Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Tìm hiểu thực trạng những nhân tố ảnh hưởng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.93 KB, 84 trang )

Nguyễn Thị Chuyên
MỤC LỤC
1
Nguyễn Thị Chuyên
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự đổi mới chung của đất nước, ngành Ngân hàng đã có
những bước tiến đáng kể trong tổ chức và hoạt động, ngày càng thể hiện
rõ vai trò to lớn và quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
nước ta từ một nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước cũng như trong sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với
bản chất của nó, chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Hoạt động
tín dụng là một trong những hoạt động chính của NHTM, một hoạt động
mang lại thu nhập chủ yếu cho NHTM, song nó cũng là một hoạt động
phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro.
Chúng ta biết và hiểu những rủi ro này để tìm mọi cách hạn chế
những đổ vỡ dễ gây thiệt hại, trước hết là đến ngân hàng và sau đó là toàn
bộ nền kinh tế. Để hoạt động của NHTM có hiệu quả và giảm thiểu rui ro
thì vấn đề trước tiên là phải quan tâm đến chất lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng tín dụng và an toàn trong hoạt động tín dụng
không chỉ là vấn đề quan tâm của ngân hàng mà còn là mối quan tâm
chung của toàn xã hội. Bởi vì chất lượng tín dụng ngân hàng tốt sẽ thúc
đẩy sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phát triển, tạo thêm
2
Nguyễn Thị Chuyên
công ăn việc làm, kinh tế tăng trưởng. Ngược lại, hoạt động kinh doanh
của ngân hàng kém hiệu quả chất lượng tín dụng có vấn đề thì nó dễ gây
ra thiệt hại không những cho ngành ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến cả
nền kinh tế.
Để làm tốt và tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong thời kỳ


mới, thì hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới phải thực sự
đổi mới cả về hình thức lẫn nội dung và nâng cao chất lượng hoạt động
nhằm đáp ứng chiến lược vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy, trước hết phải làm tốt công tác tạo “đầu
ra” tức là cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng được coi là “Đòn bẩy"để thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, chất lượng tín dụng
Ngân hàng không những có ý nghĩa đối với nền kinh tế mà nó còn có ý
nghĩa quan trọng và quyết định đến sự thành công hay thất bại của một
Ngân hàng.
Để hoạt động của NHTM có hiệu quả và giảm thiểu rủi ro thì vấn đề
trước tiên là phải quan tâm đến việc nâng cao chất lượng tín dụng. Nhận
thức tính cấp thiết của vấn đề này, xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín
dụng trên địa bàn, với tư cách là học viên chuyên ngành tín dụng Ngân
hàng, bản thân tôi cũng mong muốn được nghiên cứu, học hỏi. Sau thời
gian làm việc và nghiên cứu tại chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hải
3
Nguyễn Thị Chuyên
Dương, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Những giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thôn tỉnh Hải Dương".
Nội dung của đề tài rất rộng , khả năng cũng như thời gian nghiên
cứu có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót. Mong các thầy và các đồng
nghiệp tận tình tham gia ý kiến, giúp đỡ tôi để bản báo cáo thực tập
chuyên đề đạt kết quả tốt. Tôi xin chân thành cám ơn !
CHƯƠNG 1
4
Nguyễn Thị Chuyên
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường:
1.1.1. Khái niệm và phân loại.
1.1.1.1. Khái niệm:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động
chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu
các phương tiện thanh toán. Như vậy kinh doanh của Ngân hàng thương
mại khác với kinh doanh của các doanh nghiệp, sản phẩm của các doanh
nghiệp là một hàng hoá thông thường, còn Ngân hàng thương mại kinh
doanh một loại hàng hoá đặc biệt (đó là tiền) đầu vào, đầu ra của Ngân
hàng thương mại đều là "tiền" tức huy động những nguồn tiền tạm thời
nhàn rỗi của các tổ chức cũng như dân cư để cho vay đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của
Ngân hàng thương mại, một hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu
cho NHTM, song nó cũng là một hoạt động phức tạp và chứa đựng
nhiều rủi ro. Vậy tín dụng là gì? Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la
tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín
dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; Trong một quan hệ tài chính
5
Nguyễn Thị Chuyên
cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai
chủ thể; trong một số ngữ cảnh cụ thể thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với
thuật ngữ cho vay.
Trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng được hiểu là một giao dịch về
tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế
tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.

Vì tín dụng chỉ là sự chuyển nhượng một lượng giá trị tạm thời, sau
một thời gian phải hoàn trả cho nên lòng tin của khách hàng đối với ngân
hàng là rất quan trọng. Ngân hàng phải biết được khách hàng có sẵn lòng
trả nợ khi đến hạn không? Tư cách đạo đức, khả năng tài chính, năng lực
kinh doanh,dự án vay vốn Có đảm bảo khả năng trả nợ khi đến hạn
không? Trong công tác tín dụng nếu người cán bộ tín dụng chủ quan duy
ý chí sẽ rất dễ mang lại những tổn thất lớn cho ngân hàng và có thể làm
cho ngân hàng đi đến chỗ phá sản.
Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển
kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững chắc. Nếu tín dụng ngân hàng
không tạo được để mở ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất
6
Nguyễn Thị Chuyên
và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp sản xuất không
thực hiện được và nguồn tích luỹ từ lợi nhuận và các nguồn vốn khác sẽ
bị hạn chế. Hơn thế nữa, các đơn vị sản xuất có thể phải gánh chịu tình
trạng ứ đọng vốn luân chuyển không sử dụng được trong quá trình sản
xuất. Trong thực tế sản xuất kinh doanh có lúc xuất hiện tình trạng thừa
vốn và ngược lại vào các thời kỳ cao điểm mang tính thời vụ thì lại không
đủ vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Hoạt động tín dụng đóng
vai trò vừa là người tiếp nhận vốn của doanh nghiệp lúc thừa vốn vừa là
người cung ứng vốn cho doanh nghiệp lúc thiếu vốn. Với hoạt động tín
dụng, các ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội
của mình, làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và
từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.
1.1.1.2. Phân loại
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất đinh. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là
tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả
quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các tiêu thức sau đây:

1.1.1.2.1. Căn cứ thời hạn cho vay:
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng
nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã thoả
thuận trong Hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng .
7
Nguyễn Thị Chuyên
- Tín dụng ngắn hạn: Là khoản tiền ngân hàng cấp ra cho khách
hàng của mình với thời hạn tối đa là 12 tháng.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng ngân hàng cấp ra với thời
hạn từ trên 12 tháng đến tối đa là 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Là khoản tín dụng ngân hàng cấp ra cho
khách hàng với thời hạn từ trên 60 tháng ( hiện nay đến 10 năm)
1.1.1.2.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
Chia tín dụng ra thành:
- Tín dụng cho sản xuất: Là hình thức cấp tín dụng được đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất ( hay giải quyết nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh
doanh)
- Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức cấp tín dụng nhằm thoả mãn
những nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình và cá nhân như mua sắm
những tư liệu phục vụ cho sinh hoạt phục vụ cho tiêu dùng, trang trải cho
những chi phí như học tập, tham quan, du lịch….
- Tín dụng đầu tư: Là hình thức cấp tín dụng nhằm hình thành cũng
như mở rộng những tài sản cố định hiện có.
- Tín dụng xuất khẩu và nhập khẩu: Là hình thức cấp tín dụng được
thực hiện trong lĩnh vực xuất khẩu hay nhập khẩu.
- Tín dụng dự trữ: Là 1 hình thức cấp tín dụng để thoả mãn nhu cầu
dự trữ vật tư hàng hoá của khách hàng.
8
Nguyễn Thị Chuyên
1.1.1.2 3. Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng:

Chia tín dụng ra làm 2 loại: Tín dụng vốn lưu động và Tín dụng
vốn cố định:
- Tín dụng vốn lưu động: Nhằm giải quyết những nhu cầu vốn
thiếu hụt tạm thời trong sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn
( hay là tín dụng ngắn hạn)
- Tín dụng vốn cố định: Nhằm đáp ứng những nhu cầu hình thành
mới hay việc mở rộng cho các tài sản cố định( thời hạn trên 12 tháng_)
1.1.1.2 4. Căn cứ vào xuất sứ của tín dụng (hay xuất sứ hình thành
tín dụng):
Chia tín dụng thành tín dụng trực tiếp và tín dụng gían tiếp:
- Tín dụng trực tiếp: được hình thành từ quan hệ trực tiếp giữa
ngân hàng và khách hàng( người cho vay và người đi vay)
- Tín dụng gián tiếp: Việc phát tiền vay được thực hiện cho 1
khách hàng và việc thanh toán khoản nợ thì được thực hiện ở 1 khách
hàng khác.
Nếu trên kinh tế thị trường thì hình thức tín dụng gián tiếp là phổ biến
ở các nước khác 60% khoản vay thông qua nghiệp vụ triết khấu. Vì cho
vay bằng cách này có tính đảm bảo an toàn cao nhất, độ rủi ro thấp nhất.
1.1.1.2 5. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
Phân ra làm hai loại: Tín dụng bằng tiền và Tín dụng bằng hiện vật
9
Nguyễn Thị Chuyên
hay tài sản:
- Tín dụng bằng tiền là hình thức cấp tín dụng được thực hiện bằng
cách cấp tiền trực tiếp cho khách hàng.
- Tín dụng bằng hiện vật: thông qua việc ngân hàng mua 1 tài sản
và cho khách hàng được sử dụng bằng 1 hợp đồng
1.1.1.2.6. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả tiền vay:
Phân chia thành tín dụng trả góp và tín dụng thanh toán 1 lần:
- Tín dụng trả góp được thực hiện trong lĩnh vực tiêu dùng là chủ

yếu, qui định từng kỳ hạn khách hàng phải trả trong từng lần với số tiền
giống nhau.
- Tín dụng thanh toán 1 lần: Nguồn thu chủ yếu của người vay phụ
thuộc chủ yếu vào chu kỳ sản xuất ( cuối mỗi chu kỳ)
1.1.1.2.7. Căn cứ vào đảm bảo tiền vay:
Chia tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm
- Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức tín dụng mà trước khi ngân
hàng thực hiện việc cho vay đối với khách hàng phải sử sụng 1 khoản bảo
đảm cho 1 khoản tiền vay
- Tín dụng không có bảo đảm: Khi cho vay ngân hàng không yêu
cầu khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ đảm bảo cho khoản tiền vay.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường
10
Nguyễn Thị Chuyên
Tín dụng Ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với toàn
bộ nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công nghiệp,
thương nghiệp và nông nghiệp của đất nước. Cung ứng vốn ngân hàng đã
gián tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội. Tất cả giai đoạn của quá trình kinh
tế : sản xuất - phân phối - tiêu dùng đều cần phải có vốn. Có thể nói tín
dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng thực hiện toàn bộ quá trình kinh tế
cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Do thu nhập của nhà nước không phải lúc nào cũng tương ứng với
các khoản chi, đòi hỏi phải tạm thời vay nợ các ngân hàng thương mại-
Việc cung cấp tín dụng cho chính phủ trong những trường hợp như vậy
đã đảm bảo cho các hoạt động của chính phủ được trôi chảy.
Tín dụng Ngân hàng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội. Trong hoạt động kinh doanh tín dụng
bằng các nghiệp vụ cụ thể Ngân hàng đã huy động tối đa được các nguồn
vốn nhàn rỗi trong tổ chức kinh tế, dân cư và sử dụng linh hoạt các nguồn

đó để đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để đầu tư sản
xuất-kinh doanh trên cơ sở có cam kết và thực hiện đầy đủ các điều kiện
vay vốn của Ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy mở rộng sản
xuất kinh doanh và mối quan hệ giao lưu quốc tế. Ngày nay trong xu thế
quốc tế hóa, việc phát triển kinh tế của một quốc gia không chỉ bó hẹp
11
Nguyễn Thị Chuyên
trong phạm vi của đất nước mình mà hòa nhập với sự phát triển của khu
vực và thế giới. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam
nói riêng tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong quá trình mở
rộng xuất-nhập khẩu, giao lưu thương mại và khoa học kỹ thuật, điều này
đồng nghĩa với việc tín dụng Ngân hàng đã đóng vai trò quyết định trong
việc cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là công cụ cực kỳ quan trọng trong việc điều
tiết nền kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, góp
phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, chống lạm phát, thu hẹp
khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong xã hội.
1.2. Chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín
dụng.
1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng.
Tín dụng là một hoạt động chính và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho
Ngân hàng thương mại, song cũng là một hoạt động rất phức tạp và chứa
đựng nhiều rủi ro. Trong hoạt động tín dụng nếu người cán bộ tín dụng
mà chủ quan, duy ý trí sẽ rất dễ mang lại những tổn thất lớn cho Ngân
hàng và có thể làm cho Ngân hàng đi đến phá sản. Do vậy, để Ngân hàng
ra quyết định cho vay đúng đắn thì trước tiên cán bộ tín dụng cần hiểu rõ
về khách hàng, am hiểu về thị trường và thực hiện tốt những nội dung cơ
bản mang tính nguyên tắc của hoạt động tín dụng Ngân hàng nhằm ngăn
12

Nguyễn Thị Chuyên
ngừa và giảm thiểu rủi ro - muốn vậy phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Đề cập đến vấn đề chất lượng tín dụng không phải là điều mới mẻ nhưng
là vấn đề quan tâm hàng đầu của Ngân hàng thương mại.
Chất lượng tín dụng phải được hiểu theo hai khía cạnh đó là: hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Vốn vay của Ngân hàng được khách hàng
sử dụng đưa vào quá trình sản xuất-kinh doanh, dịch vụ sau một chu kỳ
sẽ tạo ra số tiền lớn hơn số tiền ban đầu. Số tiền này khách hàng dùng để
trang trải các chi phí ban đầu bỏ ra và hoàn trả nợ vay Ngân hàng gồm cả
gốc và lãi, đồng thời còn dành được một phần lợi nhuận. Về mặt xã hội,
thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ sẽ tạo ra công ăn việc
làm, hạn chế các tệ nạn xã hội phát sinh, thúc đẩy kinh tế trên địa bàn
phát triển.
Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại được hình thành và
đảm bảo từ 2 phía là từ Ngân hàng và từ khách hàng.
1.2.1.1. Về phía Ngân hàng : trước khi cho vay, Ngân
hàng phải cân nhắc vừa đảm bảo không vi phạm luật Ngân hàng, các qui
trình nghiệp vụ vừa giải quyết được đầu ra và có hiệu quả. Đây là một
vấn đề khó trong quá trình thực hiện, vì vậy khi quyết định cho vay đòi
hỏi Ngân hàng cần phải nghiên cứu, thẩm định kỹ, nắm bắt được thông
tin về khách hàng vay vốn, tiền vay được sử dụng vào mục đích gì? được
13
Nguyễn Thị Chuyên
sử dụng như thế nào ? khả năng sử dụng số tiền vay đó ra sao và có hiệu
quả không?
1.2.1.2. Về phía khách hàng: Nếu như khách hàng hoạt
động kinh doanh có hiệu quả thì Ngân hàng sẽ nhanh chóng thu hồi được
phần gốc và lãi khoản vốn mà Ngân hàng đã cho vay, ngược lại doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ không có khả
năng trả nợ, số nợ vay Ngân hàng quá hạn tăng lên và sẽ có thể dẫn đến

Ngân hàng không có khả năng thu hồi vốn. Vì vậy nếu các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế, cá nhân có trình độ quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh
tốt, hiệu quả kinh doanh cao, bảo tồn và phát triển được vốn thì chất
lượng đầu tư tín dụng Ngân hàng sẽ cao và ngược lại.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để
cho vay”. Do đó hoạt động tín dụng Ngân hàng đòi hỏi chất lượng
ngày càng được nâng cao vì nó giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và
phát triển của Ngân hàng.
Khác với xí nghiệp kinh doanh khác, Ngân hàng thương mại tiến
hành kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Nếu như “đầu vào” của các xí
nghiệp sản xuất tồn tại dưới hình thức vật chất như các tư liệu sản xuất và
“đầu ra” là hàng hoá thì trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại"đầu
vào” là tiền và “đầu ra” cũng là tiền. Như vậy vốn đóng vai trò quyết định
14
Nguyễn Thị Chuyên
trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, số vốn huy động được không
thể để nằm đọng tại két Ngân hàng mà Ngân hàng phải tiến hành cho vay
đối với các nhu cầu của xã hội sao cho có hiệu quả nhất nhằm thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển, mang lại lợi nhuận cho các nhà sản xuất
kinh doanh và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, đồng thời nó cũng mang
lại lợi nhuận cho bản thân Ngân hàng và bảo toàn được vốn.
Tuy nhiên, trong quá trình kinh doanh, các Ngân hàng gặp rất nhiều
tổn thất, rủi ro lớn. Trong thập kỷ trước chúng ta đã phải chứng kiến cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực (7/1997). Dẫn đến sự khủng
hoảng và phá sản của hàng loạt các Ngân hàng ở những nước có hệ thống
Ngân hàng phát triển như: Hàn Quốc,Thái Lan,Malayxia Những năm
gần đây tuy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã dần hồi phục và có
nhiều động thái tích cực, song vẫn gặp phải nhiều khó khăn như tình hình
thời tiết mấy năm qua diễn biến thất thường: lũ lụt ở miền Trung, đồng

bằng sông Cửu Long, hạn hán ở Tây Nguyên, và nhiều thách thức như
1/11/2006 Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế
giới(WTO) đánh dấu bước khởi đầu trong sự cạnh tranh thương mại toàn
cầu trong đó có ngành Ngân Hàng, đi kèm với tình hình lạm phát tăng
tiến nhanh từ 2004( hiện nay tính đến cuối 2007, lạm phát đã là 12,6%)
đã làm cho chất lượng tín dụng bị giảm sút nghiêm trọng, thiệt hại không
15
Nguyễn Thị Chuyên
những ngành ngân hàng phải gánh chịu mà nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng
nặng nề.
Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đối với hoạt động kinh doanh
Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một đòi hỏi khách quan và là
vấn đề vô cùng quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà là vấn đề
quan tâm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá và phân loại chất lượng tín dụng
Hiện nay chất lượng tín dụng Ngân hàng được đánh giá qua 2 nhóm
chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng.
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu định tính:
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá việc chấp hành các văn bản pháp
quy như: luật Ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng, các qui chế, qui
trình nghiệp vụ, chế độ thể lệ tín dụng và các văn bản chỉ đạo của Ngân
hàng cũng như của Chính phủ trong quá trình thực hiện qui trình cho vay,
Việc thực thi các văn bản này phụ thuộc vào trình độ năng lực chuyên
môn và tinh thông nghiệp vụ của CBTD, năng lực chỉ đạo điều hành của
người quản lý.
Khi cho vay Ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc tín dụng đó là:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
16
Nguyễn Thị Chuyên

- Phải được hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện theo qui định của chính phủ
và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Đồng thời cũng phải tuân thủ 2 điều kiện cho vay:
- Về mặt pháp lý, là điều kiện liên quan đến việc ràng buộc người
vay theo luật định.
- Về kinh tế, là điều kiện ràng buộc trách nhiệm khách hàng về
phương diện tài chính và là điều kiện liên quan đến tính toán cho vay, thu
nợ của ngân hàng.
Các nguyên tắc, điều kiện tín dụng là những yêu cầu bắt buộc
không thể thiếu được. Thực tế cho thấy một trong các nguyên tắc, điều
kiện ấy bị coi nhẹ thì sẽ dễ dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng vốn
vay sai mục đích, không quan tâm hiệu quả đầu tư
Hoạt động kinh doanh của khách hàng kém hiệu quả,
thua lỗ mất khả năng thanh toán Nhóm chỉ tiêu định lượng nhằm
đánh giá chất lượng tín dụng được thể hiện qua việc chấp hành các chỉ
tiêu cụ thể trên cơ sở so sánh số thực tế với con số giới hạn cho phép mà
các văn bản đã đề ra. Thông qua các chỉ tiêu đó đánh giá được thực trạng
chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng tín dụng của
một Ngân hàng người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu sau đây.có thể
17
Nguyễn Thị Chuyên
dẫn đến phá sản. Nợ quá hạn phát sinh dẫn đến chất lượng tín dụng Ngân
hàng giảm sút và có thể dẫn tới mất vốn.
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng.
- Khối lượng tín dụng và tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các
năm của chi nhánh:
+ Doanh số cho vay
+ Doanh số thu nợ

+ Dư nợ
+ Cơ cấu dư nợ: Dư nợ theo thời gian; Dư nợ theo thành phần kinh
tế; Dư nợ theo ngành kinh tế
- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
+ Vòng quay vốn tín dụng = Tổng doanh số trả nợ / Dư nợ bình
quân
+ Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / tổng dư nợ CV của tổ chức tín
dụng.
Đây là chỉ tiêu phản ánh thực trạng chất lượng tín dụng của tổ chức
tín dụng, song cũng cần phải đi sâu xem xét phân loại nợ quá hạn để đánh
giá thực chất của các khoản nợ quá hạn.
Phân loại NQH theo thời gian: Đến 6 tháng; từ 6 tháng đến 12
tháng; trên 12 tháng
18
Nguyễn Thị Chuyên
Phân loại NQH theo nguyên nhân: Khách quan; chủ quan của khách
hàng; chủ quan của ngân hàng
Phân loại NQH theo khả năng thu hồi: khả năng thu hồi 100%; khả
năng thu hồi một phần; không có khả năng thu hồi.
Ngoài ra còn sử dụng 1 số các chỉ tiêu để phân tán, phòng ngừa và
hạn chế rủi ro như:
+ Giới hạn cho vay đối với 1 khách hàng của tổ chức tín dụng:
không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
+ Các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng:
tỷ lệ cho vay tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay
trung dài hạn; tỷ lệ về khả năng chi trả; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Qua 2 nhóm chỉ tiêu ta thấy việc đánh giá chất lượng tín dụng thông
qua các chỉ tiêu định tính là đánh giá việc tuân thủ qui trình cho vay, các
văn bản pháp quy mà nhà nước, ngành ngân hàng ban hành. Việc thực
hiện tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, ý thức chấp hành thể lệ tín dụng,

tuân thủ qui trình cho vay của Ngân hàng.
Đối với nhóm chỉ tiêu định lượng, việc đánh giá chất lượng tín dụng
thông qua các chỉ tiêu định lượng có nhiều thuận lợi hơn, việc đánh giá
chủ yếu so sánh các số liệu thực tế với kế hoạch, năm nay so với năm
trước, với các tỷ lệ và các chỉ tiêu giới hạn, mà các văn bản đã quy định.
1.2.4. Các nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng
19
Nguyễn Thị Chuyên
- Chất lượng tín dụng quan trọng hơn mở rộng tín dụng: nên
nhớ"bất kỳ một thằng ngốc nào cũng có thể cho vay tiền nhưng để thu
được nợ thì lại cần một cái đầu thông minh". Ngân hàng không kinh
doanh, cho vay theo hình thức rủi ro mạo hiểm, bởi nếu làm như vậy thì
ngân hàng phải trả cho những người gửi tiền một lãi suất cao hơn rất
nhiều để có thể đền bù lại khả năng mất mát đối với các khoản tiền gửi
của họ.
Ngân hàng không thể nào thu được khoản phí đủ để bù lại các
khoản mất mát trong cho vay. Nhưng đôi khi trong quá trình cho vay
chúng ta rất dễ bỏ qua nguyên tắc về chất lượng tín dụng. Tình trạng này
cũng nguy hiểm chẳng khác gì một thương gia kinh doanh mà không nghĩ
đến lãi.
- Ngay từ đầu, tất cả các khoản cho vay phải có hai phương án trả
nợ tách biệt: Phương án một là mọi chuyện đều trôi chảy, phương án hai
là dự phòng trường hợp nếu dự án không thành công thì khách hàng phải
lấy tài sản của họ để trả nợ hay đi vay để trả nợ.
- Phẩm chất đòi hỏi đối với người vay tiền là phải hoàn toàn trung
thực: Nếu ngân hàng còn nghi ngờ sự trung thực, tư cách đạo đức hoặc ý
định của người đi vay thì tốt nhất là không nên tiến hành cho vay. Vì vậy
ngân hàng phải kiểm tra đạo đức nghề nghiệp cũng như cách thức kinh
doanh của người đi vay trước khi đi vào đàm phán.
20

Nguyễn Thị Chuyên
- Nếu như không hiểu rõ về khách hàng thì đừng quyết định cho
vay: Trước khi quyết định cho vay phải phân tích đánh giá chính xác
khách hàng về:
+ Năng lực pháp lý
+ Năng lực phẩm chất của người điều hành
+ Năng lực tài chính
+ Năng lực kinh doanh, môi trường kinh doanh
+ Tài sản đảm bảo.
- Việc có cho vay tiền hay không là quyết định của ngân hàng, ngân
hàng phải cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi ra quyết định cho vay: Việc
có cho vay tiền hay không là một quyết định mang tính độc lập. Mỗi cán
bộ tín dụng phải có sự nhậy cảm và khả năng đánh giá chính xác, các
quyết định trong mỗi giao dịch phải là quyết định của riêng mình và
không hề chịu ảnh hưởng bởi những người liên quan.
- Mục tiêu của khoản tiền cho vay phải hàm chúa cơ sở việc trả nợ:
Việc thẩm định các dự án là rất quan trọng, vì nếu dự án đầu tư phát huy
hiệu quả thì việc trả nợ sẽ rất thuận lợi. Mặt khác các khoản cho vay ngắn
hạn thì chứa đựng rủi ro ít hơn cho vay trung dài hạn (thời hạn càng ngắn
thì tính lỏng càng lớn)
- Ngân hàng cần có nhiều cơ sở dữ liệu thông tin về khoản vay:
Ngân hàng phải tốn nhiều công sức để cố gắng biết được thông tin. Việc
21
Nguyễn Thị Chuyên
nắm bắt thông tin, hiểu biết về lĩnh vực họ đang hoạt động sẽ tạo điều
kiện cho việc ra quyết định cho vay dễ dàng hơn rất nhiều.
- Chu kỳ kinh doanh là không thể biết trước: Ngân hàng phải luôn
nhận thức được thời điểm hiện thời của chu kỳ kinh doanh có thể đánh
giá được khả năng rủi ro chắc chắn phát sinh trong tương lai khi điều kiện
kinh tế thay đổi. Mọi thứ luôn luôn phát triển theo hai hướng, hoặc là xấu

đi hoặc là tôt hơn. Có thời điểm của chu kỳ kinh doanh việc cho vay chứa
đựng ít rủi ro hơn, việc cho vay trở nên nguy hiểm hơn trong điều kiện
kinh tế suy thoái.
- Cần phải đánh giá chất lượng quản lý của doanh nghiệp bên cạnh
việc đánh giá các báo cáo tài chính: chất lượng quản lý được thể hiện trên
mhiều phương diện: sự lựa chọn mang tính độc đoán hay dân chủ, sự dễ
dàng hoặc khắt khe trong việc cho phép những người bên ngoài công ty
nắm giữ các chức vụ quan trọng, phong cách hoạt động của các văn
phòng công ty, cách thức tiến hành đổi mới, danh tiếng trong cạnh tranh,
người điều hành công ty có phong cách sống thế nào Việc so sánh với
các công ty khác trong cùng ngành cũng sẽ giúp ngân hàng đánh giá đúng
hơn chất lượng quản lý của công ty vay tiền.
- Các khoản thế chấp không thể được coi là thay thế cho việc trả nợ:
Việc tin rằng nắm được tài sản thế chấp là cầm chắc việc thu hồi khoản
nợ của người vay chẳng khác gì chuyện "đười ươi giữ ống".
22
Nguyễn Thị Chuyên
- Khi khoản vay được đảm bảo bằng thế chấp thì các tài sản thế
chấp phải có tính khả mại (khả năng chuyển đổi thành tiền), đồng thời
ngân hàng nên có cách nhìn nhận ở góc độ chuyên môn và không thiên vị
đối với những tài sản này.
- Việc cho các doanh nghiệp nhỏ vay thì bao giờ cũng rủi ro hơn
cho các doanh nghiệp lớn vay: trong doanh nghiệp nhỏ, có ít người quản
lý hơn nên việc dẫn đến thành công hay thất bại của doanh nghiệp mang
tính cá nhân nhiều hơn, ở các doanh nghiệp lớn thì có nhiều cơ hội làm
việc hơn cho các nhà quản lý giỏi và việc ra quyết định mang tính tập thể
hơn.
- Không được cẩu thả trong việc lập hồ sơ tín dụng kể cả các chi tiết
nhỏ vì chúng dễ làm hỏng các khoản vay mà đáng lẽ có chất lượng tốt
- Các ngân hàng địa phương phải là những người cho các doanh

nghiệp địa phương vay: vì chỉ những ngân hàng địa phương mới là người
nắm rõ về khả năng rủi ro thất thoát khi cho vay đối với những công ty
này
- Cần xem xét thái độ nôn nóng xin vay tiền của doanh nghiệp: Tất
cả các quyết định cho vay đều phải xem xét kỹ, đối với những khách
hàng có thái độ nôn nóng muốn vay được tiền ngay thì càng phải cẩn
trọng, càng phải tìm hiểu kỹ trước trước khi cho vay.
23
Nguyễn Thị Chuyên
- Nếu một khoản vay được bảo lãnh thì chắc chắn rằng lợi ích và
trách nhiệm của người bảo lãnh cungx tương đương như người đi vay:
Cần phải biết rằng người bảo lãnh hoàn toàn nhận thức được trách nhiệm
của mình, bởi vì theo nguyên tắc có thể một ngày nào đó họ buộc sẽ phải
làm việc này.
- Cần phải biết chắc rằng khoản tiền mà ngân hàng cho vay được
khách hàng dùng vào việc gì: sau khi giải ngân một thời gian nhất định,
cán bộ tín dụng phải trực tiếp đến kiểm tra việc sử dụng vốn để xem
khách hàng sử dụng vốn có đúng như trong hợp đồng tín dụng không?
- Trước hết phải nghĩ về lợi ích của ngân hàng, khi nguyên tắc cho
vay bị vi phạm thì rủi ro sẽ tăng lên: Đánh giá chính xác, kinh nghiệm và
sự nhậy cảm là những dấu hiệu của một cán bộ tín dụng giỏi. Phải đặt lợi
ích của ngân hàng lên trên lợi ích cá nhân, trước khi quyết định cho vay
hãy tự hỏi mình "có dám đem tiền riêng của mình ra cho vay không?"
Tóm lại, hoạt động tín dụng là hoạt động chính của Ngân hàng
thương mại, là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
Nhưng hoạt động tín dụng là một hoạt động phức tạp và chứa đựng nhiều
rủi ro. Do vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đối với hoạt động kinh
doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường góp phần giảm thiểu rủi ro
và là vấn đề vô cùng quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà là vấn
đề quan tâm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để nâng cao chất lượng tín

24
Nguyễn Thị Chuyên
dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, ngoài việc có một cơ cấu bộ
máy tổ chức hoàn thiện và vững mạnh về mọi mặt cần phải có một đội
ngũ cán bộ tín dụng vững vàng và giỏi về chuyên môn, tinh thông nghiệp
vụ và nhạy bén về thị trường.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại là góp
phần vào việc giảm thiểu rủi ro và góp phần đảm bảo an toàn tiền vay.
Để nâng cao chất lượng tín dụng phải tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng.
Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc biệt, sản phẩm-dịch vụ
của ngành Ngân hàng khác với các ngành kinh doanh khác. Nên hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng không những chịu sự tác động của các
nhân tố từ chính bản thân ngành Ngân hàng mà còn chịu sự tác động của
các nhân tố khác như: kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội; môi trường pháp
lý của một quốc gia và chịu sự tác động của thiên tai dịch bệnh, trình độ
quản lý năng lực điều hành và hiệu quả kinh doanh của khách hàng.
Những nhân tố trên làm ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới hoạt động
kinh doanh của các ngành kinh tế và đồng thời nó sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng của Ngân hàng.
1.2.5.1. Nhóm nhân tố mang tính khách quan
1.2.5.1.1. Nhân tố kinh tế xã hội.
25

×