Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN DẠY HS LỚP 3 VÙNG SÂU, VÙNG XA HỌC PHÂN MÔN T LÀM VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.76 KB, 14 trang )

KINH NGHIỆM DẠY HỌC SINH LỚP 3
VÙNG SÂU VÙNG XA HỌC PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Giáo dục Tiểu học đang thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ trong mọi
môn học. Mỗi môn học ở Tiểu học đều chứa đựng trong đó nội dung giáo dục về
kiến thức, kỹ năng và thái độ cho học sinh nên môn học nào cũng đều rất quan
trọng. Bên cạnh các môn học khác, môn Tiếng Việt có vị trí hết sức quan trọng.
Việc dạy học Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt ( kỹ năng nghe – nói – đọc – viết) để hoạt động, giao tiếp trong môi
trường lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao
tác tư duy, tri thức, kỹ năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Bồi dưỡng cho HS
tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của
Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở
nhiều thể loại khác nhau như: Miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại bản
tin, tập tổ chức cuộc họp, giới thiệu về mình và những người xung quanh.
Trong môn Tiếng Việt, phân môn Tập làm văn là phân môn rất được quan tâm,
nhất là Tập làm văn lớp 3, nó mở lối cho những lớp học sau này. Ở lớp 2, các em
chỉ học những kiến thức đơn giản như: trả lời câu hỏi, viết văn theo gợi ý. Nhưng
khi lên lớp 3 các em lại được viết các văn bản ngắn như viết đơn, văn viết thư, văn
kể, tả lại sự việc được xem, được nghe, được chứng kiến.
Trong năm học 2012-2013, tôi được phân công chủ nhiệm, giảng dạy lớp 3C –
là một lớp học vùng sâu, đặc biệt khó khăn. Việc dạy học sinh lớp 3 vùng sâu nắm
được kiến thức Tập làm văn quả là không phải dễ. Đó là bài toán khiến cho tôi
luôn băn khoăn, trăn trở. Làm thế nào để dạy học sinh lớp 3 vùng sâu vùng xa học
Tập làm văn đạt hiệu quả? Đó là mục tiêu của sáng kiến này đặt ra.
Về tổng quan, Kinh nghiệm dạy HS lớp 3 vùng sâu, vùng xa học phân môn Tập
làm văn được trình bày theo từng phần như sau:
Phần A. Đặt vấn đề:
Trình bày lý do chọn viết sáng kiến kinh nghiệm Dạy HS lớp 3 vùng sâu, vùng
xa học phân môn Tập làm văn .


Phần B. Nội dung:
I.Thực trạng:
Nêu ra thực trạng về tình hình học Tập làm văn của học sinh trước khi áp dụng
kinh nghiệm vào giảng dạy.
1
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm lớp 3C do tôi chủ nhiệm để nắm được chất
lượng thực chất đầu năm học.
II. Nguyên nhân:
Trình bày nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng đã nêu trong dạy học hiện nay
( Bao gồm nguyên nhân từ phía học sinh và nguyên nhân từ phía giáo viên.)
III. Giải quyết vấn đề:
Qua việc nhận thức mới về vấn đề đặt ra, tôi đã trình bày các giải pháp trong
việc dạy HS lớp 3 vùng sâu, vùng xa học phân môn Tập làm văn nhằm cải thiện,
nâng cao chất lượng học tập cho học sinh (trong đó có một số ví dụ minh hoạ).
Bảng ghi kết quả khảo sát chất lượng học sinh để kiểm nghiệm kết quả của quá
trình áp dụng Dạy HS lớp 3 vùng sâu vùng xa học phân môn Tập làm văn, là minh
chứng cho việc áp dụng có hiệu quả việc dạy học theo kinh nghiệm đã nêu.
Phần C. Kết luận:
Trình bày rõ những điều cơ bản, bài học kinh nghiệm rút ra qua việc áp dụng
việc Dạy HS lớp 3 vùng sâu vùng xa học phân môn Tập làm văn .
Lời đề nghị, mong muốn được sự bổ sung, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, của
Hội đồng Khoa học để sáng kiến kinh nghiệm hoàn chỉnh hơn và việc áp dụng
được tốt hơn, kết quả Giáo dục được nâng cao hơn.
B. NỘI DUNG.
I. Thực trạng:
Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng Việt, vì
đây là môn học giàu tính sáng tạo mà tư duy của các em học sinh lớp 3 còn non
nớt, thiếu linh hoạt. Đặc biệt là HS vùng sâu, vùng xa. Các em chưa thạo tiếng phổ
thông, kỹ năng nghe, nói của các em còn hạn chế. Phần đa các em còn rụt rè, chưa
mạnh dạn. Khả năng diễn đạt suy nghĩ cũng như diễn đạt bài học còn chậm, yếu

thậm chí còn dùng luôn cả tiếng dân tộc mình vì không biết tiếng phổ thông hoặc
diễn đạt bằng ngôn ngữ còn khô khan, lúng túng, nhiều chỗ còn lộn xộn.
Trong tiết “Nghe – kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được chuyện mặc
dầu chuyện đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo
các gợi ý ở SGK thì em diễn đạt còn lúng túng, nhất là những học sinh yếu.
Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc,
chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối văn của riêng mình. Nhiều học sinh
còn dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
Nhiều em còn ngại học văn, lười suy nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát
biểu; viết bài qua loa cho xong chuyện, phần đa chỉ biết trả lời theo câu hỏi gợi ý.
Cách dùng từ, đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn lộn xộn, khô khan.
2
Tôi phải làm gì và làm như thế nào để giúp cho những học sinh lớp 3 vùng sâu
học Tập làm văn tốt hơn ? Với trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi không
thể nào yên tâm được, tôi nghĩ rằng nếu để tình trạng này kéo dài thì chất lượng
của lớp tôi sẽ kém đi và sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình tiếp thu của học sinh.
Trước hết để nắm được chất lượng học tập cũng như sự yêu thích môn tập làm, vào
đầu năm học, tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng của lớp tôi phụ trách,
kết quả khảo sát như sau:
* Kết quả kiểm tra qua 4 tuần đầu đạt được:
Tổng
số
Giỏi Khá BT Yếu
SL % SL % SL % SL %
16 0 0 2 12.5 8 50 6 37.5
Trong quá trình giảng dạy, qua việc tìm hiểu nguyên nhân và những biểu hiện của
học sinh, tôi đã tìm ra những biện pháp thích hợp đối tượng học sinh vùng sâu,
vùng xa.
II. Nguyên nhân.
Qua trực tiếp giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp và trao đổi ý kiến với các giáo viên

trong tổ khối, bản thân tôi rút ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng
học sinh vùng sâu chưa học tốt phân môn Tập làm văn.
1.Về học sinh.
- Chủ yếu các em học sinh thuộc con em dân tộc thiểu số, ít được tiếp xúc với
người Kinh nên chưa thạo tiếng phổ thông, ngôn ngữ Tiếng Việt còn quá hạn chế,
còn nghèo vốn từ Tiếng Việt.
- Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn Tập làm văn ở lớp 2 nên sự hiểu biết
của học sinh lớp 3 về phân môn Tập làm văn còn hạn chế.
- Khả năng sử dụng vốn từ vựng của các em còn hạn chế .
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức
độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao. Sự chú ý, óc quan sát, trí
tưởng tượng còn non nớt.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn quá ít.
- Một số đề bài Tập làm văn ở lớp 3 xa rời với thực tế hiểu biết, chứng kiến của
học sinh.
- Do không tích hợp được các phân môn khác như Tập đọc, Luyện từ và câu,…
vào phân môn Tập làm văn.
- Không có tài liệu tham khảo dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để
có thể đưa vào bài viết.
3
- Do hổng kiến thức ở các lớp dưới; ý thức tự học kém.
- Kiến thức, kỹ năng, vốn sống của một số phụ huynh còn hạn chế, không kèm
cặp cho con em học ở nhà.
2. Về giáo viên.
- Chưa linh hoạt trong giảng dạy, còn thụ động kiến thức ở SGK, chưa thoát ly
được ý tưởng gợi ý ở SGV.
- Khả năng diễn đạt của giáo viên còn hạn chế, ngôn ngữ chưa được trau chuốt,
giáo viên còn “bí từ” khi giảng.
- Chú trọng phần lý thuyết mà coi nhẹ phần thực hành (thời gian thực hành còn ít).
- Chưa đặt học sinh trước tình huống có vấn đề, chưa rèn cho học sinh thói quen tư

duy, động não; chưa tạo điều kiện cho học sinh phát huy năng lực sáng tạo của
mình.
- Giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm trong tiết học, chưa
biết khắc sâu, chốt nội dung khi dạy xong một tiết học
- Chưa thực sự đầu tư vào chất lượng bài soạn. Khi dạy cho học sinh “Kể hay nói,
viết về một chủ đề ” giáo viên chỉ nêu nội dung mấy câu hỏi ở SGK cho học sinh
trả lời bằng miệng sau đó yêu cầu học sinh viết về chủ đề đó.
- Chưa linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mà
chỉ giảng dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn, đơn điệu: “Giáo viên hỏi – học
sinh trả lời”.
- Một số bài trong chương trình đề ra chưa gần gũi với học sinh như: Lễ hội, tin
thể thao… Phương tiện chủ yếu là tranh trong SGK, dụng cụ trực quan thiếu, giáo
viên chỉ dùng lời nói để mô tả, nói suông nên học sinh, không nắm bắt được thông
tin, tiếp thu một cách mơ hồ, trừu tượng, khó hiểu vì vậy bài làm không đạt hiệu
quả cao.
- Mặt khác, giáo viên chưa phát huy hết vai trò gợi mở óc tò mò, khả năng sáng
tạo, độc lập ở học sinh. Từ đó làm cho các em cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú
học tập, chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn, tự tin trong học tập.
Chính vì những lý do trên mà việc học văn của học sinh lớp 3 vùng sâu còn
nhiều hạn chế.
III . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Nhận thức mới:
Để có một giờ dạy tốt đem lại hiệu quả cao thì cần nhiều yếu tố. Phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học là hai yếu tố quan trọng nhất. Chính vì thế mà người
giáo viên không ngừng tìm tòi, sáng tạo trong cách thức tổ chức và sử dụng
phương pháp dạy học nhằm phát huy cao độ ý thức tự giác học tập của học sinh.
Rèn cho các em khả năng vận dụng những cái vốn có của mình, tạo thói quen động
4
não, tư duy và khả năng sáng tạo trong học tập, hình thành và phát triển ở các em
phẩm chất năng lực của con người thời đại mới, thời đại khoa học công nghệ, nuôi

dưỡng và phát triển ở các em tình yêu thiên nhiên đất nước, yêu cuộc sống.
Với kết quả khảo sát đầu năm về chất lượng học của lớp, tôi băn khoăn, lo lắng,
cố gắng suy nghĩ để áp dụng tốt nhất phương pháp dạy học để vừa giảm tỷ lệ HS
yếu kém vừa nâng cao chất lượng HS khá, giỏi.
2. Biện pháp thực hiện:
2.1. Dạy học theo quan điểm giao tiếp.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt
thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với
thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, tôi luôn tạo cho học sinh
nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp
dạy học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học
tập, tích cực, sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng
nghe – nói – đọc – viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo
đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói.
Nghe và kể lại câu chuyện “Giấu cày” – Tập làm văn – Tuần 1.
Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý SGK… học sinh kể nội
dung câu chuyện .
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau
nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê
phán hóm hỉnh, hài hước, và kể lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu
bộ gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao
hơn.
Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe – nói, học sinh còn cần rèn kỹ năng
viết: nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp,
bố cục, phù hợp văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh
không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể
hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, thái độ yêu – ghét, trân trọng hay phê phán
của các em. Thông qua bài viết của các em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm

của các em về một vấn đề nào đó.
Ngoài ra, tôi chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao
tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và
có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói,
bài viết sẽ chính là tâm hồn, tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn – yêu
cái hay, cái đẹp, yêu Tiếng Việt – giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
5
Tuy nhiên, muốn làm được những điều trên thì ngoài vai trò là người thầy thì tôi
còn trong vai người bạn tâm tình của các em. Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của
các em, cùng trao đổi với các em bằng tiếng Việt để rèn kỹ năng sử dụng Tiếng
Việt cho các em. Hơn nữa, tôi yêu cầu các em đến trường phải giao tiếp với nhau
bằng tiếng Việt để các em thấy tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ quen thuộc. Từ đó
các em sẽ không còn rụt rè, e ngại mỗi khi phát biểu ý kiến, trình bày bài làm.
Bên cạnh đó, tôi luôn cố gắng làm giàu vốn từ ngữ cho các em bằng cách mượn
tài liệu tham khảo cho học sinh đọc thêm. Tôi phô tô cuốn Từ điển Tiếng Việt mini
để cho các nhóm học sinh tham khảo, tìm hiểu nghĩa của từ ngữ.
2.2. Giúp học sinh xác định cần phải tích luỹ vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống.
Có nghĩa là học sinh cần hiểu được có những cảnh vật, sự vật, con người, sự
việc diễn ra quanh ta tưởng chừng như rất quen thuộc nhưng nếu ta không chú ý
quan sát, nhận xét để ghi nhớ và có cảm xúc thì khó mà làm giàu thêm vốn hiểu
biết của mình.
Ví dụ: Khi dạy về chủ đề người lao động, tôi đã giao phiếu cho các em về
nhà điền vào theo mẫu in sẵn (hãy kể về những người lao động: người lao động trí
óc là những ai? Làm những công việc gì? Người lao động chân tay là những ai?
Làm những công việc gì? Em có suy nghĩ gì về những người lao động? ).
Hay để dạy tốt bài “Nói về quê hương” (Tuần 11- Tiếng Việt 3 tập 1) , tôi chọn
ngày đẹp trời, chọn cảnh vật để quan sát rồi dẫn học sinh đến địa điểm đó để chơi
trò chơi do tôi định hướng và quan sát cảnh vật có gì đẹp, thơ mộng không.
Ngoài ra, tôi luôn gần gũi, tìm hiểu chỉ bảo cho các em cách gọi tên những sự
vật, hiện tượng quen thuộc gần gũi với các em mà các em chưa biết tên gọi bằng

tiếng Việt. (Phải nói rằng việc hiểu biết tiếng dân tộc khi dạy con em dân tộc quả
rất quan trọng và hữu ích.) Học sinh sử dụng từ ngữ để diễn tả lại đặc điểm các sự
việc, hoạt động…phải chính xác
Ví dụ: Tiết Tập làm văn tuần12: Nói, viết về cảnh đẹp đất nước
Học sinh viết: Quê em có cảnh đồi núi bao la.
Giáo viên cần chỉ ra từ ngữ dùng chưa phù hợp là từ bao la, có thể sửa từ bao la
thành từ nhấp nhô hay trùng điệp.
2.3.“Tích hợp – lồng ghép” trong dạy học Tập làm văn .
Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân
môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,
Tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn.
Mối quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc của SGK: các bài học được biên
soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các
phân môn.
6
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài Tập đọc, Luyện từ và
câu…Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học
sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề Cộng
đồng. Cụ thể khi dạy bài Tập đọc –Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già – Tuần 8,
giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?
+ Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ?
+ Ông cụ gặp chuyện gì buồn?
+ Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm,
ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với
quá trình đó, tôi hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh
rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay.
Qua các câu trả lời của học sinh, tôi định hướng cho các em ý thức biết quan tâm

chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn kể về
những người thân, hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: con
người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh
làm cho mỗi người dịu bớt những nỗi lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống
tốt đẹp hơn.
Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch
lạc, lôgic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em
sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng
xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ
tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói quen
quan tâm, chia sẻ giúp đỡ những người trong cộng đồng.
Cũng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu – Tuần 8 cũng cung cấp cho
học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng thông qua hệ thống các bài tập. Cụ thể:
Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau:
Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương
Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào nhóm từ:
Nhóm 1: Những người trong cộng đồng Nhóm 2: Thái độ hoạt động trong
cộng đồng
Cộng đồng, đồng bào, đồng đội, đồng
hương
Cộng tác, đồng tâm
7
Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài
tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng
đồng thể hiện trong các thành ngữ đó:
Chung lưng đấu cật. (Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện một
công việc nhiều khó khăn trở ngại)
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. (phê phán thái độ thờ ơ, không quan tâm,
tương trợ người khi khác gặp khó khăn ).
Ăn ở như bát nước đầy. (Ca ngợi con người ăn ở cư xử với mọi người có tình, có

nghĩa, trước sau không thay đổi.)
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong
cộng đồng khi nói – viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống.
Ở phân môn Chính tả Tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề
Cộng đồng.
Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài Các em nhỏ và cụ già.
Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu
câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo
lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc
sống. Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện
tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.
Tương tự, ở phân môn Tập viết – Tuần 8, các em được làm quen với các thành
ngữ, tục ngữ về chủ đề Cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng:
“ Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”
Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết xoay
quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “ Kể về người hàng xóm mà em quý mến ”
( TLV 3 – Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ
đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
Chú Tư là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Chú là một thợ xây lành nghề.
Thân hình của chú vạm vỡ, bắp tay, bắp chân rắn chắc, trông chú cứ như một lực
sĩ. Ấy thế mà tính tình chú lại vui vẻ, dễ gần và hay giúp đỡ người khác. Em rất
quý chú Tư.
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn của Tiếng việt đều nhằm mục đích giúp
học sinh làm giàu vốn từ, có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích
hợp, lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3.
2.4. Tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng
kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết.
8
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 vùng sâu gặp nhiều khó

khăn trong việc nghe – nói – viết – kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do
vậy, tôi đã tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc,
hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được được những nét
đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ, trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết tôi cho học sinh sử dụng gợi ý trong
sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của nội dung câu
chuyện.
Tôi chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Tôi hướng dẫn các
em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để điễn đạt bằng tiếng phổ thông sao
cho phù hợp, dễ hiểu, đoạn văn lại sinh động.
Ví dụ: Dạy bài: Viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta
– Tuần 12.
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh
nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn
từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe – đọc tuy
không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh
mà học sinh nói đến.
Bài tập 2 - tuần 12: Học sinh quan sát ảnh chụp cảnh biển Phan Thiết.
HS quan sát tổng thể bức ảnh, sau đó quan sát từng hình ảnh cụ thể, màu sắc của
bức ảnh, thấy vẻ đẹp bức ảnh mình vừa quan sát, ngoài ra các em biết cách quan
sát một số bức tranh ảnh mà mình sưu tầm được.
Bài Tập làm văn tuần 25: Đề bài: “Quan sát một ảnh lễ hội dưới đây (SGK) tả lại
quang cảnh và hoạt động của những người tham gia lễ hội”.
Khi quan sát, học sinh cần nhận ra đâu là hoạt động chính của lễ hội. Đó là hoạt
động gì? Màu sắc trong tranh thể hiện không khí, quang cảnh lễ hội từ đó các em
bộc lộ tình cảm của mình đối với các hoạt động mang đậm nét phong tục tập quán
của địa phương.
Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,
giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với
người nghe. Do đó, tôi luôn khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng

những yếu tố phi ngôn ngữ này.
2.5. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo
hướng đổi mới.
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt
động học tập một cách chủ động tích cực.
Tôi sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm, đàm
thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một vấn
9
đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các hoạt cảnh, vận dụng
các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức… Qua đó học sinh lĩnh hội kiến
thức, tích cực, tự giác “học mà chơi – chơi mà học”. Không khí học tập thoái mái
khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát
biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách tự nhiên, lưu loát, rành mạch, dễ
hiểu.
Trong chương trình sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống
bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe – nói, nói – viết, nghe
– nói – viết Vì vậy, tôi bám sát mục tiêu, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh
hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy – học, phân bố thời gian
hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập
phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Tiết tập làm văn (tuần11) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện “Tôi có đọc đâu”.
Yêu cầu: Học sinh nghe và kể lại câu chuyện.
Tôi đã tiến hành dạy học như sau:
+ Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện.
+ Học sinh thảo luận theo nhóm dựa vào gợi ý, SGK, tranh và việc nghe giáo viên
kể để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.
+ Đại diện từng nhóm kể trước lớp.
+ Học sinh nhận xét.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm.

Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học sinh
tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học
sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh.
Bài 2: “Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở.”
Yêu cầu: Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập.
Tôi tiến hành như sau:
+ Giáo viên yêu cầu học sinh làm trong vở bài tập.
+ Học sinh trình bày trước lớp
+ Học sinh nhận xét bài làm của bạn
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm.
Qua việc nhận xét, bổ sung, cho điểm, tôi đánh giá được khả năng tiếp thu kiến
thức của học sinh, khả năng diễn đạt sắp xếp các ý theo đúng trình tự bài học chưa.
Từ nhận thức của học sinh giúp tôi lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học
10
phù hợp từ nội dung bài giảng, hệ thống câu hỏi gợi mở, hình thức luyện tập giúp
học sinh phát huy khả năng của mình và đạt hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra tôi đánh giá được cách truyền thụ kiến thức, phương pháp giảng giải
của chính bản thân để điều chỉnh cho phù hợp.
Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3
theo hướng tích cực tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các
hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo.
2.6. Dạy học hướng tập trung vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá
nhân.
Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một
câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và
hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng
những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích,
sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận và chọn phương án trả lời tốt
nhất. Nói ngắn gọn lại: học sinh tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông
tin và phân tích dữ kiện.

Ví dụ: Tiết tập làm văn Tuần 5 - Tập tổ chức một cuộc họp – đây là một bài khó,
Tôi thay vì dạy tổ chức cuộc họp thành dạy Tập tổ chức trò chơi theo nhóm.
+ Học sinh chọn trò chơi cho phù hợp.
+ Xác định đúng mục đích, cách tiến hành trò chơi.
+ HS trong nhóm được luân phiên thay nhau làm nhóm trưởng tiến hành điều
khiển nhóm mình chơi trò chơi.
Các em tự lựa chọn trò chơi, nêu ra cách chơi, luật chơi tức là các em nói về trò
chơi mình am hiểu nhất, phù hợp yêu cầu bài.
Từ nhận xét, bày tỏ ý kiến của học sinh, tôi định hướng, hướng dẫn học sinh
hình thức tổ chức: Các thành viên trong tổ bất kỳ ai cũng có thể là người điều
khiển và cũng là thành viên. Vì vậy khả năng diễn đạt mỗi học sinh được điều
chỉnh hoàn thiện dần. Bên cạnh đó còn rèn cho học sinh sự tự nhiên, mạnh dạn và
tự tin vào bản thân.
Như vậy thông qua một tiết Tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của
học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài.
Ngoài ra tôi nhận thấy rằng một biện pháp hữu hiệu giúp học sinh hào hứng,
tích cực tham gia vào tiết học Tập làm văn là giáo viên dạy bằng “Giáo án điện
tử”.
2.7. Dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.
Một điều quan trọng nữa là tôi tìm hiểu, nắm bắt được hoàn cảnh, tình hình
học tập của từng em, nắm rõ được những em học yếu tập làm văn, yếu ở mức độ
11
nào ? nguyên nhân do đâu, từ đó giảng dạy để thu hút tuyệt đối sự chú ý của các
em. Cố gắng tạo niềm tin trong giờ học, không để các em nhàm chán. Thay thế các
nội dung phù hợp với đối tượng học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài tuần 13: Viết thư (Em hãy viết một bức thư cho bạn ở một tỉnh
Miền Nam hoặc Miền Trung, miền Bắc để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học
tốt).
Đối với đề này tôi thấy không phù hợp với đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa
nên tôi đã tự chủ thay đổi nội dung đề bài là: Em hãy viết một bức thư cho bạn ở

trong huyện để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt.
Với những học sinh yếu thì bản thân tôi phải kiên trì và đưa ra những câu hỏi
gợi ý, gợi mở có thể chắt lọc các câu hỏi trong SGK thành các câu hỏi ngắn dễ
hiểu để học sinh viết được những ý chính của bức thư. Còn đối với học sinh trung
bình, kía thì chỉ gợi ý những câu hỏi trong SGK và hướng dẫn học sinh cách dùng
từ, đặt câu sao cho đúng cấu trúc ngữ pháp.
+ Em viết thư cho bạn tên là gì ? ở đâu ?
+ Mục đích viết thư là gì ?
+ Những nội dung cơ bản trong thư là gì ?
+ Hình thức của lá thư như thế nào ?
Sau đó tôi cho học sinh yếu được tự trình bày câu trả lời của mình và cho học
sinh trung bình, khá nhận xét và sau bài làm vào vở của học sinh tôi thường khen
ngợi động viên ngay '' Em rất cố gắng'' , hay ''Lần này bạn đã biết dùng từ rất hay''
sau mỗi lần khen là tôi đã gây được lòng tin ở các em.
Hay khi dạy tiết Tập làm văn tuần 23: Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật
Với học sinh vùng sâu chưa được xem các buổi biểu diễn nghệ thuật khác thì tôi
tự lựa chọn thay thế nội dung là '' Kể lại một buổi biểu diễn văn nghệ mà em đã
được xem'' nó vừa cụ thể và để các em dễ hiểu vừa phù hợp với đối tượng học sinh
lớp tôi.
Tôi đưa ra những câu hỏi gợi ý để học sinh biết các sắp xếp khi viết một đoạn
văn kể về việc mình được xem, được chứng kiến theo đúng trình tự như:
+ Buổi diễn văn nghệ được tổ chức ở đâu ? Khi nào ?
+ Em cùng xem với những ai ?
+ Buổi diễn có những tiết mục nào ?
+ Em thích tiết mục nào nhất ?
Từ đó học sinh trung bình, khá có thể viết được đoạn văn hoàn chỉnh, còn đối
với học sinh yếu, tôi phải đến tại chỗ gợi ý giúp các em sắp xếp các câu, từ đúng
thứ tự một bài văn. Ngoài ra tôi còn tự chủ về thời gian, là học sinh vùng sâu tôi
12
dành thời gian gợi ý nhiều hơn quy định và tự chủ về phương pháp, chắt lọc nhiều

câu hỏi nhỏ lẻ để gợi ý cho học sinh yếu, giúp tất cả các em làm bài tốt.
Bên cạnh đó là việc tổ chức cho các em học sinh khá thường xuyên giúp đỡ học
sinh yếu kém bằng cách bố trí học sinh khá ngồi gần học sinh yếu hay dùng câu từ
sai và giáo viên thường cho học sinh đó ngồi đầu bàn để các em dễ chú ý vào giáo
viên thường xuyên kiểm tra, giúp đỡ kịp thời.
Ví dụ: Em Mạc Thị Nghị còn dùng câu, lời văn chưa chính xác, lỗi chính tả còn sai
nhiều, chữ viết chưa đúng mẫu, tôi cho ngồi lên bàn đầu để thường xuyên theo dõi,
kèm cặp.
Ngoài những biện pháp trên, tôi còn tổ chức cho các em thi kể chuyện mình
được xem, được chứng kiến (Thi kể lại buổi diễn văn nghệ ở trường) hoặc tổ chức
trò chơi về Tiếng Việt để tạo dựng niềm tin yêu trường lớp, thiết tha học tập, gần
gụi với thầy cô.
PHẦN C. KẾT LUẬN.
1. Kết quả đạt được:
Những biện pháp trên đây được tôi sử dụng thường xuyên trong các tiết Tập
làm văn, tôi nhận thấy rằng học sinh ham thích học môn Tập làm văn, tham gia học
tập sôi nổi, hào hứng, mạnh dạn hơn, không còn rụt rè như trước kia nữa, Trong
giờ học các em mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, hăng hái phát biểu ý kiến.
Biết kể lại câu chuyện đầy đủ tình tiết, không rập khuôn máy móc.
Đến thời điểm này các em đã biết sử dụng nghi thức lời nói rõ ràng, đúng thái
độ. Bài làm của các em đã thể hiện cái mới, cái riêng của mình. Một số em yếu đã
diễn đạt được ý của mình. Những em khá, giỏi biết vận dụng vốn từ qua việc học
các phân môn khác vào bài viết của mình làm cho bài văn trở nên sinh động hơn.
Qua quá trình áp dụng phương pháp của mình, tôi thấy các em hào hứng, tích
cực hơn trong việc học tập tiếp thu kiến thức nên kết quả tăng lên rõ rệt.
* Kết quả khảo sát sau tuần 28.
Tổng
số
Giỏi Kh TB Yếu
SL % SL % SL % SL %

16 3 18.75 6 37,5 7 43,75 0 0
2. Bài học kinh nghiệm.
Từ kết quả đạt được, bản thân tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên cần làm chủ kiến thức, biết xâu chuỗi, hệ thống kiến thức để trang bị
kiến thức cho học sinh theo hướng dạy học tích hợp, lồng ghép các phân môn
Tiếng Việt.
- Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cao trình độ bản thân và nâng cao
13
tay nghề. Tìm hiểu, tham khảo thêm tài liệu để trau dồi vốn từ, vốn hiểu biết của
mình .
- Phải đầu tư nghiên cứu nội dung bài dạy sao cho phù hợp với vùng miền trước
khi lên lớp. Sưu tầm tranh ảnh, vật thật có liên quan đến bài dạy.
- Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Cần tổ chức, phối hợp linh
hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng tích cực Mặt khác phải
chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kỹ năng nghe – nói –
đọc – viết cho học sinh, tạo cơ hội cho nhiều HS cùng được tham gia trình bày ý
kiến của mình.
- Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy
bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của HS để tìm ra ưu khuyết điểm chính của học
sinh từ đó nhận xét, sửa chữa, góp ý đánh giá.
- Khi chấm bài GV cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để định
hướng cho HS khắc phục trong lần sau.
- Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay trong bài văn mẫu, đoạn hay,
bài làm hay của bạn, từ sách báo tham khảo.
- Biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng kể, lời
nhân vật; nói, viết thành câu.
- Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi.
- Phối hợp hoạt động học tập với các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Rèn cho học sinh có những thói quen và phương pháp học tốt để đáp ứng với yêu
cầu đặt ra. Đó là những giáo viên phải yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lý của trẻ

và bản thân phải nhiệt tình trong công tác giảng dạy.
- Bố trí chỗ ngồi thích hợp cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu kém.
- Thường xuyên lồng ghép trò chơi vào các giờ học chính khóa để các em nắm bắt
kiến thức một cách khoa học và chính xác.
- Giáo viên cần gần gũi giúp đỡ các em vượt mọi khó khăn để các em có chỗ dựa
vững chắc, tự tin khi làm bài.
Trên đây là một vài giải pháp dạy học cho học sinh vùng sâu, vùng xa tập
làm văn lớp 3 mà bản thân tôi tự rút ra khi giảng dạy cho học sinh yếu chắc chắn sẽ
chưa hoàn hảo được. Vậy tôi rất mong sự góp ý chân thành của Hội đồng Khoa
học các cấp để tôi có những bài học kinh nghiệm thiết thực vận dụng vào trong quá
trình giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.

14

×