Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình, sách giáo khoa môn toán tiểu học cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.91 KB, 93 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Trờng đại học vinh
Khoa giáo dục
--------------

NGUYễN THị sao

Quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích chơng trình, sách
giáo khoa môn toán tiểu học cho sinh viên
ngành giáo dục tiểu học
Khóa luận tốt nghiệp đại học

Giáo viên hớng dẫn: TS. Nguyễn Thị Châu Giang

Vinh - 2011

1

Sinh viờn: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Khoá luận tốt nghiệp

LờI NóI ĐầU
Mi mụn hc TH đều góp phần vào việc hình thành và phát triển
nhân cách tồn diện của con người. Trong các mơn ở TH, Tốn là một mơn
học có vị trí rất quan trọng. Vậy nhưng việc hình thành, rèn luyện các kĩ năng
còn hạn chế đối với các bạn SV ngành GDTH. Trong đó cần kể tới kĩ năng
phân tích chương trình, SGK mơn Tốn TH cho SV.
Là một GVTH tương lai tơi và các bạn cần phải trang bị cho mình


những kiến thức, kĩ năng để bước vào đời. Vì vậy, tôi quyết định lựa chọn và
nghiên cứu đề tài “Tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình, SGK mơn
Tốn TH cho SV”. Trong suốt thời gian ngắn, bắt đầu bước vào việc lựa
chọn đề tài nghiên cứu, TS. Nguyễn Thị Châu Giang là người đã giúp tôi đi
từng bước chắc chắn đến cái đích của đề tài. Thành cơng trong đề tài này
cịn có sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cơ giáo trong khoa Giáo
dục, các bạn SV lớp 48A – TH. Qua đây, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
và lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Nguyễn Thị Châu Giang, các thầy cô
giáo khoa Giáo dục và các bạn SV lớp 48A – TH đã giúp đỡ tôi trong thời
gian qua.
Đề tài này chúng tôi đã nghiên cứu rất công phu, tất nhiên sẽ khơng
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì thế, chúng tơi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn.
Xin chõn thnh cm n!
Tỏc gi

PHầN Mở ĐầU
2

Sinh viờn: Nguyn Th Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

1. Lý do chọn đề tài
Để phù hợp với chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ trong trường
đại học thì yêu cầu đặt ra đối với người học đó là: Cần phát huy cao độ năng
lực tự rèn luyện nhằm hình thành các kiến thức, kĩ năng cơ bản và cần thiết.
Với xu thế chung hiện nay của Giáo dục thế giới và Giáo dục Việt Nam
là tích cực hố các hoạt động mang tính tự giác, tích cực trong việc rèn luyện

các kĩ năng phân tích, tìm hiểu, giải quyết vấn đề…Nhưng để đạt được những
mục tiêu đó địi hỏi người học phải làm việc một cách nghiêm túc, độc lập,
sáng tạo. Bởi những gì mà người học tự mình tìm kiếm, khai thác sẽ hình
thành những kĩ năng mới và có khả năng nắm vững kiến thức tốt hơn. Từ đó,
địi hỏi người học cần tạo ra một thói quen làm việc tốt, khoa học, có ý thức
kỉ luật cao.
Qua nghiên cứu quá trình học tập của SV, chúng tơi nhận thấy điểm
chung đa số các bạn đều cho rằng: “Hoạt động tự rèn luyện các kĩ năng là rất
cần thiết”. Tuy nhiên, bất cập đáng kể của vấn đề là ở chỗ: “Hầu hết SV
ngành GDTH không mấy hứng thú đối với những hoạt động tự rèn luyện của
các môn học thuộc lĩnh vực Toán và phương pháp dạy học (PPDH) toán”.
Cũng xuất phát từ một trong những nguyên nhân như thế, nên kết quả học tập
các môn học thuộc lĩnh vực này không mấy khả quan, tỉ lệ phần trăm sinh
viên trong mỗi lớp học phần có điểm số trung bình và dưới trung bình vẫn xảy
ra nhiều. Mặt khác, các bạn cho rằng bản thân mình khơng có khả năng tiếp
thu, không thể học tập tốt những môn học này.
Bên cạnh đó, việc tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình, SGK
cho SV ngành GDTH ở trường đại học đều chưa có hệ thống, đồng bộ theo
quy trình các bước cụ thể. SV chỉ biết thực hiện dựa trên yêu cầu, sự hướng
dẫn của giảng viên và chỉ được thực hiện trong hoặc sau khi học xong các
môn học thuộc lĩnh vực tốn. Vì thế, kĩ năng này chưa được mang đúng nghĩa
3

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

của nó là tự rèn luyện hay nói cách khác SV chưa ý thức, tự giác trong việc
tìm hiểu chương trình, SGK.

Song song với mơn Tiếng Việt ở TH thì mơn Tốn cũng khơng kém
phần quan trọng, là một trong những mơn học chiếm vị trí hàng đầu của bậc
TH. Vì vậy, người GVTH cần phải rèn luyện tốt và phát triển các kĩ năng dạy
học môn Tốn. Một trong những kĩ năng dạy học mơn Tốn đáng quan tâm và
khá phức tạp đó chính là kĩ năng phân tích chương trình, SGK mơn Tốn TH.
Bởi đây là kĩ năng địi hỏi người tìm hiểu chương trình, SGK phải biết rõ và
hiểu được dụng ý của các nhà biên soạn sách; nội dung trình bày trong
chương trình, SGK mơn Tốn TH muốn cung cấp những kiến thức, kĩ năng
nào cho đối tượng nhận thức là các em HSTH.
Cũng chính vì những lí do trên mà chúng tơi quyết định lựa chọn đề tài
“Quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình, sách giáo
khoa(SGK) mơn Tốn tiểu học(TH) cho SV ngành GDTH”. Mong muốn
của chúng tôi khi xây dựng đề tài này là nhằm giúp các bạn SV ngành GDTH
có những suy nghĩ tích cực về việc tự rèn luyện các kĩ năng, đặc biệt là kĩ
năng phân tích chương trình, SGK mơn Tốn TH. Đồng thời làm tăng thêm
hứng thú học tập các môn học thuộc lĩnh vực Tốn và góp phần đưa chất
lượng giáo dục đào tạo giáo viên tiểu học (GVTH) ở bậc đại học đạt hiệu quả
cao hơn.
2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình rèn luyện các kĩ năng trong dạy học toán của SV ngành
GDTH trong hệ thống đào tạo theo tín chỉ.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung và quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình,
SGK mơn Tốn TH của SV ngành GDTH.
4

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học



Kho¸ ln tèt nghiƯp

3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung và quy trình tự rèn luyện
kĩ năng phân tích chương trình, SGK mơn Toán TH cho SV ngành GDTH
trường Đại học Vinh.
4. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các nội dung tự rèn luyện cơ bản, cần thiết về kĩ năng
phân tích chương trình, SGK mơn Tốn TH mà SV ngành GDTH cần phải
thực hiện.
- Đề xuất được quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình,
SGK mơn Tốn TH mang tính hiệu quả và khả thi cao, nhằm góp phần nâng
cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho SV ngành GDTH trong đào tạo theo
học chế tín chỉ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
5.2. Đề xuất nội dung và quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương
trình, SGK mơn Tốn TH cho SV.
5.3. Thử nghiệm sư phạm để bước đầu khẳng định tính khả thi của quy trình
được đề xuất.
6. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu đưa ra được quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình,
SGK mơn Tốn TH cho SV ngành GDTH một cách khoa học, có tính khả thi,
sẽ giúp SV biết định hướng rõ ràng, cụ thể hơn trong quá trình học tập, nghiên
cứu. Đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng rèn luyện kĩ năng dạy học toán
cho SV trong trường đại học theo hệ thống tín chỉ.
7. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu mà lựa chọn các
phương pháp nghiên cứu chính như sau:
5


Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát sư phạm: thu thập thông tin từ các hoạt động
tự rèn luyện của SV.
- Phương pháp điều tra (ankét): dựa trên một số câu hỏi bằng văn bản
để điều tra.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm sư phạm: phân tích từ cơ sở thực
tiễn giáo dục và cơ sở lí luận của vấn đề.
- Phương pháp thử nghiệm sư phạm: thử nghiệm trên các đối tượng để
kiểm chứng tính hiệu quả và khả thi cho quy trình xây dựng.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: để đề xuất quy trình và triển
khai thử nghiệm.
- Phương pháp thống kê tốn học: Sử dụng cơng thức tốn học để xử lí
các số liệu từ kết quả điều tra thực trạng và thử nghiệm..
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: tìm hiểu từng nội dung nghiên
cứu cụ thể để từ đó nắm được tồn bộ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp giả thuyết: dựa trên sự tiên đốn để có thể đưa ra quy
trình thực hiện đạt hiệu quả.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đóng góp quan trọng nhất của đề tài:
8.1. Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề về mặt lí luận và thực tiễn trong
việc áp dụng quy trình rèn luyện này vào quá trình tự rèn luyện của SV. Trên
cơ sở đó, giúp SV ý thức được tầm quan trọng của việc phân tích chương
trình, SGK mơn Tốn TH trong q trình học tập ở trường đại học.

8.2. Đề xuất nội dung hoạt động trong quy trình tự rèn luyện kĩ năng phân tích
chương trình, SGK mơn Tốn TH cho SV và thử nghiệm tính khả thi, hiệu

6

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

quả của quy trình khi được vận dụng trong quá trình đào tạo GVTH ở các
trường đại học.

PHÇN NéI DUNG
CHƯƠNG 1:
7

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
So sánh nền giáo dục bậc đại học của các nước phát triển trên thế giới
thì chúng tơi nhận thấy giáo dục đại học ở Việt Nam chưa chú trọng vào các
hoạt động rèn luyện và tự rèn luyện kĩ năng cho người học. Vấn đề mà xã hội
quan tâm đó là “Chúng ta không thiếu việc làm mà đang thiếu SV làm được
việc”. Muốn làm tốt cơng việc địi hỏi SV phải có các kĩ năng cơ bản. Đây là
một trong những hạn chế nhất định, vì giáo dục bậc đại học ở Việt Nam chưa

thực sự quan tâm tới việc hình thành, phát triển một số kĩ năng quan trọng cho
SV sau khi tốt nghiệp chương trình đào tạo. Hạn chế hiện nay, SV sau khi tốt
nghiệp ra trường với một thực tại thiếu kiến thức và yếu về kĩ năng.
Khi tiếp cận với nền giáo dục các nước tiên tiến trên thế giới như Mĩ,
Australia, Pháp, Anh…thì gần đây một số trường đại học ở Việt Nam đã có
sự thay đổi về hình thức và chất lượng giáo dục, đào tạo. Kèm theo đó là sự
bình đẳng hố các hoạt động dạy và hoạt động học, hai hoạt động này không
bị ràng buộc với nhau như cách học truyền thống trước đây nữa. Chúng ta có
thể hình dung cả hai hoạt động cùng thực hiện song song nhưng độc lập với
nhau. Với hình thức đào tạo này giúp người học hồn tồn chủ động trong
việc học của mình, đồng thời hình thành, rèn luyện và tự rèn luyện được một
số kĩ năng quan trọng và cần thiết cho người học.
Đáp ứng với nhu cầu xã hội và đơn đặt hàng của nền giáo dục nước nhà
ngày một phát triển, đồng thời đảm bảo được tình hình đổi mới chất lượng
đào tạo GVTH. Hiện nay, đã có nhiều cơng trình khoa học liên quan tới vấn
đề rèn luyện và tự rèn luyện các kĩ năng cho SV ngành GDTH nghiên cứu
việc hình thành kĩ năng dạy học mơn Tốn TH, PP dạy học Toán, kĩ năng SP

8

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

chuẩn nghề nghiệp GVTH, quy trình rèn luyện kĩ năng dạy học Toán cho SV
ngành GDTH…
Cụ thể, tại trường Đại học Vinh đã có một số đề tài nghiên cứu cấp Bộ, nhiều
luận án, cơng trình nghiên cứu về việc rèn luyện kĩ năng dạy học các môn học
ở TH như:

- Xây dựng nội dung và quy trình rèn luyện kĩ năng dạy học mơn Đạo đức
cho SV ngành GDTH, Đề tài cấp Bộ, 2008 của tác giả Phạm Minh Hùng.
- Rèn luyện kĩ năng dạy học các môn về Tự nhiên – Xã hội cho SV ngành
GDTH Trường Đại học SP, Đề tài cấp Bộ, 2007 của tác giả Nguyễn Thị
Hường.
- Hình thành kiến thức và kĩ năng dạy học Mỹ thuật cho SV ngành GDTH, Đề
tài cấp Bộ, 2009 của tác giả Nguyễn Hữu Dỵ.
- Rèn luyện các kĩ năng dạy học môn Tiếng Việt cho SV ngành GDTH, Đề tài
cấp Bộ, 2010 của tác giả Chu Thị Thủy An…
Hay như:
- Luận án của tác giả Nguyễn Như An: “ Hệ thống kĩ năng dạy học trên lớp về
mơn Giáo dục học và quy trình rèn luyện kĩ năng đó cho SV khoa Tâm lí –
Giáo dục”.
- Tác giả Phan Quốc Lâm đã xây dựng nội dung, quy trình hình thành kĩ năng
SP theo Chuẩn nghề nghiệp cho SV ngành GDTH qua hoạt động RLNVSP
thường xuyên.
Đặc biệt, trong một số tạp chí Giáo dục cũng đã đăng tải nhiều vấn đề nghiên
cứu liên quan tới đề tài như:
- Chu Thị Thuỷ An, Tổ chức rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình mơn
Tiếng Việt cho SV ngành GDTH, tạp chí Giáo dục số 228, kì 2, tháng 12/
2009.

9

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

- Nguyễn Bá Minh, Kĩ năng dạy học mơn Tốn, tạp chí Giáo dục số 192,

tháng 6/ 2008.
Như vậy, qua tìm hiểu chúng tơi thấy đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu,
thực sự quan tâm đến các kĩ năng SP cho SV ngành GDTH. Tuy nhiên, chưa
có một cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề hình thành các kĩ năng
dạy học cụ thể của mơn Tốn - một mơn học đóng vai trị quan trọng trong
chương trình giáo dục cấp TH.
Cụ thể hơn, trong hệ thống các đề tài nghiên cứu về kĩ năng dạy học
Tốn đã có nhiều đề tài đề cập tới kĩ năng phân tích chương trình, SGK mơn
Tốn TH nhưng chưa đưa ra được quy trình cụ thể để hướng dẫn SV tự rèn
luyện. Song, phân tích chương trình, SGK là kĩ năng quan trọng trong hệ
thống kĩ năng dạy học mơn Tốn TH và là kĩ năng cơ bản của quá trình đào
tạo GVTH đạt chuẩn hiện nay. Nó khơng phải là một vấn đề mới đối với đề
tài nghiên cứu khoa học. Kĩ năng này xuất hiện trong các đề tài nghiên cứu
với các môn học ở TH như: Tiếng Việt, Khoa học, Tự nhiên – xã hội,…nhưng
chưa xuất hiện đối với mơn Tốn. Trong khi mơn Tốn rất cần đến kĩ năng
này, địi hỏi SV phải biết khám phá tri thức từ chương trình, SGK mơn Tốn
TH để phân tích được nội dung cụ thể trong chương trình, SGK. Từ đó, nắm
vững tư tưởng chỉ đạo của chương trình để đi đúng hướng theo tư tưởng đó.
Hiện nay, trong điều kiện đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại
học Vinh rất cần thiết phải xây dựng được một quy trình rèn luyện các kĩ
năng dạy học của mơn Tốn theo Chuẩn nghề nghiệp với những nội dung cụ
thể, nhưng phải cơ động, linh hoạt giúp người học có thể thực hiện được với
các nhu cầu học tập khác nhau.
Đề tài này đóng góp một phần yêu cầu đặt ra của người học, và rèn
luyện một kĩ năng dạy học Toán quan trọng cho người GVTH tương lai đó là

10

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học



Kho¸ ln tèt nghiƯp

kĩ năng phân tích chương trình, SGK mơn Tốn nhằm góp phần tạo ra sản
phẩm đào tạo đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn GDTH hiện nay.
Tuy nhiên, việc phân tích chương trình, SGK là một hoạt động diễn ra
khá phức tạp và gặp nhiều lúng túng nếu như người học khơng có một quy
trình rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình, SGK cụ thể. Mặt khác, các kĩ
năng dạy học còn đang được nghiên cứu ở mức độ khái quát, chưa đi sâu vào
các bước thực hiện cụ thể để giúp người học tự rèn luyện một kĩ năng nào cả.
Bên cạnh đó, vấn đề tự rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình, SGK mơn
Tốn TH cho SV ngành GDTH là rất cần thiết mà chưa có một cơng trình
khoa học nào đề cập tới. Vậy nên, trong một thời lượng nghiên cứu ít ỏi
chúng tôi xin đưa ra một số nội dung cơ bản trong quy trình tự rèn luyện kĩ
năng phân tích chương trình, SGK mơn Tốn TH cho SV ngành GDTH để
gợi ý và giúp các bạn có định hướng làm việc hiệu quả hơn trong quá trình
học tập.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Kĩ năng
Có rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học đưa ra khái niệm về kĩ năng.
Dưới những góc độ khác nhau thì có những quan niệm khác nhau. Tuy nhiên,
bản chất của các khái niệm đều có chung nhận định về nội dung. Sau đây,
chúng tôi xin đưa ra một số quan niệm về kĩ năng như sau:
Kĩ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân hoặc
nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết vấn đề hay thực hiện một
nhiệm vụ nào đó trong cơng việc và cuộc sống.
Kĩ năng là một khái niệm khá phức tạp, xung quanh khái niệm này có
nhiều định nghĩa khác nhau. Có tác giả cho rằng kĩ năng là sự biểu hiện kết

11


Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

quả thực hành hành động trên cơ sở tri thức đã có. Kĩ năng là tri thức trong
hành động.
Kĩ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức, PP) để
giải quyết một nhiệm vụ mới, tình huống mới có bản chất với tình huống điển
hình nhưng bị che lấp bởi những yếu tố khơng bản chất, khơng quan trọng,
nói cách khác kĩ năng là con đường, cách thức để tri thức lí thuyết trở lại với
thực tiễn.
Kĩ năng bao giờ cũng gắn với một hành động hay một hoạt động nào đó
bằng cách lựa chọn và vận dụng những kinh nghiệm đã có để thực hiện hành
động đó phù hợp với những mục tiêu và những điều kiện thực tế đã cho.
Khái niệm kĩ năng có thể hiểu trên cơ sở các quan niệm về hoạt động,
hành động, thao tác.

 Như vậy, kĩ năng như là trình độ, khả năng vận dụng kiến thức đã
tiếp thu được để giải quyết một nhiệm vụ, thực hiện một cơng việc nào đó ở
một cấp độ tiêu chuẩn xác định. Giữa việc tiếp thu kiến thức và việc hình
thành kĩ năng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc tiếp thu kiến thức sẽ
tạo nên cơ sở, nền tảng cho việc hình thành kĩ năng cho nên kĩ năng cũng có
thể được hiểu là sự thể hiện của kiến thức trong hành động.
Tóm lại, khi kĩ năng tự hình thành và phát triển sẽ làm sâu sắc hơn sự hiểu
biết về kiến thức của người tiếp thu tri thức.
1.2.2. Kĩ năng phân tích chương trình, SGK
Ngay trong q trình học tập, SV phải nắm được tồn bộ chương trình,
SGK mơn Tốn TH từ mức độ khái qt đến cụ thể thơng qua việc tìm hiểu

và phân tích chương trình, SGK.
Chương trình là cách trình bày một kế hoạch tổng thể các hoạt động
giáo dục theo hệ thống nhất định được quy định rõ về thời gian. Trong đó, nêu
các mục tiêu học tập mà người học cần đạt, đồng thời xác định rõ phạm vi,
12

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

mức độ nội dung học tập, các PP, phương tiện, cách thức tổ chức và cách
đánh giá kết quả học tập… nhằm đạt được mục tiêu học tập đã đề ra.
SGK được biên soạn, thử nghiệm, điều chỉnh, hồn thiện theo chương
trình, chuẩn kiến thức và kĩ năng của mơn học. SGK chính là tài liệu, trong đó
trình bày các nội dung kiến thức một cách chi tiết, nó vừa là tài liệu nghiên
cứu và cũng là tài liệu học tập nhằm cung cấp những chuẩn kiến thức, kĩ năng
cho từng bài học.
Theo như Đ. Đ. Zuep cho rằng: “SGK là nguồn tri thức quan trọng nhất
đối với HS; là loại sách học tập phổ biến; là phương tiện mang nội dung học
vấn và là phương tiện dạy học giúp HS lĩnh hội tài liệu học tập”. Vì vậy, SV
cần tạo một thói quen nghiên cứu SGK, nghiên cứu tài liệu để khi tiếp cận
vào trong quá trình học tập sẽ dễ dàng thực hiện tốt các hoạt động tự rèn
luyện của bản thân.
Kĩ năng phân tích chương trình, SGK là kĩ năng tìm hiểu, khai thác
chương trình, SGK để nắm vững mức độ khái quát đến cụ thể về mục tiêu,
cấu trúc nội dung, cơ sở tốn học trong từng dạng bài. Từ đó, xây dựng mục
tiêu, nội dung, PP sư phạm, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức hoạt
động dạy học và đánh giá kết quả học tập của từng bài học cụ thể được quy
định trong chương trình, SGK.

Khả năng khai thác, tìm hiểu chương trình và các nội dung dạy học
mơn Tốn ở TH trong SGK nhằm thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ dạy và học
giúp GVTH biết cách hướng dẫn HS nắm vững kiến thức cơ bản, tối giản và
hình thành các kĩ năng phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ năng mơn Tốn TH.
Phân tích chương trình, SGK là kĩ năng quan trọng trong hệ thống kĩ
năng cần thiết của giáo viên. Hiệu quả của quá trình dạy học phụ thuộc nhiều
vào việc giáo viên có nắm vững được tư tưởng chỉ đạo của chương trình,
SGK mơn học hay không? và hiểu được cơ sở bài học mà đưa ra nội dung,
13

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

PP, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học và quá trình kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập theo quy định của chương trình.
1.2.3. Tự rèn luyện
“Học để hành; học và hành phải đi đôi. Học mà khơng hành thì vơ ích;
hành mà khơng học thì hành khơng trơi chảy” (Hồ Chí Minh).
Hoạt động nhận thức của con người cần phải được hình thành và phát
triển theo hướng tích cực thơng qua các hành động có ý thức, đó chính là nhờ
vào mối quan hệ giữa việc học trên lí thuyết cụ thể và hoạt động thực hành.
Nếu chỉ dựa vào lí thuyết sng mà khơng có hành động cụ thể thì người học
sẽ qn ngay kiến thức đã được cung cấp. Mà hoạt động thực hành khó có thể
tiến hành được ngay ở trên lớp học. Như vậy, đòi hỏi người học cần phải tạo
được thói quen tự nghiên cứu và tự rèn luyện vào trong q trình tự học để
củng cố kiến thức lí thuyết đã học.
G.S Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp và các phẩm chất khác

của người học cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm
lĩnh tri thức nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành sở hữu của chính
mình”.
Tác giả Đặng Thành Hưng cũng có quan niệm rằng: “Tự học là học với
sự tự giác, tích cực và độc lập cao, trong học bao giờ cũng có tự học, hoạt
động tự học của HS là quá trình chủ động, tự học của người học nhằm nắm
bắt tri thức và các kĩ năng, kĩ xảo. Nếu cá nhân nào đó thực sự trở thành chủ
thể học thì đồng thời người ấy cũng là người tự học”.
Tự học, tự nghiên cứu hay tự rèn luyện đều xuất phát từ mục tiêu phát
triển sự tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Đã có rất nhiều tác giả đưa
ra các quan điểm đề cập tới các vấn đề trên. Đúng như, K.D Usinxki nói: Chỉ
có cơng tác tự học của HS mới tạo điều kiện cho việc thông hiểu tri thức”.
14

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

Thực tiễn đã chứng minh rằng, chỉ có tự học với sự nổ lực cao, tư duy sáng
tạo mới tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức sâu sắc, mới hiểu rõ được bản
chất chân lí đúng đắn. Mặc dù điều kiện khách quan đều thuận lợi nhưng
khơng có sự nổ lực của người học thì kết quả học tập sẽ không cao.
Hay như, A.D. Xtecvec đã từng nói: “Nếu chỉ có sự truyền thụ tài liệu
của giáo viên mà thơi, dù có nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không thể
đảm bảo được sự lĩnh hội của kiến thức, sự lĩnh hội chân lí, cái đó phải tự
người học lĩnh hội bằng trí tuệ bản thân”. Trong quá trình tự học sẽ xuất hiện
quá trình tự rèn luyện của người học. Quá trình tự rèn luyện một kĩ năng hay
hoàn thành một nhiệm vụ nào đó như một phạm trù nhỏ hơn trong q trình
tự học.

Kĩ năng khơng thể tự nhiên hình thành, mà nó phải được rèn luyện.
Rèn luyện kĩ năng phân tích chương trình, SGK là rèn luyện ở SV một hệ
thống các hoạt động, các thao tác đảm bảo cho SV thực hiện một cách có hiệu
quả việc nắm tri thức khoa học đã được lĩnh hội ở trường đại học để vận dụng
vào phân tích nội dung chương trình, SGK. Từ đó, SV tự xác định được
những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất cần được hình thành trong quá trình
nghiên cứu tài liệu.
Nhiệm vụ của giáo dục hiện nay là lấy người học làm trung tâm, người
học không thể biến mình thành một bản sao tri thức. Mà tự mình phải có khả
năng độc lập, sáng tạo làm việc để khám phá tài nguyên vô tận của nguồn
khoa học. Như vậy, đòi hòi người học phải biết tự rèn luyện kĩ năng lao động
khoa học.
Tự rèn luyện là cách thức tự giác làm việc độc lập có sự sáng tạo để
rèn luyện một kĩ năng nào đó trong một thời gian cụ thể của quá trình học
tập. Người học tự lập ra một kế hoạch rõ ràng để thực hiện một loạt các hành
động nhằm hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra đạt hiệu quả cao.
15

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

Nhờ có q trình tự học, tự rèn luyện con người mới có được kiến thức
làm nền tảng nảy sinh hứng thú hành động, say mê tìm tịi, khám phá nền
khoa học, làm tăng hiệu quả cơng việc và tạo ra sản phẩm cho cuộc sống. Tự
học, tự rèn luyện giúp SV nắm vững tri thức, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo
nghề nghiệp. Thật vậy, tự rèn luyện không chỉ giúp bản thân người học chiếm
lĩnh nguồn tri thức mà còn phát triển một số kĩ năng cơ bản, đó là điều kiện
cần để người học có đủ lượng tri thức đạt được như yêu cầu mong muốn khi

tìm hiểu khoa học.
Tự rèn luyện là nhiệm vụ rất cần thiết đối với SV khi tiếp cận tài liệu
học tập, tuy nhiên để có q trình tự rèn luyện đạt kết quả cao thì người học
cần phải làm việc dựa trên một quy trình các bước cụ thể. Như vậy, trong q
trình này người học chính là chủ thể tiếp nhận tri thức thông qua khả năng tìm
hiểu, phân tích, tổng hợp tài liệu dựa vào kiến thức của bản thân đã được cung
cấp trong hoạt động dạy học ở trường đại học.
1.3.

NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH, SGK MƠN TỐN TH

1.3.1. Đặc điểm cấu trúc nội dung mơn Tốn TH
Muốn phân tích chương trình, SGK mơn Tốn TH trước hết SV cần
phải biết xác định rõ ba đặc điểm cấu trúc nội dung như sau:
1. Mơn Tốn là môn học thống nhất về cơ sở khoa học và cấu trúc nội dung,
không chia thành các phân môn. Chương trình mơn Tốn được xây dựng theo
quan điểm lồng ghép, tích hợp. Hạt nhân của nội dung tốn học là Số học
(bao gồm số và phép tính, một số yếu tố đại số và yếu tố thống kê đơn giản).
Các mạch kiến thức khác như: Yếu tố hình học, Yếu tố đại lượng, Giải tốn
có lời văn được sắp xếp xen kẽ và bổ trợ cho nhau, trong đó nội dung Số học
là mạch kiến thức cơ bản, nó chi phối và quyết định việc lựa chọn những nội
dung toán học khác để dạy học ở mỗi lớp, mà không làm mờ nhạt đi đặc trưng
16

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

của từng mạch kiến thức. Đặc điểm này có thể nhận thấy rõ dựa vào cấu trúc

nội dung mơn Tốn TH.
VD 1:
Cấu trúc nội dung hạt nhân số học của mơn Tốn TH là cấu trúc theo
kiểu đồng tâm hợp lí, vì các kiến thức và kĩ năng về đọc, viết, so sánh, sắp thứ
tự, tính tốn với các số được sắp xếp, phát triển dần trong các vòng số và
được bắt đầu từ các vòng số 10, 100, 1000, 100 000, các số có nhiều chữ số,
phân số và số thập phân. Ngoài ra, trong mỗi vịng số này, ngồi nội dung Số
học (với tư cách là hạt nhân của mỗi tập hợp số) sẽ sắp xếp các nội dung đại
lượng cơ bản, yếu tố đại số, yếu tố thống kê, yếu tố hình học, giải tốn.
Ở lớp 1: trong vịng số 100
- Đối với mạch kiến thức Số học: các em đã được học đếm, đọc, viết các số
đến 100; thực hiện phép tính cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 100.
Cụ thể thực hành tính trên số tự nhiên như:
Bài 1: Đặt tính rồi tính
a) 25 + 13

b) 69 – 21

Bài 2: Tính nhẩm
a) 20 + 30 = …

b) 90 – 30 = …

c) 80 + 7 = …

Xen kẽ, bổ trợ cho mạch kiến thức số học thì các mạch kiến thức khác được
hình thành, có nhiệm vụ khắc sâu và củng cố các kỹ năng của mạch kiến thức
số học. Đồng thời hình thành, phát triển tư duy tính tốn trong các mạch kiến
thức khác.
- Mạch kiến thức đại lượng và đo đại lượng sẽ hình thành kỹ năng đọc, viết số

đo độ dài trong phạm vi 100. Thực hiện phép tính trong phạm vi 100 với số
đo theo đơn vị đo xăng-ti-mét.

17

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

Cụ thể khi thực hành tính có kèm theo đơn vị đo như sau (tức là dựa trên việc
thực hiện tính trên các số tự nhiên để tiếp tục thực hiện tính trên các số tự
nhiên có kèm theo đơn vị, đó là các số đo đại lượng):
Bài 1: Tính (theo mẫu)
a) 20cm + 10cm = 30cm

b) 30cm + 40cm = ….

c) 40cm – 20cm = ….

d) 32cm + 12cm = …

- Với mạch kiến thức hình học, học sinh biết vẽ, đo độ dài các đoạn thẳng
khơng q 10cm.
Bài 1: Vẽ đoạn thẳng có độ dài 12 cm.
Bài 2: Đoạn thẳng AB dài 3cm và đoạn thẳng BC dài 8cm. Hỏi đoạn thẳng
AC dài mấy xăng-ti-mét?
A

B


C

?cm
- Mạch kiến thức giải tốn: học sinh biết trình bày bài giải các bài toán về
thêm, bớt hoặc bài toán có một phép tính cộng, trừ.
Bài 1: Nhà Lan có 25 con thỏ trắng, mẹ mua thêm 14 con thỏ nữa. Hỏi nhà
Lan có tất cả bao nhiêu con thỏ?
Bài 2: Cửa hàng có 40 búp bê, đã bán đi 12 búp bê. Hỏi cửa hàng còn lại bao
nhiêu búp bê?
VD 2:
Việc thực hiện các phép tính trên số đo đại lượng, phép tính có nội dung hình
học, phép tính trong giải toán cũng được tiến hành như đối với các số tự
nhiên, phân số, số thập phân nhằm thể hiện sự lồng ghép các nội dung toán
học vào nhau và đảm bảo được nội dung Số học là hạt nhân của mơn Tốn
TH.
18

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp

VD: Bài tốn u cầu:
- Tính: 12cm + 8cm = ?cm
Trước đó HS đã biết thực hiện phép tính trên số tự nhiên: 12 + 8 = 20.
Như vậy, từ việc thực hiện được trên số tự nhiên, HS sẵn sàng giải quyết
nhanh phép tính đối với trường hợp có kèm theo đơn vị đo đại lượng.
Cụ thể: 12cm + 8cm = 20cm
- Tương tự, nếu là một bài tốn trong mạch kiến thức hình học u cầu: Tính

độ dài đường gấp khúc ABC. Với AB = 12cm, BC = 8 cm.
Với bài toán này HS cũng thực hiện phép tính trên số tự nhiên trước, và cho
kết quả như sau:
Độ dài đường gấp khúc ABC là: 12cm + 8cm = 20cm
B
8cm
A

12cm

C

- Tương tự, nếu có bài tốn như sau: An có 12 quả bóng, mẹ cho An thêm 8
quả bóng. Hỏi An có tất cả mấy quả bóng?
Đối với mạch kiến thức giải tốn thì u cầu địi hỏi cao hơn về cách trình
bày bài giải, lời giải và đáp số phải phù hợp với bài tốn.
Và cũng dựa trên việc thực hiện phép tính của số tự nhiên, giáo viên hướng
dẫn HS tìm lời giải và cách trình bài bài giải cho bài tốn. Cụ thể, có thể HS
đưa ra cách giải quyết sau:
Bài giải:
An có tất cả số quả bóng là: 12 + 8 = 20 (quả bóng)
Đáp số: 20 quả bóng

19

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học


Kho¸ ln tèt nghiƯp


2. Nội dung mơn Tốn TH được xây dựng dựa trên quan điểm, tinh thần của
toán học cao cấp, toán học hiện đại phù hợp với từng giai đoạn nhận thức của
HSTH.
Sự phối hợp hợp lí giữa bốn mạch kiến thức thể hiện tư tưởng coi trọng
tính thống nhất của tốn học. Việc hình thành khái niệm số tự nhiên theo tinh
thần của lý thuyết tập hợp; việc coi trọng đúng mức đến dạy một số tính chất
quan trọng của phép cộng và phép nhân và mối quan hệ giữa phép cộng và
phép trừ, phép nhân và phép chia; việc làm nổi rõ dần một số tính chất của
dãy số tự nhiên; cách giới thiệu về các số thập phân theo kiểu mở rộng tập
hợp số tự nhiên… đều có dụng ý quán triệt tư tưởng của tốn học hiện đại.
VD 1:
Ở lớp 1: Q trình dạy học hình thành khái niệm ban đầu về số tự nhiên trong
SGK mơn Tốn TH dựa trên cơ sở của lớp các tập hợp tương đương hay là
“Quan hệ tương đương” giữa các tập hợp.
Cụ thể, khi dạy bài “Số 1, 2, 3” – trang 10 thì SGK giới thiệu các tập hợp có
cùng số lượng phần tử (quan hệ tương đương) như:
Lớp thứ nhất gồm: một con chim, một bạn nhỏ, một ôtô, một con rùa…
Lớp thứ hai gồm: hai con mèo, hai quả bóng, hai chiếc thuyền…
Lớp thứ ba gồm: ba bông hoa, ba chiếc đồng hồ, ba con vịt…
Thuộc tính chung của các tập hợp đó là “cùng số lượng phần tử”. SGK
Tốn 1 đã mơ hình hoá các phần tử trong tập hợp bằng các chấm trịn. Khi đó,
số lượng phần tử của tập hợp đó gọi là bản số của lớp. Lớp thứ nhất gồm các
tập hợp có số lượng bằng nhau đều bằng một. Lớp thứ hai gồm các tập hợp có
số lượng bằng nhau đều bằng hai. Lớp thứ ba gồm các tập hợp có số lượng
bằng nhau đều bằng ba. Ta viết số 1, 2, 3 để chỉ số lượng lớp thứ nhất, lớp thứ
hai, lớp thứ ba. Vậy 1, 2, 3 là số tự nhiên.

20

Sinh viên: Nguyễn Thị Sao - Lớp 48A – Tiểu học




×