Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HÀ VĂN MAO
***************
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÂN LOẠI VÀ GIẢI BÀI
TẬP VỀ MUỐI AMONI
Người thực hiện: Vũ Quang Đạt
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lính vực (môn): Hóa học
THANH HÓA NĂM 2013
PHẦN I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bộ GD và ĐT đã thành lập “chương trình quốc gia bồi dưỡng nhân tài giai
đoạn 2008 − 2020” đây sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc bồi dưỡng, đào
tạo nhân tài cho đất nước. Việc tổng kết, đúc rút kinh nghiệm bồi dưỡng học
sinh giỏi là rất cần thiết và mang tính thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục.
Qua thực tiễn giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Hóa học tại trường
THPT Hà Văn Mao tôi nhận thấy bài tập về muối amoni thường để lại nhiều ấn
tượng sâu sắc. Chọn và chữa bài tập liên quan đến muối amoni khi củng cố hoàn
thiện kiến thức về nitơ và hợp chất của nitơ là một nhiệm vụ quan trọng của
người giáo viên dạy hóa học ở nhà trường THPT, không chỉ đơn thuần củng cố
các kiến thức đã học mà bài toán về muối amoni còn rèn luyện cho các em học
sinh kĩ năng nhận biết, chứng minh, liên hệ thực tế vai trò của muối amoni, khắc
sâu kiến thức về tính oxihoa của axit nitric và bản chất của phản ứng oxhoa - khử
Đặc biệt hay ở bài toán “Chất khử tác dụng với dung dịch HNO
3
tạo sản
phẩm chứa muối amoni” nếu khéo léo dấu đi sự có mặt của NH
4
NO
3
trong sản
phẩm thì dễ tạo bất ngờ thú vị cho người giải, phát huy được khả năng phán
đoán, rèn luyện tư duy ở mức độ cao, từ đó kích thích được tính ham hiểu biết
lòng đam mê đối với môn học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Hóa
học ở trường THPT.
Với những lí do trên tôi đưa ra sáng kiến: “Áp dụng Một số kinh nghiệm
phân loại và giải bài tập về muối amoni cho học sinh THPT” nhằm giúp
người học giải quyết tốt bài toán liên quan đến muối amoni từ đơn giản đến
phức tạp một cách có cơ sở vững chắc.
2
PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Quan niện về học sinh giỏi hoá học.
Sau khi tham khảo ý kiến của một số chuyên gia, chúng tôi có thể kết luận
một học sinh giỏi hóa học phải là:
- Có kiến thức cơ bản tốt: thể hiện nắm vững kiến thức cơ bản một cách sâu
sắc có hệ thống.
- Có khả năng tư duy tốt và tính sáng tạo cao: trình bày và giải quyết vấn đề
một cách linh hoạt, rõ ràng, khoa học.
- Có khả năng thực hành thí nghiệm tốt: Hóa học là khoa học vừa lý thuyết
vừa thực nghiệm, do đó không thể tách rời lý thuyết với thực nghiệm, phải biết
cách vận dụng lý thuyết để điều khiển thực nghiệm và từ thực nghiệm kiểm tra
các vấn đề của lý thuyết, hoàn thiện lý thuyết cao hơn.
2.1.2. Bồi dưỡng học sinh giỏi với việc đào tạo nhân tài cho đất nước.
Đảng, nhà nước và ngành giáo dục nước ta đã và đang có nhiều chính
sách ưu tiên, khuyến khích cho sự phát triến của nền giáo dục nói chung, trong
đó chiến lược bồi dưỡng nhân tài là một trong những nhiệm vụ then chốt, Bộ
GD-ĐT đã thành lập “chương trình quốc gia bồi dưỡng nhân tài” giai đoạn
2008 – 2020, đồng thời có nhiều chính sách ưu tiên, khuyến khích cho những
HS đạt giải HSG trong các kỳ thi HSG quốc gia, quốc tế.
2.1.3. Phương pháp phát hiện và tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học.
* Một số biện pháp phát hiện HSG.
Căn cứ vào các tiêu chí về HSG hoá học như đã nêu trên, Thông qua bài
kiểm tra, giáo viên bồi dưỡng HSG cần phải xác định được:
(1) Mức độ nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách đầy đủ, chính xác
của HS so với yêu cầu của chương trình hoá học phổ thông.
(2) Mức độ tư duy của từng HS và đặc biệt là đánh giá được khả năng vận dụng
kiến thức của HS một cách linh hoạt, sáng tạo.
3
* Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi hoá học.
- Kích thích động cơ học tập của học sinh.
- Xây dựng niềm tin và những kỳ vọng tích cực trong mỗi học sinh.
- Làm cho học sinh tự nhận thức được lợi ích, giá trị của việc được chọn vào đội
tuyển học sinh giỏi.
- Soạn thảo nội dung dạy học khoa học và có phương pháp dạy học hợp lý.
- Kiểm tra, đánh giá chính xác và kịp thời.
2.2. Thực trạng của công tác bồi dưỡng HSG bộ môn hoá học ở trường
THPT Hà Văn Mao hiện nay.
* Thuận lợi
Đội ngũ giáo viên hóa là đủ về số lượng; 100% có trình độ chuẩn và trên
chuẩn; nhiệt tình trong giảng dạy, một số GV cũng đã có kinh nghiệm trong
công tác bồi dưỡng HSG.
* Khó khăn
- Về phía giáo viên: Một số GV còn hạn chế về kinh nghiệm bồi dưỡng HSG,
phân bố thời gian, chương trình, kiến thức cần bồi dưỡng chưa hợp lý, thiếu sự
nhiệt tình, trách nhiệm trong công tác bồi dưỡng HSG, mặc dù đã có một số giáo
viên có quan tâm đến việc xây dưng các chuyên đề nâng cao dùng bồi dưỡng
HSG, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Về phía HS: Nền tảng kiến thức của các em học sinh miền núi còn thấp, đa số
học sinh thiếu sự cố gắng, say mê, nỗ lực của bản thân, các em và phụ huynh chỉ
quan tâm đến mục tiêu học để thi vào các trường Đại học nên không toàn tâm
toàn ý cho nhiệm vụ ôn thi HSG.
- Về phía nhà trường: Cơ sở vật chất phục vụ dạy học hóa học của trường còn
thiếu. Sự hỗ trợ về kinh phí để giáo viên trực tiếp bồi dưỡng HSG còn hạn chế.
2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện.
4
2.3.1. Chuẩn bị nội dung chuyên đề bồi dưỡng HSG.
* Nghiên cứu cấu trúc chương trình hoá học THPT nâng cao và THPT chuyên.
* Nghiên cứu đề thi HSG cấp trỉnh và cấp quốc gia nhiều năm.
* Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
* Tiến hành soạn thảo chuyên đề “ Phân loại và giải bài tập về muối amoni” .
2.3.2. Nội dung chuyên đề.
2.3.2.1. Cơ sở lý thuyết.
1. Sơ lược về muối amoni:
Thời xa xưa, trên các ốc đảo phồn vinh thuộc sa mạc Libi hiện lên những
đền thờ thần Mặt trời cổ Ai Cập là thần Amôn. Những người thổ dân ở đây, khi
chưng cất phân lạc đà đã thu được một loại muối trắng có các tính chất kì lạ:
nó biến mất ở chỗ đun nóng và xuất hiện chỗ cách đó không xa; khi rắc muối
này lên bề mặt những sản phẩm bằng kim loại đang nóng thì bề mặt kim loại
trở nên sạch và sáng bóng; khi thêm muối này vào axit nitric thì thu được "nước
vua" có khả năng hoà tan được cả vàng–vua kim loại. Vì những tính chất đặc
biệt đó nên người ta gọi nó là muối thần Amôn. Đó chính là muối NH
4
Cl và
ngày nay amoni được dùng để chỉ tất cả các muối có chứa ion NH
4
+
.
Ion NH
4
+
có cấu tạo tứ diện đều với 4 nguyên tử H ở đỉnh và nguyên tử N ở
trung tâm. Về bán kính ion NH
4
+
khá giống với K
+
và Rb
+
, tính tan tương tự như
các muối của kim loại kiềm Điểm khác biệt là:
- Muối amoni bị thủy phân tạo môi trường axit, có những muối bị thủy phân
hoàn toàn như (NH
4
)
2
S.
- Kém bền nhiệt, tùy thuộc vào bản chất của axit tạo muối, phản ứng nhiệt
phân xảy ra một cách khác nhau. Muối của axit có tính oxh như HNO
2
,
HNO
3
khi được đun nóng, axit được giải phóng sẽ oxh NH
3
thành N
2
hay oxit
của nitơ.
NH
4
NO
2
-> N
2
+ 2H
2
O
NH
4
NO
3
-> N
2
O + 2H
2
O
5
Muối của axit dễ bay hơi khi đung nóng sẽ phân hủy theo quá trình ngược với
phản ứng kết hợp. Ví dụ: NH
4
Cl -> NH
3
+ HCl
Các muối (NH
4
)
2
CO
3
, NH
4
HCO
3
phân hủy ngay ở nhiệt độ thường, trong
thực tế NH
4
HCO
3
thường dùng để gây xốp cho các loại bánh.
Muối amoni của axit khó bay hơi và nhiều nấc, khi đun nóng biến thành muối
axit và giải phóng NH
3
. Ví dụ: (NH
4
)
2
SO
4
-> NH
4
HSO
4
+ NH
3
. Nếu tiếp tục đun
nóng NH
4
HSO
4
phân hủy tạo SO
2
+ N
2
+ H
2
O
Muối amoni trong thực tế ứng dụng làm phân đạm. Quan trọng hơn hết là
các muối NH
4
Cl, (NH
4
)
2
SO
4
, NH
4
NO
3
. NH
4
Cl còn được dùng tạo khói mù trong
chiến tranh, đánh sạch bề mặt kim loại trước khi hàn, dùng làm chất điện li
trong pin khô và dùng trong công nghiệp nhuộm vải.
Các muối amoni thường được điều chế bằng cách cho NH
3
đi qua dung dịch
axit tương ứng.
2. Sự tạo thành NH
4
NO
3
trong phản ứng của chất khử với HNO
3
.
Chất khử tác dụng với dung dịch HNO
3
thì sản phẩm N
+5
có thể là NO
2
, NO,
N
2
O, N
2
hoặc NH
4
+
tùy thuộc vào bản chất chất khử, nồng độ axit và nhiệt độ.
Thông thường chất khử càng mạnh và nồng độ axit càng loảng thì N
+5
bị khử về
mức oxi hóa càng thấp. Trong chương trình hóa học ở bậc THPT ta thường gặp
trường hợp chất khử mạnh như Mg, Al, Zn có khả năng khử HNO
3
về NH
4
NO
3
.
Từ đây nếu khéo léo dấu đi sản phẩm NH
4
NO
3
trong bài toán thì sẽ tạo ra sự
nhầm lẫn hoặc mất phương hướng giải quyết ở người học. Chỉ khi nào chứng
minh được sự tồn tại của muối amoni thì mâu thuẩn mới được giải quyết và
người học mới có cơ hội hoàn thành được bài toán. Sau đây tôi xin trình bày
một số dạng toán về muối amoni, đặc biệt chú trọng bài toán chứng minh sự có
mặt của muối amoni khi cho chất khử tác dụng với HNO
3
.
2.3.2.2. Các dạng bài toán về muối amoni.
Dạng 1. Bài toán về ứng dụng của muối amoni.
6
Bài toán: Hãy giải thích vì sao khi bón các loại phân đạm NH
4
NO
3
,
(NH
4
)
2
SO
4
thì độ chua của đất tăng lên. Giải thích tại sao khi urê dùng làm
phân đạm ảnh hưởng không đáng kể lên độ chua của đất?
Bài giải:
Do muối NH
4
NO
3
gồm NH
4
+
có tính axit và NO
3
-
có tính trung tính. Giải
thích tương tự cho muối (NH
4
)
2
SO
4
.
Urê: (NH
2
)
2
+ 2H
2
O -> (NH
4
)
2
CO
3
.Muối (NH
4
)
2
CO
3
gồm NH
4
+
có tính
axit yếu và CO
3
2-
có tính bazơ yếu, nên muối này gần như trung tính, không làm
thay đổi đáng kể độ chua của đất.
Dạng 2. Tìm công thức của muối amoni.
Bài toán 1: Khi nhiệt phân 1 muối vô cơ X thu được các chất ở trạng thái
khí và hơi khác nhau, mỗi chất đều có 1 mol. Xác định công thức phân tử của X
biết rằng nhiệt độ dùng phân hủy không cao và phản ứng xẩy ra hoàn toàn. Khối
lượng mol phân tử của X là 79 g/mol. Viết phương trình hóa học của các phản
ứng xẩy ra?
Bài giải:
Một muối nhiệt phân khong cho chất rắn chỉ có thể là muối của thủy ngân
hoặc muối amoni. Ta loại ngay muổi của thủy ngân do không phù hợp về mặt
khối lượng mol.
Anion của gốc axit dễ bị nhiệt phân phải có gốc HCO
3
-
, hoặc CO
3
2-
hoặc
SO
3
2-
hoặc HSO
3
-
. Khi nhiệt phân các sản phẩm có số mol bằng 1, vậy NH
4
+
phải
kết hợp với các anion có hóa trị 1, nếu anion có hóa trị 2 sẽ tạo ra 2 mol NH
3
.
Muối có công thức: NH
4
SO
3
M = 99 ( loại)
NH
4
HCO
3
M = 79 ( thỏa mãn)
Bài toán 2: Hoà tan 9,875 gam một muối hiđrocacbonat (Muối A) vào
trong nước và cho tác dụng một lượng H
2
SO
4
vừa đủ,rồi đem cô cạn cẩn thận
được 8,25 gam một muối sunfat trung hoà khan.
Xác định công thức phân tử và gọi tên muối A
7
Bài giải:
Gọi công thức của muối A là M(HCO
3
)
n
, ta có phương trình hóa học của
phản ứng
2M(HCO
3
)
n
+ nH
2
SO
4
-> M
2
(SO
4
)
n
+ 2nCO
2
+ 2nH
2
O
Từ quan hệ số mol M(HCO
3
)
n
gấp đôi số mol M
2
(SO
4
)
n
ta suy ra M = 18n
n =1, 2, 3 ta chọn nghiệm thích hợp là n = 1, M = 18 => Muối A là
NH
4
HCO
3
Nhận xét: Có nhiều khi chúng ta kết luận không có kim loại nào thỏa mãn
hoặc nghĩ mình đã giải sai nếu không xét đến muối moni.
Dạng 3: Chứng minh sự có mặt của muối amoni trong bài toán chất khử
tác dụng với dung dịch HNO
3
.
A. Bài toán đơn giản
Bài toán 1 : Cho vụn Zn vào dung dịch HNO
3
loãng thu được dung dịch A
và hỗn hợp khí N
2
, N
2
O. Rót dung dịch NaOH cho đến dư vào dung dịch A thấy
có khí thoát ra. Giải thích thí nghiệm, viết phương trình hóa học của các phản
ứng.
Bài giải :
Vì A tác dụng với dung dịch NaOH dư có khí thoát ra chứng tỏ A chứa
muối amoni.
Phương trình hóa học :
4Zn+ 10HNO
3
→
4Zn(NO
3
)
2
+ N
2
O +5H
2
O
5Zn+ 12HNO
3
→
5Zn(NO
3
)
2
+ N
2
+6H
2
O
4Zn+ 10HNO
3
→
4Zn(NO
3
)
2
+ NH
4
NO
3
+3H
2
O
Dung dịch A chứa Zn(NO
3
)
2
, NH
4
NO
3
và có thể có HNO
3
dư
HNO
3
+ NaOH
→
NaOH + H
2
O
NH
4
NO
3
+ NaOH
→
NaNO
3
+ NH
3
+ H
2
O
Zn(NO
3
)
2
+ 2NaOH
→
Zn(NO)
2
+ NaNO
3
2NaOH + Zn(OH)
2
→
Na
2
ZnO
2
+ 2H
2
O
8
Nhận xét :
1- Đây là bài toán khá đơn giản học sinh trung bình cũng có thể nhận ra được
sản phẩm chứa muối amoni.
2 - Từ bài toán này ta thay Zn bằng Mg, Al ta sẽ có bài tập tương tự.
B. Bài toán phức tạp :
Bài toán 2: Hòa tan hoàn toàn 1,68gam kim loại Mg vào V lít dung dịch
HNO
3
0,25M vừa đủ thu được dung dịch X và 0.448 lít (đktc) một chất khí Y
duy nhất, nguyên chất. Cô cạn dung dịch X được 11,16g muối khan (quá trình
cô cạn không làm muối phân hủy). Tìm công thức phân tử của khí Y và tính V.
Bài giải :
n
Mg
=
24
68,1
= 0,07mol ; n
Y
=
4,22
448,0
= 0,02mol
Sau cô cạn dung dịch X chắc chắn sản phẩm có Mg(NO
3
)
2
0,07mol
=> m
Mg (NO3)2
= 0,07.148 = 10,36g < 11,16g
Vậy trong X còn có NH
4
NO
3
với khối lượng 11,16 – 10,36 = 0,8g
=> số mol NH
4
NO
3
=
80
8,0
= 0,01mol
Quá trình oxi hóa : Mg
→
Mg
2+
+ 2e
0,07
→
0,14(mol)
Quá trình khử : NO
3
-
+ 10H
+
+ 8e
→
NH
4
+
+ 3H
2
O
0,1 0,08
←
0,01 (mol)
xNO
3
-
+ (6x – 2y)H
+
+ (5x-2y)e
→
N
x
O
y
+ (3x-y)H
2
O
0,02(6x-2y) 0,02(5x-2y)
←
0,02(mol)
Theo định luật bảo toàn e ta có: 0,14 = 0,08 + 0,02(5x-2y)
5x-2y =2. Nghiệm hợp lí là x=y=1 . Vậy sản phẩm là NO
số mol HNO
3
= số mol H
+
= 0,1+ 0,08 = 0,18 mol => V= 0,72 lít
Nhận xét :
1- Ở bài toán này học sinh có thể mắc một số sai lầm như sau:
9
- Cho rằng sản phẩm duy nhất
- Cho rằng bài toán thừa sữ kiện khối lượng muối
2- Phương pháp chứng minh đúng: Thấy được mâu thuẫn, khối lượng muối
nitrat của kim loại bé hơn khối lượng muối khan sau phản ứng do bài toán cho
=> sản phẩm chứa muối amoni.
Bài toán 3: Cho 1,68gam Mg tác dụng vừa đủ với 500 ml dung dịch
HNO
3
aM thu được dung dịch Y và 0,448 lít (đktc) khí NO duy nhất. Tính a và
khối lượng muối thu được.
Bài giải:
Số mol Mg = 0,07 mol; số mol NO = 0,02 mol
Quá trình oxh:
Mg
→
Mg
2+
+ 2e
0,07
→
0,14(mol)
Quá trình khử :
NO
3
-
+ 4H
+
+ 3e
→
NO + 2H
2
O
0,08 0,06
←
0,02 (mol)
Ta thấy số mol e do chât khử nhường lớn hơn số mol e do chất oxh nhận .
Do vậy còn có một qúa trình khử N
+5
tạo sản phẩm khử trong dung dịch X đó là
NH
4
NO
3
NO
3
-
+ 10H
+
+ 8e
→
NH
4
+
+ 3H
2
O
0,1
←
0,08
→
0,01 (mol)
Ta có : Số mol HNO
3
= số mol H
+
=0,18 mol => a= 0,36 M
Khối lượng muối = 0,07.148 + 0,01.80 = 11.16 gam
Nhận xét :
1- Đây là bài toán tương tự bài toán 2 nhưng không cho khối lượng muối tạo
thành. Nếu thiếu cẩn thận học sinh có thể tính a và khối lượng muối như sau:
Số mol Mg(NO
3
)
2
= số mol Mg = 0,07 mol
=> khối lượng muối = 0,07.148 = 10,36 gam
10
NO
3
-
+ 4H
+
+ 3e
→
NO + 2H
2
O
0,08
←
0,02 (mol)
=> số mol HNO
3
= số mol H
+
= 0,08 mol => a= 0,08: 0,5 = 0,16 M
2- Cách chứng minh sự có mặt của muối amoni trong bài toán trên là: chứng
minh được số mol e do chất khử nhường lớn hơn số mol e do N
+5
nhận tạo khí
do vậy sản phẩm khử có mặt muối amoni.
Phức tạp hơn nữa khi chất khử là một hỗn hợp.
Ta xét tiếp ví dụ sau:
Bài toán 4: Cho hỗn hợp X gồm 0,15 mol Mg, 0,35 mol Fe phản ứng với
V lít dung dịch HNO
3
1M thu được dung dịch Y và hỗn hợp khí gồm 0,035 mol
N
2
O; 0,1 mol NO và còn lại 2,8 gam kim loại. Tìm V?
Bài giải:
Khi phản ứng với HNO
3
Mg sẽ phản ứng trước.
Khối lượng Fe ban đầu = 0,35.56 = 19,6 gam > 2,8 gam => sau phản ứng Fe dư
và muối trong dung dịch là muối sắt (II).
Số mol Fe phản ứng = 0,35 –
56
8,2
=0,3 mol
Quá trình oxh:
Fe
→
Fe
2+
+ 2e
0,3 0,6mol
Mg
→
Mg
2+
+ 2e
0,15
→
0,3(mol)
Quá trình khử:
NO
3
-
+ 10H
+
+ 8e
→
N
2
O + 5H
2
O
0,35
←
0,28
→
0,035 (mol)
NO
3
-
+ 4H
+
+ 3e
→
NO + 2H
2
O
0,4
←
0,3
←
0,1 (mol)
0,9 mol = n
e
nhường > n
e
nhận =0,58 mol => sản phẩm khử còn có NH
4
NO
3
Số mol e do N
+5
nhận tạo ra NH
4
NO
3
là: 0,9 – 0,58 = 0,32 mol
11
NO
3
-
+ 10H
+
+ 8e
→
NH
4
+
+ 5H
2
O
0,4
←
0,32
→
0,04 (mol)
Số mol HNO
3
= số mol H
+
= 1,15 mol => V= 1,15 lít
Bài toán 5 :
Hòa tan hỗn hợp X gồm Zn, FeCO
3
, Ag bằng lượng dư dung dịch HNO
3
thu được hỗn hợp khí A gồm 2 chất khí có tỷ khối đối với H
2
bằng 19,2 và dung
dịch B. Cho B tác dụng hết với dung dịch NaOH dư tạo kết tủa. Lọc kết tủa đem
nung ở nhiệt độ cao đến khối không dổi được 5,64g chất rắn. Tính khối lượng
hỗn hợp X, biết trong X khối lượng FeCO
3
bằng khối lượng Zn; mỗi chất trong
X khi tác dụng với dụng với dung dịch HNO
3
ở trên chỉ cho 1 sản phẩm khử.
Bài giải:
A
M
=19,2.2=38,4 A gồm 2 chất khí, trong đó có CO
2
(M= 44>38,4)
⇒
khí còn lại có M<38,4 và là sản phẩm khử HNO
3
của các chất trên
⇒
đó là NO.
Giả sử trong 1 mol A có x mol CO
2
⇒
NO
n
=1-x
Ta có :44x + 30(1-x) = 38,4
⇒
x=0,6 hay
2
CO
n
=
2
3
NO
n
Gọi a,b,c lần lượt là số mol của Zn, FeCO
3
, Ag trong X
⇒
2
CO
n
=b
Nếu sản phẩm khử chỉ có NO duy nhất
Zn
→
Zn
2+
+ 2e
Fe
2+
→
Fe
3+
+1e N
+5
+ 3e
→
N
+2
Ag
→
Ag
+
+
1e
2a+b+c = 3
NO
n
⇒
NO
n
=
3
2 cba ++
3
FeCOZn
mm
=
⇒
65a=116b
⇒
a > b
⇒
NO
n
> b+
3
c
>b =
2
CO
n
⇒
Trái với kết quả
2
CO
n
=
2
3
NO
n
vậy sản phẩm khí ngoài NO còn có
NH
4
NO
3
. Sản phẩm đó chỉ có thể do Zn khử.
4Zn + 10HNO
3
→
4Zn(NO
3
)
2
+ NH
4
NO
3
+ 3H
2
O (1)
12
3FeCO
3
+ 10 HNO
3
→
3Fe(NO
3
)
3
+ NO + 3 CO
2
↑
+5 H
2
O (2)
3Ag + 4 HNO
3
→
3AgNO
3
+ NO + 2 H
2
O (3)
Dung dịch B chứa
+
3
Fe
,
+
Ag
,
+
2
Zn
,
+
H
,
+
4
NH
,
−
3
NO
. Khi tác dụng với
dung dịch NaOH dư
H
+
+ OH
-
→
H
2
O
+
4
NH
+ OH
-
→
NH
3
↑
+H
2
O
+
3
Fe
+ 3OH
-
→
Fe(OH)
3
↓
+
2
Zn
+ 4OH
-
→
Zn
−
2
2
O
+ 2H
2
O
2Ag
+
+ 2OH
-
→
Ag
2
O + H
2
O
Nung kết tủa:2Fe(OH)
3
→
Fe
2
O
3
+ 3H
2
O
2Ag
2
O
→
4Ag + O
2
Chất rắn thu được là:Fe
2
O
3
, Ag
b=
2
3
(
3
cb
+
)
160
2
b
+ 180c= 5,64
=> b=c=0,003
⇒
48,3116.003,0
3
===
ZnFeCO
mm
g,
gm
Ag
24,3
=
=>
X
m
= 10,2g
Nhận xét:
Bài toán không cho sản phẩm khử duy nhất cho nên buộc ta xét 2 trường
hợp khi xét NO là sản phẩm khử duy nhất ta thấy không phù hợp
⇒
sản phẩm
khử có NH
4
NO
3
đó chỉ có thể do Zn tạo ra( theo nguyên tắc chất có tính khử càng mạnh khử
5+
N
về mức ô xi hóa càng thấp) sau khi giải quyết các vấn đề đó thì bài toán trở nên
đơn giản.
Một bài toán khá đặc biệt khi axít ban đầu chưa xác định
13
Bài toán 6:
Có 1 dung dịch axit A chưa biết, , để tác dụng hoàn toàn với dung dịch
axit A cần 5,94g Al. Thu được khí X (đktc) và dung dịch muối B. Để tác dụng
với muối B tạo dung dịch trong suốt cần 200g dung dịch NaOH 19,25%, A là:
A. HCl B. CH
3
COOH C. HNO
3
D. H
2
SO
4
Bài giải:
Ta có:
Al
n
=
27
94,5
=0,22mol
−
OH
n
=
NaOH
n
=
40.1
2.25,19
=0,9625mol
Al
→
+3
Al
→
−
+ OH4
[ ]
−
4
)(OHAl
số mol OH
-
cần dùng để phản ứng với muối nhôm là = 4.0,22=0,88 mol <
0,925 mol
⇒
lượng OH
-
còn lại phải tiêu tốn để phản ứng với
+
4
NH
trong dung
dịch B, vậy A là HNO
3
=> đáp án A.
Nhận xét:
1- Với bài toán này học sinh sẽ gặp khó khăn trong quá trình phán đoán
axit A vì cả 4 chất đều phản ứng được với Al tạo khí. Với những em học sinh
cẩn thận trong tính toán mới nhận ra được sự có mặt của muối amoni từ đó
chứng minh A là HNO
3
.
2- Cách chứng minh: So sánh lượng OH
-
cần phản ứng hết với muối của
kim loại với lượng OH
-
cần dùng trong bài toán rồi kết luận.
2.4. Kiểm nghiệm (Thực nghiệm sư phạm)
2.4.1. Mục đích
Trên cơ sở nội dung đã đề xuất, tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm
mục đích:
14
- Bước đầu thử nghiệm sử dụng các dạng bài tập về muối amoni trong việc bồi
dưỡng HSG hoá học ở truờng THPT Hà Văn Mao.
- Thông qua kết quả thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính hiệu quả của việc
áp dụng các dạng bài tập đã xây dựng.
2.4.2. Nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm
- Biên soạn tài liệu thực nghiệm sư phạm và giảng dạy đội tuyển HSG theo nội
dung của đề tài.
- Dạy đội tuyển theo các dạng bài tập đã đề xuất, từ đó quan sát mức độ tích cực,
chủ động trong học tập của HS khi tham gia đội tuyển. Căn cứ vào diễn biến của
mỗi buổi dạy, giáo viên kịp thời đưa ra những thay đổi cần thiết nhằm củng cố,
bồi dưỡng cho học sinh để các em phát huy tối đa tính tích cực, tự lực, chủ động,
sáng tạo trong học tập .
- Tiến hành kiểm tra sau khi dạy xong chuyên đề. Xử lý các kết quả thực nghiệm
sư phạm thu được, từ đó rút ra các kết luận về:
+ Năng lực học tập của HS.
+ Đánh giá tính hiệu quả và sự phù hợp của các dạng bài tập về cân bằng
của hợp chất ít tan trong dung dịch điện li đã đề xuất trong việc bồi dưỡng HSG
hoá học THPT.
- Rút ra kết luận về cách thức sử dụng hiệu quả các dạng bài tập đã xây dựng
trong việc bồi dưỡng HSG hoá học THPT.
2.4.3. Đối tượng và phương pháp thực nghiệm sư phạm
a) Đối tượng thực nghiệm sư phạm:
Đội tuyển HSG hoá học THPT Hà Văn Mao .
b) Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Tiến hành trao đổi trực tiếp với HS trong đội tuyển, từ đó nắm bắt tình hình
học tập thực tế của HS.
- Tổ chức kiểm tra trước thực nghiệm (bài tự luận 45 phút) để kiểm tra khả năng
học tập của học sinh và chia đều đội tuyển thành 2 nhóm:
+ Nhóm đối chứng (ĐC): 5 HS.
15
+ Nhóm thực nghiệm (TN): 5 HS.
- Quá trình dạy đội tuyển:
+ Ở nhóm đối chứng, giáo viên dạy học theo hệ thống lý thuyết, hệ thống
bài tập cũ.
+ Ở nhóm thực nghiệm, giáo viên dạy học theo hệ thống các dạng bài tập
về cân bằng của các hợp chất ít tan trong dung dịch điện li đã được biên soạn
theo nội dung của đề tài .
- Thời gian dạy chuyên đề: 3 buổi dạy (1 buổi lý thuyết và 2 buổi bài tập).
- Tiến hành kiểm tra và xử lý kết quả thực nghiệm:
+ Kiểm tra: Sau khi học xong chuyên dề, cho HS làm bài kiểm tra 45 phút.
+ Chấm bài kiểm tra theo thang điểm 10, sắp xếp kết quả kiểm tra theo thứ tự từ
thấp đến cao, phân thành 3 nhóm: Nhóm khá - giỏi (đạt các điểm 7, 8, 9, 10),
nhóm trung bình (đạt các điểm 5, 6), nhóm yếu, kém (đạt các điểm < 5).
+ Thống kê, xử lý, phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm.
+ So sánh kết quả kiểm tra giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng, từ đó
rút ra kết luận về tính khả thi của đề tài.
+ Kết quả thực nghiệm sư phạm và đánh giá
16
Bảng 3.1: Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm
Nhóm
Số
Số học sinh đạt điểm X
i
TB
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
TN 5 0 0 0 1 2 1 0 1 0 0 5,6
ĐC 5 0 0 0 2 1 0 1 1 0 0 5,6
Bảng 3.2: Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm
Số học sinh đạt điểm X
i
TB
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
TN 5 0 0 0 0 1 0 1 1 2 0 7,6
ĐC 5 0 0 0 1 0 1 1 1 1 0 6,8
2.4.4. Kết quả thực nghiệm sư phạm.
a) Nhận xét thu được từ phía học sinh.
Thông qua việc quan sát hoạt động học tập và trực tiếp trao đổi với HS về nội
dung và phương pháp dạy học mà chúng tôi đã triển khai, chúng tôi thu được
một số nhận xét sau:
- Nội dung dạy học bố trí theo các dạng bài tập giúp học sinh có điều kiện tìm
hiểu sâu và rõ ràng hơn các kiến thức về lí thuyết và bài tập phần dung dịch điện
li. Phát huy được các năng lực tư duy của học sinh một cách tối đa.
- Việc chia thành các dạng bài tập có tác dụng nâng cao hứng thú học tập cho
học sinh một cách rõ ràng.
- Nghiên cứu trước tài liệu ở nhà giúp cho việc học ở trên lớp hiệu quả hơn rất
nhiều so với trường hợp không được nghiên cứu trước tài liệu.
b) Các kết quả thu được từ việc phân tích số liệu thực nghiệm sư phạm.
Từ kết quả xử lý số liệu kết quả thực nghiệm sư phạm cho thấy chất lượng
học tập của HS ở các nhóm TN cao hơn nhóm ĐC tương ứng, cụ thể:
* Từ số liệu các bảng thực nghiệm
- Tỷ lệ % học sinh TB, kém (từ 4 – 6 điểm) của hóm TN thấp hơn của hóm ĐC
tương ứng.
- Tỷ lệ % học sinh khá, giỏi (từ 7 – 10 điểm) của nhóm TN cao hơn ở nhóm ĐC
tương ứng.
17
- Điểm trung bình cộng của học sinh nhóm TN cao hơn so với điểm trung bình
cộng của học sinh nhóm ĐC.
Tóm lại, các kết quả thu được căn bản đã xác nhận tính hiệu quả của đề
tài.
18
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trong quá trình giảng dạy hóa học và bồi dưỡng học sinh giỏi hóa học ở
trường THPT việc chọn lựa bài tập để phân hóa học sinh, phát hiện và bồi
dưỡng năng lực tư duy cho học sinh là một việc làm hết sức quan trọng, nhiệm
vụ cao cả đó thuộc về trách nhiệm của các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy trong
nhà trường. Khi cần củng cố, hoàn thiện kiến thức, rèn luyện kĩ năng cho học
sinh về hợp chất của nitơ chúng ta cần đưa hệ thống bài tập liên quan đến muối
amoni, một mặt khắc sâu kiến thức đã học về nó,mặt khác mở rộng đào sâu kiến
thức, rèn luyện tư duy cho các em, giúp các em trở thành những học sinh giỏi
hóa. Đặc biệt bài toán : “chất khử tác dụng với axít nitric tạo sản phẩm có chứa
muối amoni” nếu khéo léo dấu đi sự xuất hiện của nó trong bài toán, bắt buộc
học sinh chứng minh được sự tồn tại của nó trong sản phẩm là một biện pháp
hiệu quả để giúp học sinh củng cố và đào sâu kiến thức, kích thích tính ham
hiểu biết, tạo niềm vui trong học tập . Đó cũng là đi đúng quan điểm của nền
giáo dục nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài của tôi đưa ra trên cơ sở những kinh nghiệm thực tiễn trong giảng
dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của
mình vào việc nâng cao chất lượng dạy học hóa học trong nhà trường THPT,
bước đầu áp dụng đã có những hiệu quả nhất định.
Năng lực và những hiểu biết có hạn chắc rằng không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế nhất định, rất mong quí thầy cô quan tâm đến bộ môn hóa
học góp ý chân thành để tôi được hoàn thiện mình hơn, phục vụ tốt cho công tác
dạy học mà nghành giao phó.
3.2. Một số kiến nghị
Trên cơ sở những kết quả thu được trong trong quá trình nghiên cứu và
ứng dụng đề tài chúng tôi có ý kiến đề xuất như sau:
19
+ Cần phải khuyến khích và tăng cường việc xây dựng các nội dung kiến
thức dùng bồi dưỡng HSG để có thêm tài liệu hổ trợ giáo viên và HS trong công
tác bồi dưỡng HSG môn hoá học THPT.
+ Sở GD-ĐT Thanh hoá nên tổ chức định kỳ các cuộc hội thảo về công
tác “Bồi dưỡng HSG” để các GV có cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với các
đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 05 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban tổ chức kỳ thi . Tuyển tập đề thi olympic 30-4 từ năm 2000-2010 môn
Hóa học. Nxb ĐHQG Tp Hồ Chí Minh, 2000.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các đề thi học sinh giỏi quốc gia môn hoá học.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tài liệu hướng dẫn nội dung thi chọn học sinh
giỏi quốc gia.
4. Hoàng Nhâm. Hoá vô cơ. Nxb Giáo dục 2000.
5. Nguyễn Tinh Dung, Đào Thị Phương Diệp. Hoá học phân tích (Câu hỏi và
bài tập cân bằng ion trong dung dịch). Nxb Đại học Sư phạm, 2005.
6. Đào Hữu Vinh, Nguyễn Duy Ái. Tài liệu giáo khoa chuyên hoá học 10 - 11
– 12. Nxb Giáo dục, 2009.
21
M ỤC L ỤC
Trang
2.4.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm: 13 -
2.4.2. Nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm: 13 -
2.4.3. Đối tượng thực nghiệm sư phạm: 14 -
2.4.4. Kết quả thực nghiệm sư phạm: 15 -
Phần 3: Kết luận và kiến nghị: 16 -
3.1. Kết luận: 16 -
3.2. Kiến nghị: 16 -
Tài liệu tham khảo 17 -
22