặc điểm khái quát về sinh viên khoa Giáo dục
2.1.1. Sinh viên khoa Giáo dục
Học viện Quản lý giáo dục là cơ sở giáo dục Đại học trực thuộc Bộ GD &
ĐT, được thành lập theo quyết định số 501/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Trường Cán bộ quản lý giáo dục và

đào tạo.
Sau hơn 33 năm xây dựng và phát triển, Học viện Quản lý giáo dục đã góp
phần xây dựng và phát triển hệ thống lý luận về khoa học QLGD Việt Nam;
tham mưu tư vấn và triển khai ứng dụng khoa học QLGD cho hệ thống các
trường, khoa làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ QLGD trong toàn quốc;
nghiên cứu đánh giá tác động của các chủ trương, chính sách và các giải pháp
đổi mới QLGD đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
20
Bắt đầu tuyển sinh đào tạo trình độ Đại học từ năm học 2007 – 2008, đến
nay số lượng sinh viên của Học viện khoảng hơn 1700 sinh viên, thuộc ba
Khoa: Quản lý (chuyên ngành Quản lý giáo dục), Giáo dục (chuyên ngành
Tâm lý – giáo dục học), Công nghệ thông tin (chuyên ngành Tin học ứng
dụng). Tuy vậy, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều thiếu thốn,
chưa đáp ứng tốt và đầy đủ nhu cầu đào tạo cũng như như cầu học tập của
sinh viên. Với diện tích phòng học khoảng 2500 m
2
(Diện tích phòng học/
Sinh viên = 1,2 m
2
), sinh viên vẫn phải chia ra học theo hai ca: sáng – chiều.
Trong đó, với Khoa Giáo dục, năm học 2011 – 2012 cũng là năm thứ năm
thực hiện nhiệm vụ tuyển sinh, đào tạo Cử nhân tâm lý giáo dục. Đến nay, số
lượng sinh viên trong khoa vào khoảng trên sinh viên với chất lượng đầu
vào từ 2 khối , C, D tương đối cao. Với nội dung chương trình tập trung
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của tâm lý và giáo dục học nên không tránh
khỏi mang nặng tính lý luận, lý thuyết, hàn lâm. Do đó, càng đòi hỏi sinh viên
trong khoa có thái độ tích cực, chăm chỉ, tâm huyết, tự học, tự nghiên cứu để
chiếm lĩnh tri thức. Tuy vậy, nhiều sinh viên trong khoa còn chưa yên tâm với
ngành học của mình, chưa có định hướng rõ ràng về nghề nghiệp trong tương
lai nên còn gây ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức, thái độ cũng như năng lực

học tập của mỗi sinh viên. Song không vì thế mà chất lượng học tập của sinh
viên Khoa Giáo dục kém đi, mà vượt lên những khó khăn đó, sinh viên trong
khoa luôn được đánh giá là có chất lượng học tập và rèn luyện khá cao (đặc
biệt là sinh viên TLGD khóa 1).
Học để chung sống là mục tiêu then chốt của Giáo dục hiện nay. Việc dạy
ở đại học là dạy cho sinh viên cách thức đi tới sự hiểu biết.Đứng trước xu thế
hội nhập sinh viên khoa Giáo dục còn phải trang bị cho mình những kĩ năng
sống cần thiết.Kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu nằm trong hệ thống các kĩ năng
giao tiếp, nhưng nó lại là cơ sơ và tiền đề cho quá trình giao tiếp. Để có được
sự thành thạo ấy đòi hỏi bản thân mỗi sinh viên phải tự rèn luyện và trau dồi
21
kiến thức cho mình. Sinh viên khoa Giáo dục rất tự tin, năng động nhưng vẫn
chưa có sự đồng bộ.Vậy làm thế nào để cải thiện tình trạng nêu trên?
2.1.2. Sinh viên lớp K5A
Lớp K5A nằm trong khoa Giáo dục của Học viện quản lý Giáo dục, là
những sinh viên năm thứ nhất của trường và tổng số học viên trong lớp là 51,
trong đó có 6 nam (chiếm 11,7%) và 45 nữ (chiếm 88,2%). Sinh viên trong
lớp đến từ khắp các tỉnh thành trong cả nước. Đa số sinh viên trong lớp là nữ,
cũng là đặc điểm chung của khoa Giáo dục. Đôi khi chính vì hoàn cảnh này
có ảnh hưởng tới tâm lý chung của các sinh viên trong lớp cũng như trong
khoa.
Lứa tuổi của các bạn sinh viên lớp K5A tập trung chủ yếu từ 18 – 19 tuổi,
xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau, có quá trình học tập, tu dưỡng đạo
đức khác nhau. Họ có một thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, luôn muốn
tự khẳng định, tự học, giao tiếp, kiếm sống theo cách riêng của bản thân.
Những yếu tố đó xuất hiện từ tuổi thiếu niên nhưng đến tuổi thanh niên mới
có cơ hội phát triển mạnh mẽ.Họ là những thế hệ trẻ và vừa bước chân vào
giảng đường đại học. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục
tính độc lập, tự chủ, năng động cho sinh viên, giúp sinh viên có khả năng
thích nghi nhanh với cuộc sống và sinh hoạt, học tập ở nhà trường. Tuy nhiên

đó cũng thể là khó khăn đối với một số sinh viên sống khép mình, sự thay đổi
môi trường sống làm cho họ bỡ ngỡ chưa kịp thời thích nghi được. Do vậy,
trước khi trang bị cho họ kiến thức chuyên môn cần phải trang bị cho họ
những kỹ năng sống cần thiết.
Học viện QLGD đang trong những năm đầu hoàn thiện về mọi mặt.Các
hoạt động chính khóa, ngoại khóa nhằm rèn luyện các kỹ năng mềm cho sinh
viên còn hạn chế. Mặt khác, chương trình đào tạo của Học viện hiện nay còn
nặng về lý thuyết, thời gian thực hành các kĩ năng nói chung không nhiều, đặc
biệt là kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp cho sinh viên. Đối với
22
sinh viên lớp K5A, là những sinh viên năm đầu càng cần phải có những kiến
thức cơ bản và khả năng ứng phó với những thay đổi, cám dỗ của cuộc sống
hội nhập. Xã hội hiện đại luôn nảy sinh những vấn đề phức tạp và những vấn
đề bất định đối với con người. Nếu con người không có năng lực để ứng phó
vượt qua những thử thách đó và hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp rủi ro.
Việc trang bị kiến thức về các kĩ năng sống cho sinh viên cần thiết càng trở
nên cấp thiết.
2.2. Thực trạng việc tự rèn luyện kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu
trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A
Để tìm hiểu về thực trạng việc tự rèn luyện kỹ năng tạo ấn tượng ban
đầu trong giao tiếp của sinh viên lớp K5A - HVQLGD, đề tài đã tiến hành
khảo sát 51 sinh viên tại lớp K5A kết quả khảo sát thu được như sau:
2.2.1. Thực trạng nhận thức của sinh viên lớp K5A về vai trò của kĩ năng
tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp
Mức độ nhận thức của sinh viên về vai trò của kỹ năng tạo ấn tượng
ban đầu trong giao tiếp thể hiện ở bảng 2.1 dưới đây:
Bảng 2.1: Nhận thức của sinh viên về vai trò của kỹ năng tạo ấn tượng
ban đầu trong giao tiếp
Stt
Vai trò

Mức độ
Rất quan
trọng
Quan
trọng
Bình
thường
Không
quan trọng
SL TL
%
SL TL
%
SL TL
%
SL TL
%
1 Là cơ sở, tiền đề cho quá trình
giao tiếp tiếp theo
35 68,6 12 23,5 4 7,9 0 0
2 Nó định hướng cho việc tìm
kiếm những những thông tin về
đối tượng trong những cuộc
giao tiếp tiếp theo
12 23,5 25 49,0 14 27,5 0 0
3 Ấn tượng ban đầu giúp ta nắm
bắt được những đặc trưng của
12 23,5 25 49,0 10 19,6 4 7,9
23
người khác

4 Ấn tượng ban đầu bị chi phối
bởi cảm xúc, do vậy nó ảnh
hưởng đến cách ứng xử về sau
11 21,6 23 45,1 15 29,4 2 3,9
5 Tạo được thiện cảm với đối
tượng giao tiếp
29 56,9 13 25,5 9 17,6 0 0
Qua bảng số liệu tổng hợp trên chúng tôi nhận thấy:
- Với nội dung là cơ sở, tiền đề cho quá trình giao tiếp tiếp theo
Có tới 35 sinh viên (chiếm 68,6%) đánh giá rằng vai trò này ở mức độ rất
quan trọng và 12 sinh viên (chiếm 23,5%) cho rằng quan trọng. Số sinh viên
cho rằng nội dung này bình thường chiếm tỉ lệ là 7,9% và không quan trọng
thì không có sinh viên nào chọn trong tổng số sinh viên trong lớp. Khi được
hỏi lý do bạn lại cho rằng nó rất quan trọng, có một vài ý kiến nêu ra là: Vì
trong giao tiếp nếu ngay từ đầu ta gây được ấn tượng tốt đẹp với đối phương
thì quá trình giao tiếp sẽ diễn ra suôn sẻ, thuận lợi. Ngược lại, nếu từ đầu tiếp
xúc mà để lại ấn tượng xấu thì quá trình giao tiếp tiếp theo sẽ gặp nhiều khó
khăn. Hoặc có bạn lại cho rằng để gây được thiện cảm với người khác ngay từ
đầu là rất khó nên nếu làm sai điều gì đó, gây ấn tượng không tốt thì sẽ mất đi
nhiều mối quan hệ. Như vậy có thể thấy nhận thức của sinh viên về nội dung
này là khá cao khi phần lớn sinh viên đều cho rằng vai trò này rất quan trọng.
- Với nội dungNó định hướng cho việc tìm kiếm những những thông tin
về đối tượng trong những cuộc giao tiếp tiếp theo
Có tỉ lệ 23,5% số sinh viên cho rằng nội dungNó định hướng cho việc tìm
kiếm những những thông tin về đối tượng trong những cuộc giao tiếp tiếp
theo với mức độ đánh giá rất quan trọng, 49% là quan trọng, và 27,5% số sinh
viên cho rằng nội dung này ở mức bình thường và không quan trọng thì cũng
không có sinh viên nào chọn, cho thấy sinh viên K5A cũng nhận thức khá tốt
về vai trò của kĩ năng tạo ấn tượng ban đầu trong giao tiếp, tuy nhiên chỉ có
sự thay đổi giữa 2 mức độ rất quan trọng và quan trọng.

- Với nội dung Ấn tượng ban đầu giúp ta nắm bắt được những đặc trưng
của người khác
24
Ở nội dung thứ baẤn tượng ban đầu giúp ta nắm bắt được những đặc
trưng của người khác khi chúng tôi đưa ra thì có tới 49% số sinh viên cho
rằng ở mức quan trọng và 23,5% số sinh viên cho rằng rất quan trọng, chỉ có
19,6% cho rằng bình thường và 7,9% số học viên cho rằng không quan trọng,
số học viên nhận thức được tầm quan trọng vẫn chiếm 2/3 trong tổng số sinh
viên trong lớp. Qua phỏng vấn một số thành viên trong lớp để tìm hiểu thêm
thông tin cũng như sự hiểu biết của họ về ấn tượng ban đầu, câu hỏi đặt ra tại
sao Ấn tượng ban đầu giúp ta nắm bắt được những đặc trưng của người
khác? Một số ý kiến cho rằng ngay từ đầu tiếp xúc ta có thể nhận ra người đó
cởi mở hay lạnh lùng, điềm đạm hay nóng nảy qua cách họ nói chuyện với
mình hay với người khác, đó là những nét đặc trưng về họ, do vậy mà yếu tố
này cũng quan trọng.
- Với nội dung Ấn tượng ban đầu bị chi phối bởi cảm xúc, do vậy nó ảnh
hưởng đến cách ứng xử về sau
Ở nội dung thứ tư Ấn tượng ban đầu bị chi phối bởi cảm xúc, do vậy nó
ảnh hưởng đến cách ứng xử về sau cũng có sư lựa chọn tương tự như các nội
dung trên. Tuy nhiên ở vai trò này mức độ bình thường lại được chọn nhiều
hơn mức độ rất quan trọng, chiếm tỉ lệ 29,4%. Khi được hỏi lý do bạn chọn
đáp án này thì họ trả lời rằng: Nhiều lý do cho rằng ấn tượng ban đầu bị chi
phối bởi cảm xúc là quan trọng vì cảm xúc, tâm trạng của mỗi người là khác
nhau, đồng thời do điều kiện thiếu thông tin, thời gian tiếp xúc lại quá ngắn,
cả hai bên sẽ không thể bộc lộ hết mọi tính cách của mình, sẽ khó khăn hơn
khi nhận diện đối tượng . Chỉ dựa vào sự quan sát bề ngoài như tác phong, cử
chỉ, lời nói…. Rồi dựa vào kinh nghiệm để phán đoán đối tượng sẽ không
tránh khỏi sự chủ quan phiến diện. Các bạn cũng chia sẻ là chính bản thân
mình đã gặp những tình huống do không làm chủ được cảm xúc, tâm trạng
mà làm ảnh hưởng tới quá trình giao tiếp, ví dụ hôm đó có chuyện không vui

lại bực tức trong lòng mà đi gặp ai đó, nét mặt cũng khó mà thân thiện, cởi
mở được. Do đó việc đưa ra những đánh giá về người khác tốt hay không tốt,
hay người này là thông minh người kia là ngây thơ… ngay từ buổi tiếp xúc
đầu tiên một cách chính xác quả thật là rất khó. Cái khó không chỉ nằm trong
điều kiện chủ quan của người tri giác: kém nhạy cảm, ít kinh nghiệm, bị chi
25

×